Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Vai trò của nguyễn ái quốc trong việc thành lập đảng cộng sản việt nam. sự ra đời của đảng năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.93 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: …………………………………….
Học kỳ 1 năm học 2020-2021

Tên chủ đề: ……………………………………………………..

HÀ NỘI-2021


MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC HÌNH THÀNH
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM................................................................2
1.1. Cơ sở lý luận.....................................................................................2
1.2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................3
1.2.1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời......................................................................................................3
1.2.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời......4
II. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG ĐÁNH
DẤU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỒ CHÍ MINH........................................5
2.1. Vai trị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng. 5
2.1.1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc ta.........................................................................5
2.1.2. Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng..........5
2.1.3. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng


sản..........................................................................................................6
2.2. Sự ra đời của Đảng năm 1930 đánh dấu sự phát triển mang tính
bước ngoặt của Hồ Chí Minh.................................................................6
2.3. Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đối với bản
thân...........................................................................................................8
KẾT LUẬN......................................................................................................9
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................10

i


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Đảng ta ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đảng ra
đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng lãnh đạo cách mạng nước ta kéo dài hàng
mấy chục năm trời. Cách mạng Việt Nam đã có một chính đảng chân chính
duy nhất lãnh đạo - chính đảng của giai cấp cơng nhân. Đó là nhân tố quyết
định đầu tiên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Và ngày nay, nước ta
đang tiến hành đổi mới, cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước, hồ nhập
với các nước trên thế giớidưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam cùng những thắng lợi của cách
mạng gắn liền với tên tuổi của Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện Đảng. Qua tiến trình lịch sử, sự chuẩn bị về tư tưởng, đường lối và công
tác tổ chức của Hồ chủ tịch là những bằng chứng lịch sử hùng hồn nói lên vai
trị khơng thể thiếu của Hồ chủ tịch trong q trình thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam. Có thể nói Người là ngọn đuốc sói sáng cho con đường độc lập, tự
do của dân tộc, là người tiên phong trên con đường độc lập, thống nhất đất
nước. Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh đã, sẽ và vẫn mãi
là đường lối cách mạng khoa học sáng tạo, mang tầm lịch sử và trường tồn
cùng sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam.
Với đề tài: “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng

Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng năm 1930 đánh dấu sự phát
triển mang tính bước ngoặt của Hồ Chí Minh. Ý nghĩa vấn đề đối với bản
thân.”, tác giả muốn tìm hiểu kĩ hơn về vai trò lịch sử của Người trong sự
nghiệp cách mạng của đất nước.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC HÌNH THÀNH
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình xây dựng học thuyết về cách mạng vô sản, c. Mác và
Ph. Ăngghen chú ý tới việc thành lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư
bản chủ nghĩa để lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động lật đổ chế
độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được
đặt ra như một vấn đề bức thiết, Lênin phát triển nhiều luận điểm của c. Mác
về cách mạng trong điều kiện các nước thuộc dịa. Luận điểm về Đảng kiểu
mới của Lênin khơng chỉ nhằm xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng
giai cấp vơ sản rồi giải phóng quần chúng lao động, giải phóng con người mà
cịn nhằm trước hết giải phóng dân tộc rồi giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Lênin nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa
trong việc giải quyết quyền lợi giai cấp gắn liền với quyền lợi dân tộc: giải
quyết vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ trên lập trường cách mạng triệt để của
giai cấp vô sản.
Năm 1919. V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản bộ
tham mưu của giai cấp vô sản thê giới. Từ đây, cùng với lý luận của Lênin,
Quốc tế Cộng sản đóng vai trị quan trọng thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vơ sản.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ tìm thấy ở đây
con đường cứu nước đúng đắn, mà còn nhận thức được sự cần thiết phải có
một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vơ sản. Cuối tháng 12-1920, Người đã tán thành Quốc
tế III và là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
2


Pháp. Đây là sự phát triển lơgích tất yếu của tư duy Nguyễn Ái Quốc từ khi ra
đi tìm đường cứu nước và đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác
- Lênin.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước
thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất
nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ
máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của
giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự
cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ
thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết
quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã
man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn
cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đơng Dương vì lợi ích của giai cấp
tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm
hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân
ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế
Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.

Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích
văn hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối,
dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã
hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công
3


nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ
thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến
tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp.
Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân
tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ
chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai
không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu
tranh địi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam
đặt ra, cần được giải quyết.
1.2.2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân
tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh
anh dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta
liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng
trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh
hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân,
phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy
Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn
Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng
anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.

Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được
con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu

4


tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta
lúc bấy giờ.
II. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH
LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG
ĐÁNH DẤU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỒ CHÍ MINH
2.1. Vai trị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng
Vai trò to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam được thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau:
2.1.1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước đã diễn ra
tuy nhiên các phong trào yêu nước này lại thất bại, song nguyên nhân chính là
thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng khoa học dẫn đường, chưa
có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và nhất là chưa có một
tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bằng lịng u nước mãnh liệt và tầm nhìn sáng suốt của mình, Nguyễn
Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước, sau gần 10 năm nghiên cứu, khảo
nghiệm, học tập, tìm tịi, hoạt động khơng ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu
khắp các châu lục. Tháng 7/1920, lần đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng
trên báo Nhân Đạo số ra ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự

chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng
đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con
đường cách mạng vơ sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc
để tiến tới giải phóng con người.

5


2.1.2. Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong
nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước.
Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước
đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng
của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong
các lớp huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh.
Cùng với đó, Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức
cho sự ra đời của chính đảng vơ sản của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Đó là
huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở
Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75
đồng chí.
Trong những năm 1928 – 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa
Mác – Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá
về trong nước, cùng với phong trào “vơ sản hố” đã làm chuyển biến phong
trào công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự
giác.
2.1.3. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.

Với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người
sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày
07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã
được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Với sự nhất trí cao, Hội
nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương
6


vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các
văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
2.2. Sự ra đời của Đảng năm 1930 đánh dấu sự phát triển mang tính
bước ngoặt của Hồ Chí Minh
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện Việt Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề
thuộc lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng
như Quốc tế Cộng sản có đề cập nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những
năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư tưởng biệt phái, hẹp
hịi. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Quốc tế
Cộng sản (9-1928).
Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì khơng sát tình hình các nước thuộc địa,
nên đã phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra.
Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được
thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra
chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về
vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20-5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn
quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức mạnh

của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh đoàn
kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ
của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã
nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại
hội VI của mình, thì những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách
7


mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc đã trình
bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.
Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người
về công tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ
Chí Minh vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Đây là
điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh
quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi.
2.3. Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đối với bản
thân
Hơn 90 năm Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, với một chặng đường lịch sử vẻ vang và nền tảng
tư tưởng vững chắc ấy. Tuổi trẻ hôm nay luôn tự hào khi được sinh ra và
trưởng thành, được hưởng những thành quả lớn lao của lịch sử để hôm nay
được học tập, lao động, rèn luyện và cống hiến trí tuệ, nhiệt huyết của tuổi trẻ
để kế tục sự nghiệp mà thế hệ cha anh. Đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú hôm
nay vẫn từng ngày trau dồi kiến thức, nâng cao nhận thức; thi đua học tập,
nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật tiên tiến; xây dựng
phong trào tình nguyện; giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và trưởng thành hơn. Mỗi thanh niên hôm nay ln
có ý thức khơng ngừng tự tu dưỡng rèn luyện và hình thành cho mình bản lĩnh

sống, bản lĩnh chính trị vững vàng, bản lĩnh nghề nghiệp vững chắc; khơng
ngừng nỗ lực học tập, nâng cao trình độ chun môn nghiệp vụ, năng động và
sáng tạo, không ngừng rèn luyện nhân cách và lối sống, xung kích tình
nguyện vì Tổ quốc, vì cộng đồng để tiếp tục hồn thành sứ mệnh lịch sử vẻ
vang “là người chủ tương lai của đất nước” mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã
tin tưởng giao cho.

8


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh lịch sử với những điều kiện thuận lợi cả trong và ngoài
nước, việc thành lập một chính Đảng thống nhất cho giai cấp cơng nhân là tất
yếu, khách quan. Nhưng không thể bỏ qua nguyên nhân chủ quan mà vai trị
của Hồ Chí Minh hết sức quan trọng. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng & tổ
chức của Người là những điều kiện tiên quyết và quyết định đối với việc
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Tư tưởng của Người gắn liền với chủ
nghĩa Mác- Lênin hay nói cách khác, Hồ Chí Minh là người học trò xuất sắc
của Mác & Lênin, là ngọn cờ dẫn đường cho giai cấp vô sản ở Việt Nam. Có
thể nói vai trị của Hồ Chí Minh là vai trò của một lãnh tụ đối với phong trào
cách mạng và sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong thời kỳ tiến hành công cuộc đổi mới, nhiệm vụ xây dựng Đảng
đã được đề cập một cách thường xuyên và toàn diện; qua các đại hội gần đây,
Đảng ta đều có những điểm nhấn quan trọng. Đại hội X (năm 2006) tập trung
vào “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, Đại hội XI
(năm 2011) lấy “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng” làm một trong những thành tố quan trọng của chủ đề Đại hội, Đại hội
XII (năm 2016) nhấn mạnh: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh” ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị.
Để đáp ứng được sự gửi gắm niềm tin của nhân dân, Đảng phải thường

xuyên tự chỉnh đốn, tự khắc phục sai lầm, hạn chế, khuyết điểm, phải thật sự
là đảng chân chính, cách mạng, “là đạo đức, là văn minh”, mạnh dạn thực
hiện tự phê bình và phê bình, thành tâm học hỏi quần chúng nhân dân, dựa
vào nhân dân để cùng xây dựng, chỉnh đốn, bảo vệ, phát triển Đảng và hệ
thống chính trị vững mạnh, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, sớm
đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
vào giữa thế kỷ XXI.
9


10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 227, 220
- 221, 217, 253

2.

Nguyễn Đức Bách, Nhị Lê (Chủ biên) (2018), “Một số vấn đề định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb. Lao Động, Hà Nội.

3.

Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2016), “Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4.


Dương Phú Hiệp (2018), “Triết học và đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.

5.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 40, 185, 38

6.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 191

11



×