MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ.........................................................................2
1.1. Phong trào Cần Vương....................................................................2
1.2. Phong trào của Hoàng Hoa Thám..................................................2
1.3. Hệ tư tưởng dân chủ tư sản.............................................................3
13.1 Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu........................................3
1.3.2 Con đường cách mạng của Phan Châu Trinh...............................3
1.4. Phong trào Đông kinh nghĩa thục(1907):.......................................4
II. VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG HỘI
NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ TÁM (5/1941) VÀ THẮNG LỢI
CỦA CUỘC CÁCH MẠNG 1945..............................................................4
2.1. Đối với Hội nghị trung ương lần thứ Tám( 5/1941)......................4
2.2. Đối với thắng lợi của cuộc cách mạng 1945...................................9
2.2.1. Nội dung......................................................................................9
2.2.2. Nguyên nhân thắng lợi..............................................................11
KẾT LUẬN....................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................15
i
LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh - Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Người đã bôn ba cả đời khắp
năm châu bốn biển để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
Trong hoàn cảnh nhà nước ta đang khủng hoảng đường lối cứu nước, phong
trào cách mạng bị chia rẽ đã đòi hỏi phải có một lực lưỡng lãnh đạo và có một
đường lối cách mạng đúng đắn, một lý luận soi đường. Trước tình hình đó
Đảng đã ra đời và đó thật sự là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách
mạng dân tộc Việt Nam. Khi Đảng chưa ra đời đã có rất nhiều cuộc khởi
nghĩa nổ ra nhưng chúng đều bị thất bại trước sự đàn áp dã man của bọn thực
dân Pháp. Chỉ đến năm 1924 khi Nguyễn Ái Quốc trở về thống nhất ba Đảng
lúc bấy giờ thành một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam thì cuộc
khủng hoảng về đường lối cách mạng mới được giải quyết.
87 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam đã lập nên nhiều
kỳ tích. Cách mang Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện quan trọng, tạo bước
ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chấm dứt chế độ quân chủ hàng
nghìn năm trên đất nước ta. Thành cơng của Cách mạng Tháng Tám có nhiều
nguyên nhân mà trước hết thuộc về sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình
chuẩn bị Cách mạng Tháng Tám 1945, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương
Đảng diễn ra tháng 5/1941, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc có
vai trị và ý nghĩa đặc biệt to lớn. Do vậy, trong quá trình học tập và tìm hiểu,
tác giả đã chọn đề tài “ Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái quốc trong hội nghị
trung ương lần thứ Tám(51941) và thắng lợi của cuộc cách mạng 1945”
1
NỘI DUNG
I. HỒN CẢNH LỊCH SỬ
Trong q trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài và gian khổ, dân
tộc ta đã sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn ,tinh thần đấu tranh
anh dũng kiên cường. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã
liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã
tham gia đấu tranh dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước đương thời theo
nhiều khuynh hướng khác nhau. Tuy nhiên đến cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20,
cách mạng Việt Nam rơi vào hoàn cảnh khủng hoảng nghiêm trọng về đường
lối cứu nước. Rất nhiều phong trào kháng chiến nổ ra nhưng đều thất bại và bị
thực dân Pháp đàn áp.
1.1. Phong trào Cần Vương
Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam với
hoà ước 1884, cuộc đầu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm lược đã
chuyển qua mét giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn cơng trại lính Pháp mằn
cạnh kinh thành Huế, dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa
nhà vua yêu nước trẻ tuổi Hàm Nghi. Bị thất bại, Tơn Thất Thuyết đã phị vua
Hàm Nghi lánh vào vùng rừng núi, thảo chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu
văn thân cùng toàn dân tiếp tục chiến đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã
phát triển trong nhiều địa phương ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, cho đến những năm
cuối của thế kỷ XIX phong trào Cần Vương đã thất bại vì rời rạc, lẻ tẻ, thiếu
sự chỉ huy thống nhất.
1.2. Phong trào của Hoàng Hoa Thám.
Là phong trào “mang nặng cốt cách Phong kiến”.
Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885 – 1913) do Hoàng Hoa Thám và
Lương Văn Nắm lãnh đạo, diễn ra tại Bắc Giang. KN đã đánh thắng Pháp
2
nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn thiệt hại nhưng đến năm 1913 thì
bị dập tắt.
Thất bại của cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế chứng tỏ giai cấp phong
kiến và hệ tư tưởng phong kiến VN không đủ điều kiện để lãnh đạo phong
trào yêu nước và giải quyết thành công vấn đề độc lập dân tộc mà lịch sử đặt
ra.
1.3. Hệ tư tưởng dân chủ tư sản.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu
tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt
phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế
kỷ XX có sự phân hóa thành 2 xu hướng:
13.1 Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941)-quê
Nghệ An với chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân
Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc - Phát động phong trào Đông Du đưa
du học sinh Việt Nam sang Nhật học tập. Chọn Nhật vì đây là quốc gia “đồng
văn, đồng chủng”, nền kinh tế phát triển mạnh, hùng mạnh về quân sự.
Hành động của Phan Bội Châu được ví như “đưa hổ cửa trước rước beo
cửa sau”. Chủ trương bạo động là đúng nhưng tư tưởng cầu viện là sai (không
thể dựa vào đế quốc để đánh đế quốc được) .Cần xây dựng lực lượng trong
nước trên cơ sở đó mà tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế chân chính.
1.3.2 Con đường cách mạng của Phan Châu Trinh
Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương
vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lịng u nước cho nhân dân; đả
kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản;
thực hiện khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản
3
đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước ngoài, cầu xin Pháp đến khai hóa cho
VN.
Hành động của Phan Châu Trinh được ví như “xin giặc rủ lịng thương” .
Chủ trương dựa vào Pháp để thực hành cải lương của ông đã thể hiện một sự
nhận thức không đúng về chủ nghĩa tư bản đế quốc và nền văn minh tư bản
chủ nghĩa.
1.4. Phong trào Đông kinh nghĩa thục(1907):
Phong trào này diễn ra khá sơi nổi, dưới nhiều hình thức như: tun truyền
cải cách văn hố, xã hội, hơ hào thực nghiệp, đả phá tư tưởng và lề thói phong
kiến, bài trừ mê tín hủ tục, đả kích bọn tham quan ơ lại, cổ vũ lịng u
nước…
Tất cả những phong trào trên đều thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và
lòng yêu nước của nhân dân ta nhưng cuối cùng đều thất bại. Sự thất bại đó
biểu lộ tính chất non yếu của cách mạng Việt nam thời kỳ này. Sự nghiệp giải
phóng dân tộc càng lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước.Vấn đề đặt ra lúc này:cần phải tìm một con đưịng cứu nước khác với
con đường phong kiến và con đường dân chủ tư sản . Đó là một địi hỏi tất
yếu của cách mạng Việt nam đầu thế kỷ XX.
II. VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG HỘI
NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ TÁM (5/1941) VÀ THẮNG LỢI
CỦA CUỘC CÁCH MẠNG 1945
2.1. Đối với Hội nghị trung ương lần thứ Tám( 5/1941)
Sau 30 năm ra nước ngồi tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Nguyễn
Ái Quốc bí mật trở về nước. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về đến Cao
Bằng rồi nhanh chóng bắt tay xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng
tại đây.
4
Sau một thời gian chuẩn bị, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương do Nguyễn Ái Quốc chủ trì được triệu tập tại Pác Bó (Hà Quảng - Cao
Bằng), từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941. Tham gia Hội nghị có các đồng chí
Trường Chinh, Hồng Văn Thụ, Hồng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một
số đại biểu của Xứ uỷ Trung Kỳ, Bắc Kỳ và một số đại biểu hoạt động ở nước
ngồi.
Phân tích tình hình thế giới, Hội nghị nhận định: chiến tranh thế giới
đang lan rộng, phát xít Đức đang ráo riết chuẩn bị đánh Liên Xơ, phát xít
Nhật sắp gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Chiến tranh sẽ làm cho
các nước đế quốc suy yếu, phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển nhanh
chóng, Liên Xơ nhất định chiến thắng và cách mạng nhiều nước nhân đó mà
thắng lợi. "Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một
nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều
nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành cơng".
Phân tích tình hình Đơng Dương, Hội nghị nhận định: từ khi Nhật nhảy
vào xâm chiếm, Pháp đầu hàng Nhật, mọi hoạt động kinh tế ở Đông Dương
đều bị chiến tranh hoá, tất cả bộ máy cai trị đều bị phát xít hố. Chính sách
phản động đó của Pháp - Nhật càng làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông
Dương với chủ nghĩa đế quốc xâm lược thêm sâu sắc. "Các dân tộc Đông
Dương hiện nay bị dưới hai tầng áp bức bóc lột của giặc Pháp - Nhật. Ách áp
bức ấy quá nặng nề, các dân tộc Đông Dương không thể nào chịu được. Đế
quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà
chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh
tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách
nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp
bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng" . Các cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương cuối năm 1940 đầu năm
1941 là hệ quả của ách thống trị tàn bạo đó. Trên cơ sở nhận định tình hình,
5
Hội nghị xác định: "Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải
làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc
Pháp - Nhật". "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc… nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể
dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại
được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc". Như vậy, nhiệm vụ
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương.
Nhiệm vụ trước hết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho được
độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, căn
cứ vào đặc điểm Đông Dương, hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc
khơng phải chung trên tồn Đơng Dương mà trong phạm vi từng nước, để
"làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là
dân tộc Việt Nam)". Đây là cơ sở cho sự đổi mới hình thức tên gọi Mặt trận
dân tộc thống nhất để "có tính dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu
hơn". Để tập hợp được mọi người Việt Nam yêu nước, tranh thủ các lực
lượng cách mạng chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu của dân tộc là phát xít
Nhật-Pháp, hội nghị đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh
hội, gọi tắt là Việt Minh; tạm gác khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của địa chủ
chia cho dân cày”; đề ra chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt
gian chia cho dân cày nghèo; giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng cơng, tiến tới
thực hiện người cày có ruộng.
Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan, hội nghị cho rằng
"Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ
trang", chủ trương thành lập, phát triển và tăng cường lãnh đạo các tổ chức vũ
trang và nửa vũ trang; chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng
6
phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị nêu rõ:
"ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận
tiện hơn cả mà đánh lại quân thù, nghĩa là nay mai đây cuộc chiến tranh Thái
Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho
cuộc cách mạng Đơng Dương thắng lợi thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có
thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có
thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Như vậy, vấn đề khởi nghĩa vũ trang đã có những dự kiến bước đầu trong các
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939); Hội nghị Trung ương 7 (tháng
11/1940), sự đúc rút kinh nghiệm Xô viết Nghệ - Tĩnh, các cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Đơ Lương đến Hội nghị này được hồn chỉnh từ
những dự đốn xu thế phát triển của tình hình thế giới và trong nước của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị khẳng định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn
bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi. Đây là nhiệm vụ trung tâm
của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện thời.
Hội nghị cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết ba dân tộc ở Đông
Dương trong một chiến lược chống kẻ thù chung Pháp - Nhật và tay sai, giành
độc lập ở từng dân tộc, coi đó là vấn đề sống cịn của ba dân tộc. "Những dân
tộc sống ở Đông Dương đều chịu dưới ách thống trị của giặc Pháp - Nhật, cho
nên muốn đánh đuổi chúng nó khơng chỉ dân tộc này hay dân tộc kia mà đủ,
mà phải có một lực lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đơng Dương
họp lại" . Sau khi hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, "ta phải thi hành
đúng chính sách "dân tộc tự quyết" cho dân tộc Đông Dương".
Vấn đề xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng. Hội nghị chủ trương
gấp rút đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn về công
vận, nông vận, binh vận...; tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng, lấy việc
vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong tổ chức quần chúng của
Đảng, làm cho phong trào công nhân lên cao và tiên phong cho các phong
7
trào khác. Đảng bộ miền Nam, đảng bộ miền Trung phải giúp đỡ việc xây
dựng Đảng ở Campuchia, Lào,... nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo
sự nghiệp giải phóng dân tộc đi đến tồn thắng. Hội nghị cơng bố một số văn
kiện quan trọng như Chương trình Việt Minh, Điều lệ của Nông dân cứu
quốc, Điều lệ của du kích cứu quốc, lời kêu gọi nhân dân bản xứ trong tình
hình mới, văn kiện về vấn đề Đảng...
Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã kiện toàn ban lãnh đạo
của Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, bầu đồng chí Trường Chinh
làm Tổng Bí thư, bầu Ban Thường vụ gồm các đồng chí Trường Chinh,
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt. Chế độ làm việc của Ban Chấp hành
Trung ương theo nguyên tắc: nêu cao tinh thần trách nhiệm; đồn kết, nhất trí;
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; phê bình và tự phê bình. Ngay sau hội
nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã ra Lời kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh
đuổi đế quốc Nhật-Pháp.
Rõ ràng, nghị quyết của hội nghị lần thứ 8 đã đánh dấu bước tiến mới
trong tư duy cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, phát triển, hoàn chỉnh
những chủ trương được đề ra ở Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939) và
Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5/1941) đã phát triển sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản ở một nước
thuộc địa, tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc như nước ta; có tác dụng
quyết định trong việc vận động tồn Đảng, tồn dân tích cực chuẩn bị tiến tới
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Sau Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng, theo chỉ thị của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc, vấn đề “Nam tiến” được thực hiện khẩn trương. Nguyễn Ái
Quốc giao nhiệm vụ đánh thông hai con đường Cao Bằng - Lạng Sơn và Cao
Bằng - Bắc Cạn - Thái Nguyên để giữ vững liên lạc với Thường vụ Trung
ương Đảng, tạo điều kiện phát triển các cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang
cách mạng.
8
Năm 1944, phong trào cách mạng ở Việt Nam phát triển khá mạnh.
Trên cơ sở các lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, thực hiện chỉ thị
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Trong khi chú trọng xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, Hồ Chí Minh
gửi thư cho đồng bào cả nước khẳng định thời cơ giải phóng dân tộc đang đến
gần và động viên các đoàn thể, đảng phái ra sức chuẩn bị để họp Toàn quốc
Đại biểu hội nghị. Bức thư của Người có đoạn: “Phe xâm lược gần đến ngày
bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ
hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời
gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”
2.2. Đối với thắng lợi của cuộc cách mạng 1945
2.2.1. Nội dung
Đúng như nhận định của Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng từ hội
nghị Trung ương 8, phát xít Nhật và thực dân Pháp nhất định loại trừ nhau,
ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Từ ngày 9 đến
12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở Đình Bảng (Bắc
Ninh), ra Bản chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác
định thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, kẻ thù chính của dân tộc là phát
xít Nhật và bọn tay sai; phát động phong trào chống Nhật, cứu nước.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Sơn Dương,
Tuyên Quang) trực tiếp chỉ đạo cách mạng trong cả nước. Người chỉ thị thành
lập Khu giải phóng ở Việt Bắc, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Qn
Giải phóng và đề ra “10 chính sách” với mục đích đánh đuổi bọn phát xít và
bè lũ tay sai, chăm lo đời sống và mang lại các quyền tự do, dân chủ cho nhân
dân Khu giải phóng.
Lúc này, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Phát
xít Đức, Ý đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Quân Nhật vô cùng
9
hoang mang, dao động; phong trào cách mạng cả nước sơi sục. Nguyễn Ái
Quốc Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong tồn quốc. Người nói với đồng chí Võ Ngun Giáp: “Lúc
này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Hội nghị Toàn quốc của Đảng (họp từ ngày 13 đến 15/8/1945) ra quyết
định Tổng khởi nghĩa. Tiếp theo đó, Quốc dân Đại hội họp ngày 16/8/1945,
dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, thể hiện sự đồn kết tồn dân, đã nhất trí
tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng
Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng thời
quy định Quốc kỳ và Quốc ca của nước Việt Nam mới. Từ Quốc dân Đại hội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Tổng khởi nghĩa. Theo lời kêu gọi của Người,
toàn dân ta đã nhất tề đứng dậy làm Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước.
Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào trở về Hà Nội.
Người chủ tọa các cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, quyết định các vấn
đề đối nội và đối ngoại trong tình hình mới; xác định trước hết, phải sớm ra
bản Tun ngơn độc lập và ra mắt Chính phủ lâm thời. Ngày 2/9/1945, tại
Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tun ngơn độc
lập tun bố trước quốc dân và thế giới về quyền độc lập và tự do của đất
nước và dân tộc Việt Nam.
Như vậy, từ tư tưởng và định hướng của Hội nghị Trung ương 8 (tháng
5/1941), Cách mạng Tháng Tám đã thành công, mở ra một trang mới cho dân
tộc và lịch sử nước nhà.
Có thể nói, với sự có mặt và chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc Hồ
Chí Minh, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1941 đã hoàn
chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị đã
10
phân tích sâu sắc mâu thuẫn chủ yếu của xã hội và vạch ra những sách lược
cụ thể, sát hợp nhằm giải quyết mục tiêu chiến lược số 1 của cách mạng là
độc lập dân tộc. Trên cơ sở đó mà có những chủ trương sáng tạo như thành
lập mặt trận Việt Minh, xúc tiến khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần
tiến lên tổng khởi nghĩa. Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 đã góp phần bổ
sung và phát triển lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta.
2.2.2. Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó
nhân tố hàng đầu là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Sự lãnh đạo đó trước hết là sự hoạch định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối
cách mạng. Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về
nước. Người đã cùng Trung ương Đảng phát triển, bổ sung đường lối giải
phóng dân tộc, một tư tưởng lớn đã được xác định từ Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng (2-1930). Sự phát triển về đường lối được nêu bật tại Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Nêu cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, đặt quyền lợi của bộ phận, của giai cấp dưới lợi ích và sự tồn
vong của quốc gia, dân tộc. Tập hợp, đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, phát triển
lực lượng chính trị trong Mặt trận Việt Minh, từ đó xây dựng, phát triển lực
lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng Nhà nước cộng hịa dân chủ Việt
Nam. Chú trọng phát triển tình thế cách mạng và nắm bắt thời cơ. Xây dựng
Đảng vững mạnh bảo đảm sự thống nhất nhận thức và hành động trong tồn
Đảng. Nội dung cơ bản đó của đường lối tiếp tục được phát triển sáng tạo, cụ
thể hóa tại Hội nghị Thường vụ Trung ương (2-1943), Chỉ thị của Ban
Thường vụ Trung ương Đ.C.S.Đ.D Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” (12-3-1945) và nhất là Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào Tuyên Quang (14 - 15-8-1945). Đường lối cách mạng đúng đắn đã dẫn dắt
11
phong trào cách mạng của toàn dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi đến
thắng lợi.
Đảng coi trọng phát triển thực lực cách mạng, giải quyết đúng đắn các
mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan, khách quan, thời cơ và nguy cơ. Đảng
nhận thấy rõ, cách mạng của ta phải do ta tự làm lấy, vì vậy phải có sức
mạnh. “Dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi”. Nêu
cao ý chí tự lực, tự cường, đồng thời Đảng coi trọng sự ủng hộ từ lực lượng
bên ngoài, khi xác định cách mạng Việt Nam đứng về phe Đồng minh chống
phát-xít. Tháng 8-1942, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để liên lạc và tranh
thủ sự giúp đỡ của lực lượng Đồng minh, chống quân Nhật xâm lược. Đầu
năm 1945, Người lại sang Trung Quốc với sứ mệnh đó. Yếu tố bên ngồi là
quan trọng, song Hồ Chí Minh cho rằng sự đồng tâm hiệp lực của dân ta mới
là quyết định. Người kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Ngun Giáp, Nguyễn Lương Bằng phân tích sâu sắc tình hình trong nước và
chiến tranh thế giới thứ II để đi đến khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã
tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập”.
Thời cơ thuận lợi chính là lúc cao trào kháng Nhật cứu nước của nhân
dân Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước từ miền núi, nông thôn
đồng bằng đến đô thị; quân phiệt Nhật tuyên bố đầu hàng các nước Đồng
minh ngày 15-8-1945 và chính quyền phong kiến, chính phủ bù nhìn Trần
Trọng Kim suy yếu, hoang mang cực điểm; Trung ương Đảng và các tổ chức
đảng trong cả nước đã sẵn sàng đưa toàn dân vào hành động cách mạng với
nguyên tắc chỉ đạo: tập trung, thống nhất, kịp thời. Khi thời cơ chín muồi
cũng là lúc xuất hiện nguy cơ cần phải ngăn chặn, vượt qua. Thực dân Pháp
lợi dụng sự thất bại của Nhật, tìm cách quay lại khơi phục địa vị cũ ở Đông
12
Dương như trước ngày 9-3-1945. Các nước Đồng minh theo phân công của
Hội nghị Pôt-xđam (Đức) tháng 7-1945 vào giải giáp quân Nhật nhưng có âm
mưu xâm chiếm và chia cắt nước Việt Nam. Việc giành chính quyền thành
cơng trọn vẹn trong nửa cuối tháng 8-1945 là mẫu mực tuyệt vời về nghệ
thuật chớp thời cơ và do đó đã ngăn chặn được nguy cơ mới đe dọa vận mệnh
của dân tộc.
Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương có ý nghĩa quyết
định tồn cục, đồng thời cần phải nhấn mạnh tới tính chủ động, sáng tạo, tinh
thần trách nhiệm cao của đảng bộ các địa phương, của những cán bộ, đảng
viên tiêu biểu. Chỉ với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu
đồng bào cả nước làm nên chiến cơng có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử
mãi mãi ghi công những cán bộ, đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến
đấu của toàn dân. Khởi nghĩa ở Hà Nội 19-8-1945 với vai trị của các đồng
chí: Nguyễn Khang, Trần Tử Bình, Nguyễn Huy Khơi, Lê Trọng Nghĩa,
Nguyễn Quyết, Nguyễn Duy Thân… Cuộc khởi nghĩa ở Huế 23-8-1945 có sự
lãnh đạo của Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh… Khởi nghĩa ở Sài Gịn 25-8-1945
gắn liền với vai trị của Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Trần Văn Giàu và nhiều đồng
chí khác. Đảng bộ và các đồng chí lãnh đạo các địa phương khác cũng đã chủ
động hành động như thế. Sự vùng dậy của cả một dân tộc vì độc lập, tự do với
những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng cao đẹp của cuộc Cách
mạng Tháng Tám.
Bài học về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám có ý
nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn đối với các thời kỳ cách mạng tiếp theo,
nhất là với công cuộc đổi mới hiện nay. Đổi mới bắt đầu từ sự khởi xướng và
hoạch định đường lối từ Đại hội VI của Đảng (12-1986). Trải qua 30 năm đổi
mới, đường lối, Cương lĩnh của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển
trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đường lối đúng đắn,
13
Đảng đã lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước đạt được những thành tựu to
lớn, rất quan trọng. Hiện nay, cơ hội cho sự phát triển đất nước là rất lớn khi
ta đang đi trên con đường đúng với sự lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng
và Nhà nước; thế và lực của đất nước đã tăng lên rất nhiều; hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.
14
KẾT LUẬN
Lật giở lại những trang Lịch sử Đảng, chúng ta lại càng thấy rõ tầm vóc
và ảnh hưởng to lớn của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh. Tinh hoa trí tuệ
trong tư tưởng và năng lực lãnh đạo của Người đã giúp cho Đảng ta kịp thời
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đưa cách mạng Việt Nam phát triển phù
hợp với quỹ đạo vận động của thời đại, đồng thời có khả năng thâu tóm được
những thời cơ, vận hội quý báu để tạo bước ngoặt quyết định thắng lợi của
cách mạng. Bài học kinh nghiệm để Đảng ta hơm nay tiếp tục qn triệt và
vận dụng chính là phát huy năng lực lãnh đạo, kịp thời điều chỉnh, chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược một cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi.
Nguyễn Ái Quốc là người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc - con đường cách mạng vơ sản; tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê
nin vào nước ta nhằm chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng chính trị cho việc thành
lập chính đảng vơ sản ở Việt Nam, đặc biệt chính Người đã chủ trì Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam để thành lập nên Đảng Cộng sản
Việt Nam đồng thời xác định đúng đắn đường lơi cách mạng, thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt
của Đảng do Người khởi thảo. Đó được xem là cương lĩnh cách mạng đúng
đắn của Đảng có tác dụng chỉ đạo xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam,
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.122.
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2016), Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
3. Đảng cộng sản Việt Nam, (2000),Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 7
4. Võ Nguyên Giáp (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
16