Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vai trò chủ quan với việc hình thành tư tưởng hồ chí minh cá nhân mỗi sinh viên học được gì qua nghiên cứu nhân cách, phẩm chất và trí tuệ của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.74 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH...................................................................................................2
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh............................2
1.1.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam...............................................................................2
1.1.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây........2
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin................................................................3
1.2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh......4
1.2.1. Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911...4
1.2.2. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
trở thành người cộng sản (1911 - 1920)................................................5
1.2.3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (19201930)......................................................................................................5
1.2.4. Thời kỳ Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên
định của Người về cách mạng Việt Nam (1930-1941).........................7
1.2.5. Thời kỳ Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, thời kỳ phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh (1941-1969). 8
1.3. Vai trị chủ quan với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. 11
1.3.1. Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh...................................11
1.3.2. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh.....11
CHƯƠNG II. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH, PHẨM CHẤT
VÀ TRÍ TUỆ CỦA HỒ CHÍ MINH........................................................13
i


2.1. Phẩm chất Hồ Chí Minh..............................................................13
2.1.1. Về phong cách làm việc............................................................13
2.1.2. Về phong cách lãnh đạo............................................................13
2.1.3. Về phong cách diễn đạt.............................................................14


2.2. Nhân cách trong sáng của Hồ Chí Minh....................................15
2.3. Vấn đề tri thức, trí tuệ Hồ Chí Minh.........................................16
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO Q
TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI SINH VIÊN. .17
3.1. Thanh niên cần xác định rõ những nội dung tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức trong tình hình hiện nay............................................17
3.2. Thanh niên nhận thức rõ tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cần
được tiến hành thường xuyên, liên tục, suốt cả cuộc đời.................18
3.3. Mỗi đoàn viên, thanh niên gắn việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức với thực tiễn hoạt động học tập, lao động, công tác, trong các
mối quan hệ của bản thân..................................................................20
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................23

ii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ này, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo những giá trị
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước trong bối cảnh hiện nay.
Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng ta
đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị và tồn xã hội kiên quyết, kiên trì đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí một cách triệt để và có hiệu quả ngày
càng cao hơn. Qua đó, xử lý nghiêm và kịp thời những hành vi tham nhũng,
lãng phí theo tinh thần “khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ”, “tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng,

lãng phí;... xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà
cho người dân, doanh nghiệp”. Từng bước xây dựng được một hệ thống pháp
luật hồn thiện, hiện đại, nhân văn, lấy lợi ích của nhân dân và của đất nước là
mục đích tối thượng. Qua đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Vai trị chủ quan
với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Cá nhân mỗi sinh viên học
được gì qua nghiên cứu nhân cách, phẩm chất và trí tuệ của Hồ Chí
Minh.” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo
lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần
của con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng
nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn
sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ
Chí Minh) đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy
nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó
cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa
phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
1.1.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây

Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của
văn hố phương Đơng. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư
tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách
mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy
vốn là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình
cảm của Người khơng phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường”
2


nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu
thân”, sự ham học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hồ nhã”, cách đối nhân xử thế
“có lý, có tình”. Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai
huynh đệ”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc
kỷ phục lễ”,... của các nhà hiền triết phương Đơng được Hồ Chí Minh hết sức
trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo,
Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của nó.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm
nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng
Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung
Quốc)... Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy
lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ
Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hố phương Đơng phương Tây,
nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lêninnít.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến
nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian
đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn
dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên

Người đã nghe. Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm
quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước
trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO),
một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và
trở thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản
trong tư tưởng của Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin
3


đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết,
tư tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con dường cách mạng giải
phóng dân tộc đứng đắn.
1.2. Q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh
nước mất, nhà tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước từ thuở
nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp thụ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền
văn hiến của nước nhà và những tinh hoa văn hố phương Đơng, Người lại
được hưởng nền giáo huấn yêu nước, thương nòi của gia đình, truyền thống
đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người
thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lịng u nước, nhân ái,
thương người, có hoài bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc
lập tự cường của dân tộc. Vốn có tư chất thơng minh, linh khiếu chính trị sắc
sảo, với ý chí lớn tìm đường cứu nước, cứu dân. Người khơng đi theo con
đường phong kiến, lối mịn của các bậc tiền bối. Người nói: “Vào trạc tuổi 13,
lần đầu tiên tơi nghe những tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thế là tôi
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau

những từ mĩ miều ấy. Vì thế tơi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao
và tôi tới Pari để học hỏi”.
Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu
rất quan trọng về văn hố Đơng - Tây và lịng u nước nhiệt thành với chí
hướng rõ rệt: trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà
yêu nước lớp trước.

4


1.2.2. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành
người cộng sản (1911 - 1920)
Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người cịn
đến nhiều nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế
quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi.
Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ
đau của nhân loại là các nước đế quốc “chính quốc”.
Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối
năm 1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình
sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở
Vécxây (Pháp). Thực chất của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc
địa được dấu dưới những lời lẽ “tự do”, “cơng bằng”, “nhân đạo”, theo
chương trình 14 điều của Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: giải
phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, gắn giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp vơ sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm
Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập
(3-1919).

Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với
việc Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá
trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - chủ
nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vơ sản chân chính.
1.2.3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong trào cơng
nhân “chính quốc” và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ
5


xã hội và tri thức của mình. Nhờ thơng hiểu nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng
với nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây,
nắm được cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt
động quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn về chiến lược sách lược cách
mạng thế giới, qua thực tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách
mạng, Hồ Chí Minh đã tích lũy được nhiều tri thức cách mạng, dần dần trong
tư duy của Người hình thành nên một luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng giai cấp vơ sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng
nhân loại. Cũng từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến, đã từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm
vụ của Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nơng dân…, Hồ
Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình về nước
chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên
báo Người cùng khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí
Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh là
những cơng cụ quan trọng trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu
nước từng bước chuyển từ yêu nước truyền thống thành yêu nước theo lập
trường cách mạng vô sản.

Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin của Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng Việt Nam có những
chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng theo xu hướng tư tưởng tư sản
đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt
Nam cách mạng thanh niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời:
Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và
Đơng Dương Cộng sản liên đồn (l-1930).

6


Trước tình hình ở Đơng Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày
28-11-1929, Quốc tế Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng
sản Đơng Dương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh
đã chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-21930.
Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ
Chí Minh soạn thảo.
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc
điểm của xã hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân
trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn
quyền lãnh đạo cách mạng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
1.2.4. Thời kỳ Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên định
của Người về cách mạng Việt Nam (1930-1941)
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện Việt Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề

thuộc lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng
như Quốc tế Cộng sản có đề cập nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những
năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư tưởng biệt phái, hẹp
hịi. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Quốc tế
Cộng sản (9-1928).

7


Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì khơng sát tình hình các nước thuộc địa,
nên đã phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra.
Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được
thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra
chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về
vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20-5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn
quan điểm xa rời thực tiễn Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh đoàn
kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ
của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã
nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại
hội VI của mình, thì những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam, về đoàn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc đã trình
bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.
Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người
về công tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ
Chí Minh vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Đây là
điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh
quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi.

1.2.5. Thời kỳ Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
thời kỳ phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh (1941-1969)
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của đảng về cơ bản
là thống nhất.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương
lần thứ 8 của Đảng. Quan điểm chủ đạo của hội nghị này là nêu cao vấn đề
giải phóng dân tộc coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu
8


gọi: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đảng cứu giống nịi
rút khỏi nước sơi lửa nóng”. Đồng thời, ngày 19-5-1941, Hồ Chí Minh sáng
lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, không
phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo v.v... nhằm đoàn kết mọi lực
lượng yêu nước chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Nghị quyết hội nghị
Trung ương lần thứ 8 và Chương trình của Việt Minh cùng với Kính cáo đồng
bào của Hồ Chí Minh ngày 6-6-1941, là những chủ trương, chính sách hợp
lịng dân đã quy tụ toàn dân dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh
đạo, đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tun ngơn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) tuyên bố
nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời. Đó là nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền về nhà
nước của dân, do dân, vì dân có bước phát triển mới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự
chủ tự lập tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của
tư tưởng Hồ Chí Minh ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Tháng 2-1951, cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh
và Ban Chấp hành trung ương đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội khẳng định đường lối do Hồ Chí Minh vạch
ra từ ngày thành lập Đảng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng
chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”.
Đường lối đúng đắn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng vạch ra
đã dắt dẫn nhân dân ta tiến lên làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động
địa cầu, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi tồn
thế giới. Hồ bình được lập lại nhưng đất nước bị chia cắt làm hai miền với
9


hai chế độ chính trị khác nhau. Nắm vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ
Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ thù chính của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là chủ nghĩa đế quốc Mỹ; đồng thời vạch
ra đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền Nam tiếp
tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ; miền Bắc đã được hồn tồn giải
phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử,
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã
thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản. Trong điều
kiện ấy tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt, năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển
sang chiến lược chiến tranh cục bộ. Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào
miền Nam, tăng cường chiến tranh phá hoại bằng khơng qn và hải qn trên
miền Bắc, hịng khuất phục quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm
lược hết sức tàn bạo của đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng có
thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến
tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát
huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối
với Người và Trung ương Đảng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn

dân, toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên
niềm tin tất thắng vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; tổng kết sâu sắc những
bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra
những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực
hiện mục tiêu: “Xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới”.
10


1.3. Vai trị chủ quan với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học
tập, nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã khơng ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn,
làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở
quan trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý
luận của Người về sau.
Các nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy cũng đã
có những quan sát, nhưng họ chưa nhận thấy, hoặc nhận thức chưa đúng về sự
thay đổi của dân tộc và thời đại. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí
Minh khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu
tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem
lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ
vào con đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang
giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
1.3.2. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con
người sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Ngay từ khi
cịn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hồi bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lịng
nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình.

Tư chất thơng minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và
nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn
Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động,
giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức
tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành những
luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng
như mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh mới
11


chỉ được bắt đầu nghiên cứu, tuy vậy, đến nay đã có tới mấy chục khái niệm
về tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa
học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Phẩm chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận
xét, đánh giá các sự vật sự việc chung quanh.
Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, ln
tin vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có
phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã
khám phá ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới trên cơ sở đó xây
dựng một hệ thống quan điểm tồn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng
Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để
đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh cịn biểu hiện ở sự khổ công học
tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu
nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim

yêu nước thương dân, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, hạnh phúc của đồng bào.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều
kiện khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa
văn hóa nhân loại. Từ thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng
kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng,
tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
12


CHƯƠNG II. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH, PHẨM
CHẤT VÀ TRÍ TUỆ CỦA HỒ CHÍ MINH
2.1. Phẩm chất Hồ Chí Minh
2.1.1. Về phong cách làm việc
Trong tác phẩm lối “Sửa đổi lối làm việc” Hồ Chí Minh phê phán nặng
lề lối làm việc đủng đỉnh, chậm chạp, tự do, tùy tiện, đại khái, sự vụ, theo
đường mòn, điệu sáo, lười suy nghĩ, ngại đổi mới, thích phơ trương, hồnh
tráng về hình thức,… Người rất quan tâm xây dựng phong cách cơng tác: lấy
chất lượng cơng việc, lợi ích và hiệu quả thiết thực từ việc làm vì nhiệm vụ
chung của tập thể, của quốc gia, dân tộc làm chuẩn mực cao nhất để đánh giá
tác phong cán bộ, công chức…Phong cách làm việc Hồ Chí Minh thể hiện
trong những điểm chính sau:
Một là, phong cách làm việc khoa học. Hồ Chí Minh u cầu làm việc
gì cũng phải điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu, để nắm chắc
thực chất tình hình, “Đảng có hiểu rõ tình hình, thì đặt chính sách mới đúng”.
Hai là, phong cách làm việc có kế hoạch. Hồ Chí Minh địi hỏi làm
việc gì cũng phải có chương trình, kế hoạch, từ lớn đến nhỏ, từ dài hạn, trung
hạn đến ngắn hạn, từ tháng, tuần đến ngày, giờ nào việc nấy. Vì làm việc có
kế hoạch, dù bận trăm cơng, nghìn việc của Đảng và Nhà nước, Người lúc
nào cũng ung dung, tự tại, vẫn có thời giờ học tập, đọc sách, xem văn nghệ, đi

xuống địa phương, đi thăm danh lam, thắng cảnh,… Người dạy, trong việc
đặt kế hoạch “không nên tham lam, phải thiết thực, vừa sức, từ thấp đến cao”,
“chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu, nhưng không thực hiện
được”.
2.1.2. Về phong cách lãnh đạo
Một là, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được biểu hiện từ việc lớn cho đến việc nhỏ. Từ soạn thảo Bản “Tuyên ngôn
13


độc lập” vơ cùng quan trọng có ý nghĩa đến chủ quyền quốc gia, dân tộc; đến
viết một bài báo về những việc bình thường trong quản lý, điều hành,…Người
đều tham khảo ý kiến của Bộ Chính trị, hay những người xung quanh. Người
tuân thủ chặt chẽ quy trình ra quyết định. Mọi vấn đề kinh tế, chính trị, quân
sự, ngoại giao, khoa học-kỹ thuật,…Người đều dựa vào đội ngũ trí thức,
chuyên gia trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, yêu cầu chuẩn bị kỹ, trao
đổi rộng, sao cho mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước phải được cân nhắc, lựa chọn thận trọng, để sau khi ban hành, ít phải
thay đổi, bổ sung.
Hai là, đi đúng tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chung của cộng đồng, của
quần chúng nhân dân… Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải chú ý:
“lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, kể cả của những người
“không quan trọng”. Người yêu cầu và luôn thực hiện tôn trọng nguyên tắc
dân chủ, từ dân chủ trong Đảng đến dân chủ trong các cơ quan đại biểu của
dân. Người năng đi xuống cơ sở, để lắng nghe ý kiến của cấp dưới và của
quần chúng, chứ không phải để huấn thị cấp dưới. Những cuộc “vi hành” thị
sát của Người rất thiết thực, hiệu quả; không theo kiểu “cưỡi ngựa xem voi”.
Theo Người, phải biết động viên, khuyến khích “khiến cho cán bộ cả gan nói,
cả gan đề ra ý kiến”, tức là phải làm cho “cấp dưới khơng sợ nói sự thật và

cấp trên khơng sợ nghe sự thật”.
2.1.3. Về phong cách diễn đạt
Một là, cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực. Mục đích của nói
và viết Hồ Chí Minh cốt làm cho lý luận trở nên gần gũi, dễ hiểu với tất cả
mọi người. Với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của hàng chục triệu người
lao động, làm sao để họ hiểu được, dám vùng lên đấu tranh giải phóng... Hồ
Chí Minh hay dùng cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực.
Hai là, diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng và sinh động,
có lượng thơng tin cao. Bác Hồ thường viết ngắn, có khi rất ngắn: “Pháp
14


chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, chỉ 9 chữ mà khái quát được cả ba
giai đoạn đầy biến động của đất nước. Nhiều câu đúc kết lại như châm ngơn:
“Nước lấy dân làm gốc”, “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, “ Thà hi sinh
tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô nệ”, “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây; Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, v.v.. Chính vì
vậy, những tư tưởng lớn của Người trở nên dễ thuộc, dễ nhớ, nhanh chóng đi
vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động. Đó là điều ước muốn của mọi nhà
tư tưởng, nhà lý luận chân chính mà khơng phải ai cũng đạt tới được.
Ba là, diễn đạt phảisinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng,
gắn với những hình ảnh, ví von, so sánh cụ thể. Khi nói, khi viết Bác Hồ
thường kết hợp với kể chuyện, đan xen những câu thơ, câu ca dao có vần
điệu, làm cho bài nói hay bài viết trở nên sinh động, gần gũi với lối cảm, lối
nghĩ của quần chúng. Người dùng hình ảnh “con đỉa hai vịi” để nói về bản
chất của chủ nghĩa đế quốc; ví “lý luận như cái tên, thực hành như cái đích”
để bắn; “có kinh nghiệm mà khơng có lý luận cũng như một mắt sáng, một
mắt mờ”; người đọc nhiều lý luận mà không biết đem thực hành, vận dụng chỉ
là “cái hòm đựng sách”, v.v..
2.2. Nhân cách trong sáng của Hồ Chí Minh

Yếu tố đầu tiên của cái tâm trong nhân cách Hồ Chí Minh là lịng tin
vào tính bản thiện, vào phẩm giá của con người được mở rộng, được nhân lên
nhờ sự nhận thức sâu sắc thực tiễn đau khổ của dân tộc Việt Nam và các dân
tộc thuộc địa, cái tâm nhân ái đó dần chuyển thành tư tưởng nhân đạo.
Lịng thương người bao la mang tầm nhân loại của Hồ Chí Minh đã
được minh chứng bằng cả cuộc đời hoạt động vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh
phúc của người Việt Nam và nhân dân lao động trên thế giới. Bản thân cuộc
sống riêng tư khiêm tốn, bình dị, trong sáng của Người, ngay cả khi đã đứng ở
đỉnh tháp của quyền lực nhưng không bị quyền lực làm cho tha hóa, cũng đủ
cho thấy sự đồng cảm sâu lắng của Người đối với con người lao động bình
15


thường. Một nếp Nhà sàn nhỏ bằng gỗ, một đôi dép lốp cao su, hai bộ quần áo
vải kaki bạc màu và chỉ một ham muốn, một ham muốn suốt đời sao cho dân
ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
2.3. Vấn đề tri thức, trí tuệ Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa phương
Đơng, phương Tây. Bài học đạo đức lớn nhất mà Hồ Chí Minh để lại cho mọi
thế hệ người Việt Nam sau này chính là bài học ở đời và làm người mà nội
dung nhân bản, chiều sâu nhân văn của nó là yêu nước, thương dân, thương
nhân loại đau khổ bị áp bức. Khi ở nước ngồi, điều mà Hồ Chí Minh mong
muốn khơng phải danh lợi cá nhân mà chính là nhu cầu phát triển của dân tộc.
Ở Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn liền với yêu dân. Không thể nói u
nước mà lại khơng thương dân, khơng lấy nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu
của dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình. Người cho rằng: “Tiếng dân
là truyền lại ý trời”. Là lãnh tụ của dân tộc, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ
trách nhiệm của cá nhân, lo cho dân, cho nước từ những việc lớn đến việc
nhỏ. Người đau nỗi đau chia cắt đất nước, vui, buồn cùng với nhân dân, sẵn
sàng hy sinh đời sống riêng tư. Trả lời phóng viên báo Granma (Cu Ba) ngày

14-7-1969, Hồ Chí Minh bộc bạch: “Đồng chí muốn biết tình cảm của tôi đối
với miền Bắc và đối với miền Nam phải không? Tôi yêu đồng bào ở miền Bắc
cũng như yêu đồng bào ở miền Nam. Tôi hiến cả đời tơi cho dân tộc tơi... Mỗi
người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau
khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tơi”.
Trong suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh ln day dứt với một suy nghĩ:
Người chưa làm tròn nghĩa vụ cách mạng với dân, với nước. Vì thế, Hồ Chí
Minh từ chối mọi danh hiệu, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, bạn
bè quốc tế dành cho Người.

16


Hồ Chí Minh cịn là một tấm gương lớn thể hiện nhân cách cao đẹp về
cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Theo Hồ Chí Minh, cần là cần cù, siêng
năng, chăm chỉ trong mọi công việc. Trong quan niệm về cần của Hồ Chí
Minh, có hai điểm đặc sắc: Kiên trì, bền bỉ, dẻo dai trong mọi cơng việc đồng
thời cần còn là tăng năng suất lao động, là làm việc có hiệu quả, có kết quả
tốt. Kiệm trước hết là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí. Tiết kiệm
hiểu theo nghĩa của Hồ Chí Minh thật biện chứng. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã nêu ra quan điểm về quản lý tài chính, quản
lý ngân sách: Việc gì đáng chi phải chi; việc gì chưa đáng chi khoan hẵng chi;
việc gì khơng đáng chi dứt khốt khơng chi. Liêm là khơng tham lam, là liêm
khiết, trong sạch. Chính có nghĩa là thẳng thắn, là khơng tà, là việc gì mà tốt
thì dù nhỏ cũng cố làm, việc gì mà xấu thì dù nhỏ cũng cố tránh. Hồ Chí
Minh cịn cho rằng, tự mình phải chính trước mới giúp được người khác
chính; mình khơng chính mà muốn người khác chính là vơ lý.
Cịn chí cơng vơ tư là một u cầu nữa đối với nhân cách của người
cách mạng, nó trái ngược với chủ nghĩa cá nhân mà Hồ Chí Minh coi chủ
nghĩa cá nhân như là “bệnh mẹ” đẻ ra hàng loạt các căn bệnh khác. Nếu cuộc

sống bị chủ nghĩa cá nhân hồnh hành thì đạo đức bị xuống cấp một cách
nghiêm trọng.
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI SINH
VIÊN
3.1. Thanh niên cần xác định rõ những nội dung tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức trong tình hình hiện nay
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, nội hàm đạo đức để thanh niên Việt
Nam tu dưỡng và rèn luyện đều có những yêu cầu cụ thể khác nhau. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, nội hàm đạo đức căn bản của thanh niên trong xã hội
mới – xã hội chủ nghĩa chính là đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Làm cách
17


mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Người nhấn mạnh: “Nói chung thanh niên
phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải ra sức học tập chính
trị, kỹ thuật, văn hóa, trước hết phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, gột rửa cá nhân chủ nghĩa”.
Từ nhiều năm qua, để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước trong công tác chăm lo, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên, Trung ương Đồn TNCS Hồ
Chí Minh đã triển khai nhiều văn bản chỉ đạo với nhiều nhóm giải pháp đồng
bộ và tồn diện. Trong đó, việc xây dựng các tiêu chí, chuẩn mực đạo đức của
thanh niên Việt Nam thời kỳ mới được đặc biệt quan tâm. Năm 2013, Trung
ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh đã triển khai Cuộc vận động “Xây dựng giá
trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ mới” với 03 tiêu chí nền tảng: “Tâm

trong – Trí sáng – Hồi bão lớn” và được cụ thể hóa thành 12 tiêu chí cụ thể
theo Kế hoạch số 131-KH/TWĐTN-BTG ngày 28/12/2018 của Ban Thường
vụ Trung ương Đoàn khóa XI, đó là: (1) Có lý tưởng cách mạng, (2) Bản lĩnh
vững vàng, (3) Giàu lòng yêu nước, (4) Đạo đức trong sáng, (5) Lối sống văn
hóa, (6) Tuân thủ pháp luật, (7) Tiên phong hành động, (8) Sáng tạo khơng
ngừng, (9) Học tập liên tục, (10) Có sức khỏe tốt, (11) Kỹ năng phù hợp, (12)
Khát vọng vươn lên.
3.2. Thanh niên nhận thức rõ tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cần được tiến
hành thường xuyên, liên tục, suốt cả cuộc đời
Trong tình hình hiện nay, do tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc
tế và mặt trái của kinh tế thị trường, còn một bộ phận thanh niên đang mải mê
theo đuổi những giá trị vật chất thấp kém, tầm thường mà quên đi trách
18



×