Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội vn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.5 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: VAI TRỊ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT
YẾU KHÁCH QUAN VỀ VAI TRỊ QUẢN LÝ VĨ MƠ CỦA NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ..............................................................2
1.1. Vai trò của Nhà nước nói chung trong lịch sử...................................2
1.2. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế........................................................................................................3
1.2.1. Cơ chế cũ và những ưu khuyết tật của nó:..................................3
1.2.2. Q trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới:.................4
1.2.3. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với
nền kinh tế:............................................................................................8
CHƯƠNG II: VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG...........................................................................9
2.1- Chức năng của thành phần kinh tế nhà nước:....................................9
2.1.1. Định hướng:.................................................................................9
2.1.2. Thiết lập khuôn khổ pháp luật:....................................................9
2.1.3. Điều phối, điều tiết:...................................................................10
2.1.4. Đảm bảo sự công bằng:.............................................................10
2.1.5. Kiểm sốt ổn định kinh tế vĩ mơ:..............................................10
2.2- Thực trạng nền kinh tế nước ta........................................................12
2.3- Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ chuyển nền kinh tế
sang vận hành theo cơ chế thị trường......................................................14
i


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI VÀ
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TA HIỆN
NAY............................................................................................................16


3.1. Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với
đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay............16
3.2. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền
vững.........................................................................................................16
3.3. Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước
tránh hai khuynh hướng, Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng
bộ.............................................................................................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................21

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế xã hội ở mỗi
giai đoạn phát triển của lịch sử đều có tính logic của nó, vì vậy nên nó đem lại
được khá nhiều thành cơng tốt song nó cũng chưa thật được mỹ mãn vì nó có
nhiều thiếu sót cần phải khắc phục. Chúng ta hiện nay đang ở giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ lê chủ nghĩa xã hội vì vậy điều tất yếu của chúng ta là phải
nghiên cứu con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Để góp phần
vào xây dựng cơ chế tổ chức quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện
của nước ta và phù hợp với xu thế của thế giới là nguyên nhân để em chọn đề
tài:
“Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội VN hiện nay”
Việt Nam chúng ta vừa mới bắt đầu công cuộc đổi mới từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên có nhiều vấn đề được
đặt ra. Bởi thực tế đã cho thấy ở các nước đi trước, khi họ để nền kinh tế vận
dụng theo cơ chế thị trường khơng có sự quản lý của Nhà nước thì khơng đạt

được mục tiêu kinh tế mà còn hơn thế nữa nó cịn đẩy lùi nền kinh tế, điển
hình là cuộc khủng hoảng 1929 1933. Song nếu có sự can thiệp của Nhà nước
và có chiến lược đúng đắn thì nó lại là động cơ thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế. Vì vậy chúng ta cần phải có sự can thiệp của Nhà nước ở tầm vĩ mô
để đưa nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang còn nhiều tranh cãi mà
chúng ta cần phải làm sáng tỏ, nhưng do lượng kiến thức còn hạn chế nên
trong đề án này em chỉ trình bày được một số quan điểm.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH
TẤT YẾU KHÁCH QUAN VỀ VAI TRỊ QUẢN LÝ VĨ MÔ CỦA
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
1.1. Vai trị của Nhà nước nói chung trong lịch sử.
Ngay từ thời xa xưa, người đã biết sống lại từng bầy, từng đàn nhằm
tạo điều kiện cho việc săn bắn để phục vụ cho đời sống và hơn thế nữa họ cịn
để bảo vệ những gì mình kiếm được. Của cải ngày một nhiều hơn các tập
đoàn người này cần phải bảo vệ của cải của họ bằng hình thái liên kết lại
nhau, bầu ra những người đứng đầu để cai quản. Cùng với lịch sử, xã hội loài
người ngày càng phát triển hơn và kéo theo sự phát triển của lực lượng sản
xuất và năng suất lao động xã hội chế độ tư hữu (lợi ích kinh tế ) xuất hiện đã
phân chia xã hội thành kẻ giàu người nghèo hình thành hai giai cấp, cơ bản là
chủ nơ và nơ lệ nên hình thành một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và
đấu tranh giai cấp gay gắt khơng thể điều hồ, địi hỏi phải có một tổ chức
mới có khả năng có thể dập tắt được xung đột giai cấp ấy, tổ chức đó là Nhà
nước. Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà nước, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết luận rằng “Nhà nước là sản phẩm và
biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà”. Nhà nước chỉ ra

đời và tồn tại trong xã hội có giai cấpvà bao giờ cũng thể hiện bản chất giai
cấp sâu sắc. Bản chất đó được thể hiện trước hết ở chỗ Nhà nước là bộ máy
cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, là cơng cụ sắc bén nhất
để duy trì sự thống trị giai cấp. Vì vậy nên Nhà nước bao giờ cũng bảo vệ lợi
ích của một giai cấp nhất định. Song vai trị kinh tế của Nhà nước thì có sự
khác nhau về mức độ, hình thức biểu hiện nhằm phù hợp với điều kiện của
từng giai đoạn.
Thực ra lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được
phôi thai ngay từ buổi ban đầu khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện sau đó
2


mới được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội. Trong
thời đại chiếm hữu nô lệ Nhà nước chủ nô kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch
sử đã trực tiếp dùng quyền lực cuả mình can thiệp vào việc phân phối của cải
được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá trình
sản xuất của giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực
phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh
tế.
Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến khong chỉ can thiệp
vào việc phân phối của cải mà đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng
kết cấu hạ tầng cho sản xuất nơng nghiệp, khuyến khích quan lại, di dân đi
mở mang các vùng đất mới đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng
thời kỳ, nhìn chung các hoạt động này diễn ra một cách tự phát.
1.2. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế.
1.2.1. Cơ chế cũ và những ưu khuyết tật của nó:
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội
chủ nghĩa (XHCN) đất nước ta đã bắt đầu xây dựng mơ hình kế hoạch hố tập
trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (TLSX). Với sự

nỗ lực của nhân dân ta và có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN.
Mơ hình kế hoạch hố đã phát huy được những tính ưu việt của nó.
Nhưng sau ngày giải phóng miền Nam bức tranh mới về hiện trạng
kinh tế xã hội đã thay đổi, trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba
loại hình kinh tế là tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế
hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau những năm 1975 nhưng chúng
ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như ở miền Bắc trước
đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế ql kinh
tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng
tiêu cực. Do chủ quan không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh
3


tế mà chúng ta đã khơng quản lý có hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp
tràn lan. Những sự việc này gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng
trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, tích luỹ hàng
năm hầu như khơng có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước
với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí có một số
địa phương nạn đói đang rình rập. Ngun nhân sâu xa vì sự suy thối nền
kinh tế ở nước ta là do đã rập khuôn một mô ihnhf kinh tế chưa thích hợp và
kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
Ta đã thực hiện một chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một
quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận
tài sản vô chủ và đã không sử dụng nguồn lực rất khan hiếm của đất nước
trong khi dân số ngày càng gia tăng.
Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho
phép khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình
quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát
triển.
Việc kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các cơng cụ hành chính mệnh

lệnh theo kiểu thời gian chiến tranh khơng thích hợp với u cầu tự do lựa
chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã khơng kích thích sự sáng taọ
của hàng triệu người lao động.
Chế độ hạch tốn trên thực tế cịn nặng nên hình thức, lợi ích kinh tế,
đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt
động xã hội chưa được quan tâm đúng mức, vì thế sự vận động của nền kinh
tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
1.2.2. Quá trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới:
Đứng trước tình hình kinh tế như trên vấn đề cấp bách đối với Nhà
nước ta là phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện
4


đất nước hiện nay. Xuất phát từ vấn đề này nhiều nhà khoa học của chúng ta
đã đi sâu vào nghiên cứu học thuyết kinh tế mà trọng tâm là của Keynes và
Samuelson. Keynes là người đầu tiên đề cao vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường thơng qua sự phân tích lý thuyết chung về việc làm, ơng đã
đi đến kết luận muốn thốt khỏi khủng hoảng, thì khơng thể dựa vào cơ chế
thị trường tự điều tiết, mà cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế
để tăng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản xuất, kích thích đầu tư, bảo
đảm việc làm và tăng thu nhập. Vì vậy ơng đề nghị Nhà nước phải duy trì đầu
tư thơng qua sử dụng hệ thống tài chính tín dụng và lưu thơng tiền tệ, Keynes
tài chính tín dụng và lưu thơng tiền tệ là công cụ kinh tế vĩ mô rất quan trọng.
Và “tư tưởng can thiệp” đã được nhiều nhà khoa học khác ở thời sau
đó phân tích và nghiên cứu cụ thể như trường phái thể chế mới. Với họ “tư
tưởng Nhà nước can thiệp” là tư tưởng trọng tâm của trường phái. Họ kế thừa
những tư tưởng này, phê bình lý luận truyền thống coi tự do cạnh tranh khơng
thể đảm bảo được cân đối cung cầu, tích cực chủ trương Nhà nước can thiệp
vào đời sống kinh tế, chủ trương xã hội thực hiện thống trị kinh tế. Galbaraith
cho rằng, chính sách bng thả tự do từ lâu đã khơng thích hợp và tun bố:

quản lý, điều tiết, kế hoạch mới là nhu cầu bức xúc của thời đại ngày nay. Do
vậy ông đã đề xuất “phương án” Nhà nước can thiệp kinh tế. Vấn đề này quan
điểm mà Galbraith và Keynes rất gần nhau. Đặc điểm chung của họ là: thừa
nhận trong điều kiện TBCN luôn tồn tại thất nghiệp, không sử dụng đầy đủ
mọi nguồn lực sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế không ổn định. CNTB có
“khuyết điểm” khơng phải mọi cái đều rất thuận lợi. Họ cho rằng trong kinh
tế TBCN thiếu lực lượng tự động, duy trì cân đối và tăng trưởng kinh tế, thừa
nhận CNTB tự phát triển sẽ không tạo ra được kết quả tốt nhất. Nhà nước can
thiệp được xem như điều kiện tất yếu để CNTB thường xuyên phát huy tác
dụng nhất là trong lĩnh vực kinh tế, và qua nghiên cứu tổng thể nền kinh tế

5


quốc dân, và Nhà nước phải can thiệp tổng thể nền kinh tế, chứ không can
thiệp vào công việc kinh tế nội bộ của các xí nghiệp.
Cịn đối với Samuelson thì ơng lại xuất phát từ “kinh tế hỗn hợp”. Nếu
các Nhà nước kinh tế học phái cổ điển và cổ điển mới sang mà với bàn tay vơ
hình và “cân bằng tổng quát”, trường phái Keynes và Keynes mới say sưa nối
với “bàn tay Nhà nước ”Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào
cả hai bàn tay là cơ chế thị trường và Nhà nước. Ông cho rằng điều hành một
nền kinh tế khơng có cả Chính phủ lẫn thị trường thì cũng như địn vỗ tay như
một bàn tay. Đây là một quan điểm rất đúng đắn.
Thực tiễn vận dụng của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho
thấy mơ hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô
từ trung tâm trong bối cảnh của thời đại ngày nay là mơ hình hợp lý hơn cả.
Mơ hình này về đại thế nó đáp ứng được những thách thức của sự phát triển.
Nhận thức được những vấn đề này Đảng và Nhà nước chúng ta quyết định đổi
mới và Đại hội VI của Đảng được đánh giá như một cái mốc quan trọng trong
việc chuyển đổi cơ chế trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập

trung quan liêu, bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả
của nó. Đảng nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Cũng từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển sang nền kinh tế thị
trường.
Vậy nền kinh tế thị trường là gì? đó là nền kinh tế mà trong đó các vấn
đề kinh tế cơ bản được quyết định chủ yếu bằng sự cung cầu trên thị trường.
Động lực phát triển của nền kinh tế thị trường là lợi ích cá nhân thơng qua lợi
nhuận của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.
Từ khái niệm trên và thực tế ta có thể thấy rằng kinh tế thị trường hoạt
động đặc trưng nhất của nó là cơ chế thị trường và nó này sinh ra nhiều vấn

6


đề, trong đó vấn đề trung tâm nhất đối với người tiêu dùng và các nhà doanh
nghiệp là: Sản xuất cái gì?Sản xuất như thế nào?Sản xuất cho ai?
Với cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật cạnh tranh, quy luật
lưu thông tiền tệ. Với sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng
tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu
cầu của xã hội. Nhờ đó có thể thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng cá nhân và
sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau và nhiều vấn đề khác. P.Samuelson
đã nói rằng “cơ chế thị trường không phải là sự hỗn độn mà là một trật tự kinh
tế, một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi phối hợp một cách không
tự giác của cá nhân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường.
Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng
triệu các cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm mà nó vẫn giải được
bài tốn mà máy tính lớn nhất ngày nay khơng thể giải nổi. Nó tự nhiên, và
cũng như xã hội lồi người, nó đang thay đổi”. Cơ chế thị trường tự động kích
thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo cả chiều rộng lẫn chiều
sâu, nhu cầu xã hội, nhu cầu con người không ổn định , đa dạng và chỉ có thị

trường mới hồn thành chức năng sứ giả nối người sản xuất với người tiêu
dùng lên hàng đầu “khách hàng là thượng đế”. Và cũng nhờ cơ chế thị trường
mới giải quyết tốt 3 vấn đề cơ bản của nền sản xuất đó là sản xuất cái gì? như
thế nào? cho ai? Thơng qua lợi nhuận. Đây là điều mà các cơ chế kinh tế
trước đây không thể giải quyết được hoặc giải quyết được nhưng còn nhiều
vướng mắc. Cùng với báo cáo của ban chấp hành trung ương tại Đại hội VII
đã nêu rõ “sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn
năng. Cùng với sự kích thích của sản xuất phát triển, kinh tế cũng là môi
trường thuận lợi làm nảy sinh ra và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội, thị
trường như hiện tượng thai nghén, chưa biết sẽ ra sao. Điều đó bao hàm cả
khả năng thất bại”.

7


Cơ chế thị trường không bảo đảm được việc tạo ra một cơ cấu sản
phẩm tối ưu phù hợp với yêu cầu xã hội, gây khủng hoảng thừa nên lãng phí
lao động và tài nguyên gắn liền với khủng thừa là thất nghiệp, một căn bệnh
nan giải. Do chạy theo lợi nhuận nên các nhà sản xuất có thể gây nên những
tác động tiêu cực cho xã hội như ô nhiễm mơi trươngf, cạn kiệt tài ngun,
phân hố giàu nghèo và tình trạng độc quyền xố bỏ cạnh tranh làm nền kinh
tế mất tính hiệu quả... những hậu quả này tồn xã hội phải gánh chịu.
1.2.3. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh
tế:
Với những ưu điểm trên trong lâu dài sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống
kinh tế – xã hội – mơi trường nên nó địi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà
nước vào nền tk để bảo đảm sự ổn định, cơng bằng và hiệu quả, từ đó ta thấy
vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp
hành động chung và do tính chất xã hội hố cao của sản xuất quy định. Lực
lượng sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hố càng cao thì phạm trù thực

hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao.
Thực tế cho thấy từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay
đổi căn bản. Những nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa
đầy đủ. Trong kinh tế thị trường Nhà nước với tư cách là người điều hành,
quản lý xã hội, đồng thời là khách hàng lớn, các chủ thể kinh tế . Nhà nước
thường bảo đảm các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền
hình, giao thơng vận tải... Nhà nước dùng pháp luật để điều hành, dùng các
chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động,
vạch ra kế hoạch phát triển, hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây
ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp.
Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục
vụ tốt các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa
chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường tạo ra những
8


công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế
điều chỉnh ở tầm vi mô, nhờ sự can thiệp của Nhà nước ở tầm vĩ mơ đã kìm
chế được một phần sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong
lịng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của nền kinh tế
thị trường.

9


CHƯƠNG II: VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải
phối hợp hoạt động chng và do tính chất xã hội hố của sản xuất quy định.
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ xã hội hố càng cao thì

phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao.
2.1- Chức năng của thành phần kinh tế nhà nước:
Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
được thực hiện qua các chức năng cơ bản sau.
2.1.1. Định hướng:
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự định
hướng của Nhà nước. Nếu Nhà nước ta đi chệch hướng thì dù chúng ta có làm
tốt đến đâu thì kết quả cũng chỉ là con số khơng và cịn tệ hơn nữa. Vì vậy địi
hỏi Nhà nước chúng ta phải nắm bắt các quy luật vận động và phát triển của
nền sản xuất xã hội và chỉ bảo được các biến động có thể xảy ra, từ đó đưa ra
những ưu sách nhằm tác động, khống chế, điều tiết các sự việc xấu có thể xảy
ra. Và cũng qua đó đem ra những quyết định đúng đắn về con đường mà
chúng ta sẽ đi sao cho nó phù hợp với quy luật nhưng lại hạn chế những sự
việc xấu có thể xảy ra ở mức tối thiểu nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển
nền kinh tế.
2.1.2. Thiết lập khuôn khổ pháp luật:
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Ở
đây Nhà nước đề ra các quy tắc, trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người
tiêu dùng và cả bản thân Chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định
về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm
tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định
môi trường kinh tế.
10


Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ
những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa
ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tính rộng rãi về sự
cơng bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế được mài dũa rất cẩn thận về
chi phí và lợi lộc. Những khn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới các

ứng xử kinh tế của con người.
2.1.3. Điều phối, điều tiết:
Nhà nước cần sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị
trường hoạt động có hiệu quả bằng hình thức điều phối, điều tiết mọi hoạt
động cũng như vật chất một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện địa lý và môi
trường sống để hạn chế những sự lãng phí khơng cần thiết từ ddó nâng cao
hiệu quả kinh tế.
2.1.4. Đảm bảo sự cơng bằng:
Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa
khơng làm triệt tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên
trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, một mặt Nhà nước phải tạo ra
những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngay nhau và đều được hưởng
phần tương xứng với kết quả lao động và phần đóng góp của mình. Mặt khác
trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường,
vẫn phải thấy rằng sự phân hố, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là
tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể xảy ra sự bất bình
đẳng lớn. Vì vậy Chính phủ cần thiết phải thơng qua những chính sách để
phân phối lại thu nhập lớn hơn người nghèo mà điển hình là giá điện loại hai.
Bên cạnh đó cịn phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đỡ cho người
già, người tàn tật, người không nơi nương tựa….

11


2.1.5. Kiểm sốt ổn định kinh tế vĩ mơ:
Từ khi ra đời CNTB từng gặp những thăng trầm chu kỳ lạm phát (giá
cả tăng) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này
rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức những năm 3.
Nhờ học thuyết của John Meynar Keynes và những người theo học
thuyết ông mà chúng ta hiểu được làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm

của chu kỳ kinh doanh. Nhà nước cần phải sử dụng quyền lực của mình một
cách thận trọng gián tiếp thơng qua luật pháp để kiểm sốt nền kinh tế một
cách có hiệu quả nhằm ổn định nền kinh tế. Vì một nền kinh tế phát triển thì
trước hết mức độ dao động của nó phải thấp, đều và hiện có xu hướng phát
triển.
Tóm lại: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị
trường TBCN để tìm ra những định chế có khả năng xố bỏ được những
khuyết tật đó và tạo ra một kinh tế thị trường XHCN.
Vai trò này cũng đòi hỏi phải thay thế dần phương thức phân phối tư
bản bằng phương thức phân phối thơng qua phúc lợi xã hội. Nói rộng ra là
sáng tạo ra những cách quản lý mới để hướng tới XHCN.
Tuy nhiên để thực hiện vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN là cực kỳ khó khăn vì khơng thể chia tách thị trường
nước ta ra khỏi thị trường thế giới bao gồm cả thị trường các nước tư bản. Bởi
lẽ học thuyết Ken – dơ đã chỉ rõ XHCN có hai khuyết tật là khủng hoảng kinh
tế chu kỳ và thất nghiệp. Bây giờ khuyết tật thứ ba đã xuất hiện đó là dung
túng cho đầu cơ ở thị trường chứng khoán phát triển đến mức cực kỳ nguy
hiểm từ thập niên 7 với sự lợi dụng những công cụ tài chính và biến chúng
những cơng cụ bán khơng vì vậy nên chúng ta paỉ thực hiện bằng hai cách.

12


Đối thoại với các nước tư bản để họ thấy được các khuyết tật và tự điều
chỉnh.
Khéo léo dùng những giải pháp đặc biệt để ngăn chặn tác động xấy của
liên Ngân hàng như việc cấm bán khôngs trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP về
chứng khoán và thị trường chứng khoán của ta.
2.2- Thực trạng nền kinh tế nước ta.

Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận.
Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh
chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở
thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người
tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát
nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2
USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt
Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng
kể. Tăng trưởng GDP ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít
quốc gia trên thế giới tăng trưởng kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại
những tác động dài hạn đối với các hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45% hộ
gia đình được khảo sát giảm trong tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm
2020. Nền kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng 6,6% năm 2021 nếu Việt Nam
kiểm soát tốt sự lây lan của vi-rút đồng thời các ngành sản xuất hướng xuất
khẩu hoạt động tốt và nhu cầu nội địa phục hồi mạnh mẽ.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội.
Dân số Việt Nam đã lên đến 96,5 triệu vào năm 2019 (từ khoảng 60 triệu năm
1986) và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng
điều tra dân số Việt Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi
13


thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương đương
trong khu vực. Nhưng dân số đang bị già hóa nhanh. Tầng lớp trung lưu đang
hình thành – hiện chiếm 13% dân số và dự kiến sẽ lên đến 26% vào năm
2026.
Chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam là 0.69. Điều đó có nghĩa là một em
bé Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng

suất bằng 69% so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy
đủ. Đây là mức cao hơn mức trung bình của khu vực Đơng Á - Thái Bình
Dương và các nước có thu nhập trung bình thấp hơn. Mặc dù chỉ số Vốn nhân
lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69 từ năm 2010 đến 2020 Việt Nam, còn
tồn tại sự chênh lệch trong nội bội quốc gia, đặc biệt là đối với nhóm các dân
tộc thiểu số.
Trong vòng 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản có nhiều
thay đổi tích cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện
đáng kể. Tính đến năm 2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ
14% năm 1993. Tỉ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ
17% năm 1993 lên 70% năm 2016, trong khi tỉ lệ ở thành thị là trên 95%. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm
GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều
này tạo ra những thách thức đối với sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ
sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam
xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
Tăng trưởng và công nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã để lại nhiều
tác động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tổng mức
tiêu thụ điện tăng gấp ba lần trong vòng mười năm qua, nhanh hơn mức tăng
sản lượng điện. Với sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nhiên liệu hóa thạch,
ngành năng lượng phát thải gần hai phần ba tổng phát thải khí nhà kính của cả
nước. Nhu cầu cấp thiết là phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng
14


sạch. Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã nổi lên là quốc gia phát thải khí nhà
kính bình qn đầu người tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới – với mức tăng
khoảng 5% mỗi năm. Nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng cao, trong khi
năng suất nước vẫn còn ở mức thấp, chỉ đạt 12% so với chuẩn thể giới. Tình
trạng khai thác thiếu bền vững tài nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản và gỗ

có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Bên cạnh đó,
đại đa số người dân và nền kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn thương trước tác
động của biến đổi khí hậu.
Đơ thị hóa, tăng trưởng kinh tế và dân số tăng nhanh đang đặt ra những
thách thức ngày càng lớn về quản lý chất thải và xử lý ô nhiễm. Lượng rác
thải của Việt Nam dự báo tăng gấp đơi trong vịng chưa đầy 15 năm tới. Bên
cạnh đó là vấn đề rác thải nhựa đại dương. Theo ước tính, 90% rác thải nhựa
đại dương tồn cầu được thải ra từ 10 con sơng, trong đó có sơng Mê Kơng.
Việt Nam cũng là một trong mười quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề
nhất bởi ơ nhiễm khơng khí. Ơ nhiễm nguồn nước đang gây ra những hậu quả
nghiêm trọng đối với năng suất của các ngành quan trọng và với sức khỏe của
người dân.
Chính phủ đang nỗ lực giảm thiểu tác động của tăng trưởng lên mơi
trường và thích ứng với biến đổi khí hậu một cách hiệu quả. Nhiều chiến lược
và kế hoạch để thúc đẩy tăng trưởng xanh và sử dụng bền vững tài nguyên
thiên nhiên đang được thực thi.
2.3- Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ chuyển nền kinh tế
sang vận hành theo cơ chế thị trường.
Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp
vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền
kinh tế phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn
mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời, hoạt động trên cơ sở của chính nó và
15


phát sinh tác dụng. Trong điều kiện đó vai trị của Nhà nước cực kỳ quan
trọng, trong lịch sử phải mất hàng trăm năm nền sản xuất hàng hoá TBCN
mới phát triển lên trình độ kinh tế thị trường có sự can thiệp cuả Nhà nước. Ở
nước ta Nhà nước đóng vai trị rất quan trọng để rút ngắn chặng đường lịch sử

hàng trăm năm trong khoảng thời gian vài chục năm. Xuất phát từ quan niệm
đó Nhà nước ta cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế – chính trị của mình để tiếp tục quá
trình tự do giá cả, thương mại hoá nền kinh tế với những nội dung cơ bản là:
Xố bỏ tình trạng độc quyền và xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng
cách tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện, các tiền đề kinh tế – pháp lý cho sự hoạt động của thị trường
cần thiết như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động.
- Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì uyền sở hữu các
nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ sở hữu đích thực của cơng dân, của
các doanh nghiệp tập thể, tư nhân và Nhà nước. Cụ thể là:
Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân với các quyền cụ thể như
thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi và chuyển nhượng.
Cho thuê hoặc đấu thầu các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước đóng vai trị “bà đỡ” cho sự ra đời của cơ chế thị trường, các
thành phần kinh tế, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
kinh doanh có hiệu quả. Để hồn thành chức năng “bà đỡ”, hướng dẫn các nổ
lực của thị trường Nhà nước cần phải:
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các
doanh nghiệp.

16


Xây dựng các khuôn khổ pháp lý sao cho thoả mãn các yêu cầu, một mặt các
doanh nghiệp tự do kinh doanh, mặt khác Nhà nước vẫn có thể kiểm soát
nghĩa vụ của các doanh nghiệp trước Nhà nước.
Ban hành các chính sách kinh tế hấp dẫn để khuyến khích các doanh nghiệp
trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất.
- Cải tổ bộ máy hành chính sao cho gọn nhẹ, năng động, đơn giản hoá các thủ

tục hành chính.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI
VÀ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TA
HIỆN NAY.
3.1. Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với
đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay.
Bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước diễn biến mới, xu thế
thương mại hố tồn cầu cùng với xu thế hồ bình ổn định, cải cách và
chuyển dịch cơ cấu để phát triển... đang là sự lựa chọn của các quốc gia để
tồn tại và phát triển. Cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng ác liệt, tồn diện để
tìm kiếm thị trường, nguồn ngun liệu vốn đầu tư, khoa học công nghệ, chất
xám... nên làm nảy sinh nhiều vấn đề và nó tác động sâu sắc đến mọi mặt của
đời sống kinh tế – xã hội nước ta, tạo ra những cơ hội và thách thức mới, đòi
hỏi chúng ta phải xác định mục tiêu và chiến lược phát triển một cách đúng
đắn có cơ sở, không được tuỳ tiện nhằm phát huy những thành tựu đã đạt
được, ra sức phấn đấu tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước vào
thời kỳ phát triển mới, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố tạo ra những
cơ sở vật chất và nguồn lực cho bước phát triển nhanh và bền vững về kinh tế,
chặn đứng tiến tới đẩy lùi tiêu cực, bất công xã hội, xố đói giảm nghèo, nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, giữ
17


vững ổn định chính trị – xã hội, phấn đấu thực hiện vượt mức các mục tiêu đề
ra, đưa đất nước ngày một thốt khỏi tình trạng nước nghèo lạc hậu, tạo đà
mạnh mẽ để phát triển nhanh chóng vào những năm đầu thế kỷ 21 và sau đó.
3.2. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền
vững.
Tăng trưởng kinh tế và việc tăng GDP bình quân theo đầu người. Hiện

nay ở nước ta GDP còn thấp khoảng 230 USD một người, là một trong những
nước nghèo nhất trên thế giới vì vậy vấn đề đặt ra là Nhà nước chúng ta cần
phải có chiến lược năng động, sáng tạo để cùng nhân dân phấn đấu đưa nước
ta ra khỏi danh sách các nước nghèo trên thế giới, muốn vậy Nhà nước chúng
ta phải.
- Có những phương pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài
nước bằng cách.
Đảm bảo lãi suất tiền gửi phải cao hơn tỷ lệ lạm phát
Phát hành công trái để huy động vốn.
Phát triển chúng tôi cổ phần và thị trường chứng khốn.
Tạo mơi trường các biện pháp vĩ mô để kiềm chế lạm phát đảm bảo
được thu hút tiền gửi tiết kiệm dài hạn, trung hạn.
Kết hợp chặt chẽ các hình thức đầu tư.
Đối với đầu tư FDI cần hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và cải
tiến quản lý.
Cải cách thủ tục hành chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng
thời đảm bảo thủ tục gọn nhẹ.
Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nhằm tăng sức
hấp dẫn và tạo môi trường đầu tư thuận lợi.
18



×