Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đề tài : Xây dựng phương pháp định giá sáng chế áp dụng cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 88 trang )








































BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN KHOA HỌC SỞ HỮU TRÍ TUỆ








Báo cáo tổng hợp



ĐỀ TÀI

NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NHẰM XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ
SÁNG CHẾ ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM



Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Hữu Cẩn

Đơn vị: Viện Khoa học sở hữu trí tuệ











7997



HÀ NỘI, 12/2009

2


MỤC LỤC


Trang

Mở đầu
3
Chương I.
Tổng quan về định giá sáng chế

4
I. Khái niệm về sáng chế; Lợi ích kinh tế của sáng chế; Mục đích, ý nghĩa của việc
định giá sáng chế
4
II. Tổng quan về các cách tiếp cận định giá sáng chế 10
III. Các tiêu chuẩn quốc tế về định giá sáng chế 31
Chương II.
Thực tiễn của thế giới về việc áp dụng các cách tiếp cận định giá sáng chế
41
I. Thực tiễn của một số nước Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) 42
II. Thực tiễn của một số nước châu Âu (Đức, Anh, Đan Mạch…) 46
III. Thực tiễn của một số nước châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ) 50
Chương III.
Thực tiễn của Việt Nam về việc áp dụng các cách tiếp cận định giá sáng chế
52
I. Tổng quan hiện trạng hoạt động định giá sáng chế ở Việt Nam 52
II. Định giá sáng chế trong hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam 63
III. Định giá sáng chế trong hoạt động góp vốn liên doanh ở Việt Nam 64
Chương IV.
Đề xuất phương pháp định giá sáng chế áp dụng cho Việt Nam
67
I. Giải thích thuật ngữ 67
II. Nguyên tắc định giá sáng chế 68
III. Cách thức tiến hành định giá sáng chế 69

Kết luận
85

Tài liệu tham khảo
86















3
MỞ ĐẦU

Định giá tài sản trí tuệ nói chung và sáng chế nói riêng là một lĩnh vực khá mới
mẻ và phức tạp đối với nhiều doanh nghiệp và đang ngày càng thu hút sự quan tâm của
cộng đồng quốc tế do vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế vĩ mô và vi
mô. Nếu như trước đây, vấn đề định giá tài sản trí tuệ (trong đó có sáng chế) chỉ được
đặt ra trong tình huống giải quyế
t tranh chấp, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhằm xác
định mức độ thiệt hại của chủ sở hữu do hành vi xâm phạm gây ra, thì từ khoảng hơn
một thập kỷ gần đây
1
, lĩnh vực định giá tài sản trí tuệ (đặc biệt là sáng chế) thực sự phát
triển nhanh chóng cả về phạm vi áp dụng lẫn mô hình tiếp cận định giá. Hoạt động định
giá tài sản trí tuệ ngày nay không chỉ được thực hiện đối với nhãn hiệu (brand
valuation) mà dường như đã được mở rộng tới tất cả các loại tài sản vô hình (intangible

assets)
2
, trong đó có sáng chế. Mô hình tiếp cận định giá sáng chế cũng được phát triển
khá nhanh chóng, từ mô hình tiếp cận định giá tương đối thô sơ bằng cách sử dụng kỹ
thuật định giá với một yếu tố (chi phí) đến những mô hình tiếp cận định giá phức tạp
hơn sử dụng kỹ thuật định giá với nhiều yếu tố khác nhau
3
. Mặc dù một số nước phát
triển (như Hoa Kỳ, Anh) đã tiến hành định giá các tài sản trí tuệ, trong đó có sáng chế
từ khá nhiều năm trước, thậm chí một số chuyên gia định giá ở các nước đó đã xây
dựng những lý thuyết về việc áp dụng các cách tiếp cận định giá tài sản trí tuệ và nhiều
nội dung mang tính lý luận trong những lý thuyết đó vẫn được áp dụng một cách tương
đối phổ biến trong thực tiễn
4
, nhưng đến nay các tiêu chuẩn quốc tế về định giá tài sản
trí tuệ và định giá sáng chế vẫn là vấn đề còn tiếp tục được các quốc gia tranh luận mà
chưa đạt được sự thống nhất. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam,
thực tiễn hoạt động định giá sáng chế dường như mới chỉ bắt đầu triển khai thử nghiệm
trên cơ s
ở kinh nghiệm thực tiễn của một vài nước tiên tiến trong lĩnh vực này. Ở Việt
Nam, vấn đề định giá sáng chế là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có một công trình
nghiên cứu một cách hệ thống nào về các mô hình tiếp cận định giá sáng chế cơ bản
đang được áp dụng phổ biến trên thế giới hiện nay và đề xuất phương pháp định giá
sáng chế để thống nhấ
t áp dụng trong thực tiễn ở Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của các thành phần kinh tế.
Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của Đề tài này là làm rõ nguyên tắc, nội dung, cách
thức áp dụng phương pháp định giá sáng chế nói chung và hướng dẫn áp dụng phương
pháp đó cho các sáng chế được sử dụng ở Việt Nam. Để đạt mục tiêu này, nhóm tác giả
sử dụng kết hợp ba phương pháp nghiên cứu sau đây: nghiên cứ

u lý luận; nghiên cứu
kết quả khảo sát, tìm hiểu thực tiễn; phân tích và tổng hợp. Kết quả của Đề tài trước hết
được đề xuất áp dụng trong hoạt động dịch vụ định giá tài sản trí tuệ của Viện Khoa học
sở hữu trí tuệ.


1
Meir Perez Pugatch, “What is the Value of Your Patent? Theory, Myth and Reality”, 2007
2
Arthur Anderson, “The Valuation of Intangible Assets”, Special Report No.P254, The Economist Intelligence
Unit, London, 1992
3
Dr. Meir Perez Pugatch, “What is the value of your patent? Theory, myth and reality”, 2008
4
Ma Lianyuan, “Valuation of Intellectual Assets: Valuation Techniques, Parameters, Methodologies and
Limitations”, 11/2000

4
Chương I
TỔNG QUAN VỀ ĐỊNH GIÁ SÁNG CHẾ

I. Khái niệm về sáng chế; Lợi ích kinh tế của sáng chế; Mục đích, ý nghĩa
của việc định giá sáng chế
1. Khái niệm về sáng chế

Sáng chế (Invention) được hiểu là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc
quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự
nhiên
5
. Sáng chế là sản phẩm của hoạt động trí tuệ, thuộc nhóm các sản phẩm sáng

tạo khoa học, kỹ thuật, do đó là một dạng tài sản trí tuệ (Intellectual Assets
6
). Vì vậy,
sáng chế có đầy đủ các đặc tính của tài sản trí tuệ, đó là:
(i) Đặc tính vô hình: sáng chế tồn tại dưới dạng thông tin, tri thức (không có
bản chất vật chất), do đó không thể nhận biết được sự tồn tại của sáng chế bằng giác
quan của con người mà chỉ bằng nhận thức (thông qua quá trình tự nhận thức hoặc
truyền thụ);
(ii) Đặc tính xác định được: mặ
c dù tồn tại vô hình nhưng con người vẫn có
khả năng nhận biết và xác định được sáng chế. Sở dĩ như vậy vì sáng chế luôn được
thể hiện dưới một hình thức vật chất xác định (mô tả, liệt kê, công thức, hình vẽ ),
dưới dạng nhất định (sản phẩm hoặc quy trình). Đồng thời, mỗi sáng chế là một đối
tượng tồn tại độc lập, có nội dung/bản chất xác định, có chức năng/cách thức thực
hiện/kết quả thực hiện xác định, thậm chí có giá trị xác định;
(iii) Đặc tính sáng tạo, đổi mới: mỗi sáng chế là một sản phẩm của hoạt động
sáng tạo trí tuệ, là một thực thể hoàn toàn mới hoặc là một thực thể đã biết nhưng
được bổ sung cái mới trên cơ sở nền tảng thông tin, tri th
ức được tích lũy từ trước;
(iv) Đặc tính kiểm soát được: do sáng chế có khả năng được vật chất hóa nên
trở thành đối tượng chịu sự tác động có chủ đích của con người, như điều khiển, sản
xuất, khai thác/sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán, trao đổi, cho thuê, góp
vốn , nhằm mang lại kết quả nhất định, trong đó quan trọng nhất là tạo ra giá trị;
(v)
Đặc tính sinh lợi: do có bản chất tài sản, các sáng chế đều có khả năng sinh
lợi (tạo ra giá trị), nghĩa là khi được khai thác, sử dụng, bán, cho thuê, trao đổi…
sáng chế có khả năng mang lại thu nhập bằng tiền hoặc bằng tài sản khác cho người
kiểm soát sáng chế đó.

5

Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (Điều 4.12).
6
Theo nguồn gốc phát sinh, có thể phân chia các tài sản trí tuệ thành các nhóm sau đây: (i) Các tài sản trí tuệ là
sản phẩm sáng tạo khoa học kỹ thuật: là các đối tượng có bản chất khoa học/kỹ thuật, gồm: các thông tin - bí
quyết kỹ thuật (know-how), các sáng chế, các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, các bản vẽ, bản thiết kế, công thức, dữ
liệu tính toán, dữ liệu thử nghiệm, phần mềm máy tính, cơ sở dữ li
ệu, công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, đồ
án quy hoạch, sơ đồ bố trí/sắp xếp; giống cây trồng…; (ii) Các tài sản trí tuệ là sản phẩm sáng tạo văn học, nghệ
thuật, gồm: các tác phẩm văn học/âm nhạc/hội hoạ/mỹ thuật ứng dụng/sân khấu/điện ảnh; các tài sản trí tuệ là các
sản phẩm liên quan: các cuộc biểu diễn, trình diễn, các sản phẩm ghi âm/ghi hình…; (iii) Các tài sản trí tuệ là sản
phẩ
m sáng tạo kinh doanh, thương mại; bí mật thương mại, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, tên
miền,… (Nguồn: TS. Phạm Đình Chướng, “Giới thiệu chung về tài sản trí tuệ và quản trị tài sản trí tuệ”, 2008)

5
Với những đặc tính nêu trên, đặc biệt là đặc tính “kiểm soát được” và “sinh
lợi”, sáng chế không chỉ là một loại tài sản mà còn có đầy đủ các thuộc tính của
hàng hóa
7
. Vì vậy, khái niệm “giá trị của sáng chế” cũng không nằm ngoài nội hàm
khái niệm “giá trị của hàng hóa” như sẽ được phân tích tại mục II.1 dưới đây.
Nhờ có đặc tính “sáng tạo, đổi mới”, sáng chế còn có khả năng trở thành một
đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam
8
, để được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp - dưới hình thức cấp
Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích (Patent)- sáng chế
phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tổng quát sau đây:
(i) Có tính mới;
(ii) Có trình độ sáng tạo; và

(iii) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Đối với sáng chế được bảo hộ, chủ Bằ
ng độc quyền sáng chế (chủ sở hữu sáng
chế) được hưởng các quyền tài sản đối với sáng chế, đó là: độc quyền sử dụng, cho
phép hoặc ngăn cấm người khác sử dụng sáng chế của mình, quyền định đoạt sáng
chế (chuyển giao, bán, để thừa kế…). Trong đó, việc “sử dụng” sáng chế được hiểu
là việc sản xuất sản phẩ
m là sáng chế hoặc áp dụng quy trình là sáng chế; khai thác
công dụng của sản phẩm là sáng chế hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình là
sáng chế; lưu thông (kể cả bán), quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản
phẩm đó; nhập khẩu sản phẩm đó. Đối với sáng chế chưa hoặc không được bảo hộ,
chủ sở hữu sáng chế cũng vẫn được hưởng các quyền tài sản nói trên đối với sáng
chế của mình, tuy nhiên các quyền đó không mang bản chất “độc quyền” và không
được pháp luật bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền cho chủ sở hữu sáng chế.
Trong nhiều tài liệu tham khảo hiện nay về định giá sáng chế (Patent
Valuation)
9
, khái niệm “sáng chế” (với thuật ngữ tiếng Anh là “patent”) được hiểu
theo nghĩa rộng, tùy theo ngữ cảnh cụ thể được xác định là sáng chế (invention),
hoặc bằng độc quyền sáng chế (patent), hoặc cả hai đối tượng đó, thậm chí đôi khi
còn được hiểu là một dự án (project) nhằm khai thác sáng chế được bảo hộ. Tuy
nhiên, trong bối cảnh định giá sáng chế, việc làm rõ nội hàm thu
ật ngữ “sáng chế”
có hay không bao gồm sáng chế được bảo hộ không có nhiều ý nghĩa trên thực tế, vì
giá trị của sáng chế được quyết định bởi nhiều yếu tố chứ không chỉ bởi yếu tố liên
quan tới tình trạng bảo hộ của sáng chế (chẳng hạn, một sáng chế không được bảo
hộ vẫn có thể có giá trị to lớn đối với đối với chủ
sở hữu, ngược lại một sáng chế
được bảo hộ có thể không có giá trị nếu bị thị trường từ chối); nói cách khác, bằng
độc quyền sáng chế chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ để mang lại giá trị kinh tế cho

sáng chế. Do đó trong các tài liệu tham khảo liên quan, và trong Báo cáo này, thuật
ngữ “sáng chế” được hiểu theo nghĩa rộng nói trên.

7
Hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế chính trị. Theo Karl Marx, “hàng hóa” là đồ vật có
hình dạng xác định, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người nhờ có các thuộc tính: hữu ích; có giá trị kinh
tế; và độ khan hiếm. Ngày nay, phù hợp với sự thay đổi và phát triển nhận thức trong đời sống kinh tế, khái niệm
“hàng hóa” được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là “tất cả những gì có khả năng trao đổi, mua bán trên thị
trường".
8
Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 58.1).
9
Anna Boman & Jonas Larsson, “Patent Valuation in Theory and Practice”, 2003.

6
2. Lợi ích kinh tế của sáng chế
Khả năng mang lại lợi ích kinh tế của sáng chế không chỉ là thuộc tính vốn có
của loại tài sản này mà còn là thực tế không thể phủ nhận trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh trên bình diện vi mô và vĩ mô. Có nhiều ví dụ trong thực tế minh chứng
sáng chế có khả năng mang lại lợi ích kinh tế to lớn không chỉ cho doanh nghiệp mà
còn cho cả nền kinh tế quốc gia. Chẳng hạn
10
, sáng chế máy dệt tự động của Sakichi
Toyota (Nhật Bản) đã được chuyển giao cho Platt Brothers&Co. với giá tương
đương 25 triệu USD; sáng chế thuốc kháng sinh azythromycin (tên biệt dược:
Zithromax) của Công ty Pliva (Croatia) được chuyển giao cho hãng Pfizer (Hoa Kỳ)
và trở thành thuốc kháng sinh bán chạy nhất thế giới hiện nay với doanh số trên 1 tỷ
USD/năm; sáng chế kỹ thuật tái kết hợp ADN của Cohen-Boyer (Hoa Kỳ) là đối
tượng chuyển giao của hơn 300 thỏa thuận li-xă
ng với tổng lợi nhuận hàng trăm

triệu USD; sáng chế vắc-xin viêm màng não B của Viện Nghiên cứu Finlay (Cu Ba)
được chuyển giao cho hãng SmithKlineBeecham (Anh) để lưu thông trên toàn thế
giới với mức phí li-xăng hàng năm góp phần giúp Cu Ba từng bước trang trải được
các khoản nợ nước ngoài của mình; sáng chế vi mạch điện tử của Jack S. Kilby
thuộc hãng Texas Instruments Inc. (Hoa Kỳ) không chỉ làm cho hãng này trở thành
hãng dẫn đầu trên thị trường vi mạch thế giới mà còn tạ
o ra sự cạnh tranh quyết liệt
về nghiên cứu và phát triển trong ngành công nghiệp máy tính ở Hoa Kỳ và góp
phần tạo ra nền tảng phát triển ngành công nghệ thông tin hiện nay của thế giới…
Hiện nay, theo Lindsay Moore và Lesley Craig
11
, ngay cả khi tỷ suất đầu tư cho hoạt
động nghiên cứu và phát triển (R&D) có xu hướng giảm trên quy mô toàn cầu do
tình hình suy thoái kinh tế, các quốc gia phát triển vẫn dành trên 1 tỷ USD/ngày để
chi phí cho việc tạo ra tài sản trí tuệ, trong đó đặc biệt là sáng chế, với kỳ vọng về
khả năng mang lại lợi ích kinh tế lớn lao trong tương lai của loại tài sản này. Cũng
theo các tác giả này, hiện nay có khoảng hơn 7 triệu bằng độc quy
ền sáng chế đang
có hiệu lực trên toàn cầu, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là 12% đến 14% mỗi năm;
thu nhập từ hoạt động chuyển giao sáng chế có xu hướng tăng từ 25% đến 35% mỗi
năm, tạo ra thu nhập trên 150 tỷ USD/năm tính trên toàn thế giới. Mặc dù sáng chế
được thừa nhận là một công cụ hữu hiệu nhằm thúc đẩy hoạt động sáng tạo, cạnh
tranh và chuyể
n giao công nghệ, mang lại những lợi ích kinh tế to lớn trên cả bình
diện vi mô và vĩ mô được phản ảnh phần nào bởi những số liệu thống kê trên đây,
thực tế đến nay có rất ít công trình nghiên cứu dựa trên thông tin khảo sát về giá trị
kinh tế của sáng chế đối với các quốc gia
12
. Báo cáo về giá trị của sáng chế trên cơ
sở kết quả khảo sát thuộc một dự án nghiên cứu của Ủy ban Châu Âu năm 1997 (gọi

là khảo sát PatVal-EU) là một trong số ít công trình nghiên cứu như vậy. Đối tượng
khảo sát PatVal-EU là các tác giả sáng chế (inventors) của các bằng độc quyền sáng
chế châu Âu thuộc sáu nước sau đây: Đức, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan và

10
Kamil Idris, WIPO, “Intellectual Property, a Powerful Tool for Economic Development”, 2004
11
Dr. Lindsay Moore, Mrs. Lesley Craig, Esq., “Towards a Strategy of Valuing Patents as Intellectual Capital”,
2003.
12
Marco Ceccagnoli, et al., Final Report on “The Value of Patents for Todays Economy and Society”, 09/5/2005

7
Italia. Kết quả khảo sát được tổng hợp từ năm 2003-2004, theo đó giá trị trung bình
của sáng chế thuộc các nước trên là 6,358 triệu Euro, trong đó có 7,2% sáng chế có
giá trị trên 10 triệu Euro, 16,8% sáng chế có giá trị trên 3 triệu Euro và 15,4% sáng
chế có giá trị từ 1-3 triệu Euro. Các sáng chế có giá trị trên 10 triệu Euro chủ yếu
thuộc năm lĩnh vực công nghệ vĩ mô sau đây: hóa học và dược phẩm (11,71%), công
nghệ chế biến (6,75%), điện (6,22%), cơ khí (6,10%) và thiế
t bị (5,60%). Tây Ban
Nha, Anh và Hà Lan là ba nước có nhiều sáng chế có giá trị nhất: 12,79% sáng chế
có giá trị trên 10 triệu Euro thuộc về Tây Ban Nha, 11,12% thuộc về Anh và 8,86%
thuộc về Hà Lan, tiếp theo là Italia (7,68%), Pháp (5,58%) và Đức (5,19%). Cũng
theo kết quả khảo sát nói trên, đối với những sáng chế có giá trị trên 10 triệu Euro,
chủ sở hữu sáng chế chủ yếu là các phòng thí nghiệm thuộc chính phủ (government
laboratories) - chiếm 10,00%, các viện nghiên cứu tư nhân phi lợi nhuận (private
non-profit research institutes) - chiếm 9,25%, các công ty lớn (large companies) -
chiếm 7,51%, còn lại là các doanh nghi
ệp vừa và nhỏ, trường đại học, cá nhân…
Thực tiễn cho thấy rằng với khả năng với tiềm năng mang lại lợi ích kinh tế,

giá trị của sáng chế đã được các chủ thể liên quan khai thác theo nhiều góc độc khác
nhau. Chẳng hạn, đối với chủ sở hữu sáng chế, tổ chức tài chính hoặc nhà đầu tư
vốn, sáng chế ngày càng có xu hướng được sử dụng như là mộ
t công cụ tài chính
hoặc tài sản tài chính; đối với nhà phân tích tài chính và nhà đầu tư, sáng chế ngày
càng được thừa nhận là yếu tố quyết định giá trị của một doanh nghiệp và là một chỉ
số về tiềm năng công nghệ của doanh nghiệp đó; đối với nhà đầu tư tư nhân và các
tổ chức công, sáng chế là yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hoặc đo l
ường khả
năng sử dụng vốn đầu tư; còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sáng chế ngày
càng được coi là công cụ thu hút và củng cố nguồn lực tài chính. Thực tiễn hoạt
cũng cho thấy rằng nếu giá trị kinh tế của sáng chế không được xác định đầy đủ thì
không thể xây dựng và thực hiện chiến lược sử dụng/khai thác sáng chế với hiệu quả
tối
ưu và không thể thu được lợi ích kinh tế tối đa do sáng chế mang lại. Đồng thời,
việc không nhận thức đầy đủ ý nghĩa của việc định giá sáng chế còn có thể tạo ra
nguy cơ thiếu hụt các chính sách vĩ mô thúc đẩy hoạt động quản lý và quản trị sáng
chế.
3. Mục đích, ý nghĩa của việc định giá sáng chế

Mặc dù có thể xác định được giá trị của sáng chế bằng cách áp dụng những lý
thuyết định giá sẵn có, nhưng trong khoảng thời gian dài trước đây sáng chế vẫn chỉ
được coi là “vật trang trí” của doanh nghiệp với chức năng chỉ dẫn sản phẩm có
những thuộc tính công nghệ độc nhất và doanh nghiệp đó là chủ sở hữu công nghệ
tiên tiến. Trong bối cảnh đó, sáng chế d
ường như không có giá trị mà chỉ được coi
như một công cụ quảng cáo của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Ngày
nay, quan điểm đó vẫn còn tồn tại ở nhiều doanh nghiệp và trong thực tiễn ở hầu hết
các doanh nghiệp, hoạt động định giá sáng chế ít khi được thực hiện
13

. Nguyên nhân
của thực trạng này chủ yếu là do thiếu kiến thức về định giá sáng chế, hoặc còn tồn

13
Samuel, T. htttp://www.pwcglobal.com/Extweb, 18/11/2002

8
tại sự hoài nghi cao độ về khả năng xác định được giá trị của sáng chế cũng như độ
tin cậy của kết quả định giá. Một khó khăn khác dẫn đến thực trạng này là đặc tính
“độc nhất” của sáng chế khiến cho việc tính toán và thẩm định các khía cạnh kỹ
thuật, thương mại và kinh tế của sáng chế được định giá có độ ổn định/chắc chắ
n
không cao. Vì vậy, ban đầu giá trị của sáng chế thường chỉ được xác định trong
những tình huống tranh chấp, xâm phạm đòi hỏi phải tính toán mức độ thiệt hại và
bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, thực tiễn ngày nay cho thấy rằng giá trị của sáng chế
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá trị thị trường của doanh nghiệp; những doanh
nghiệp sở hữu càng nhiều sáng chế có giá trị càng chứ
ng tỏ doanh nghiệp đó có khả
năng hoạch định chiến lược quản trị tài sản trí tuệ/sáng chế một cách đúng đắn cũng
như khả năng củng cố, phát triển vị thế chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, nhu cầu định
giá sáng chế trở nên thay đổi theo hướng không chỉ giới hạn ở lĩnh vực tố tụng mà
đã mở rộng sang nhiề
u lĩnh vực khác như tài chính, kế toán, ngân hàng, quản trị kinh
doanh… và ngày nay định giá sáng chế được coi là một trong những nội dung không
thể thiếu trong chiến lược quản trị tài sản trí tuệ trên cả bình diện vi mô và vĩ mô.
Nói chung, mục đích chủ yếu của việc định giá bất kỳ loại tài sản trí tuệ nào,
trong đó có sáng chế, là nhằm xác định chính xác, đầy đủ và khách quan giá trị của
tài sản đó, từ
đó giúp chủ sở hữu/người quản trị tài sản đó đưa ra quyết định quản trị
tối ưu

14
, trong đó có các quyết định về phương thức kinh tế hiệu quả nhất để sử
dụng, bảo vệ, hoặc trao đổi tài sản đó trên thị trường nhằm tối đa hóa giá trị của tài
sản. Người ta thấy rằng hầu hết các hoạt động liên quan đến việc lập kế hoạch, đàm
phán hay quản lý các mối quan hệ công việc hoặc giao dịch liên quan tới tài sản trí
tuệ/sáng chế đều cần có các thông tin về giá trị của tài sản đó. Cụ thể, việc định giá
sáng chế nhằm các mục đích chính sau đây
15
(Bảng 1):
Bảng 1. Mục đích định giá sáng chế

STT
Mục đích định giá sáng chế Diễn giải
1. Chuyển giao quyền sở hữu (bán -
assigment) hoặc quyền sử dụng (license)
Xác định giá trị của hợp đồng chuyển giao (phí
chuyển nhượng hoặc phí li-xăng) sáng chế.
2. Sáp nhập và mua lại (mergers &
aquisitions) doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp dựa vào tỷ trọng
(mức độ đóng góp) của sáng chế trong tổng giá
thị trường của doanh nghiệp.
3. Tiết kiệm chi phí (cost savings) Việc duy trì các sáng chế có giá trị kinh tế cũng
đòi hỏi phải chi phí, đặc biệt là chi phí duy trì
hiệu lực độc quyền sáng chế. Việc định giá chính
xác nhằm tiếp tục phát triển sáng chế có tiềm
năng thương mại, và/hoặc loại bỏ những sáng chế
không còn khả năng mang lại lợi ích lớn hơn chi
phí trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.

4. Góp vốn đầu tư, liên doanh hay liên minh Xác định chính xác giá trị phần sở hữu tương ứng

14
Hungary Patent Office, Pro Inno Europe, Student Handbook, “Valuation of Intellectual Property”, 2008
15
WIPO, “Valuation of Intellectual Property: What, Why and How”, WIPO Magazine 9-10/2003

9

STT
Mục đích định giá sáng chế Diễn giải
chiến lược (joint venture, strategic
alliance)
trên cơ sở vốn góp bằng sáng chế của doanh
nghiệp trong dự án đầu tư hoặc liên doanh, liên
kết kinh doanh.
5. Cổ phần hoá, phát hành cổ phiếu
(shareholders)
Xác định giá trị của doanh nghiệp và tài sản của
doanh nghiệp khi tham gia cổ phẩn hoá hoặc phát
hành cổ phiếu ra công chúng.
6. Ký quỹ (thế chấp), chứng khoán hóa
(collateralization, securitization)
Các ngân hàng tại một số quốc gia có xu hướng
chấp nhận các sáng chế làm vật ký quỹ để cho
vay với điều kiện xác định được giá trị của sáng
chế đó.
7. Hỗ trợ giải quyết tranh chấp (litigation) Xác định mức độ (giá trị) thiệt hại do hành vi
xâm phạm quyền đối với sáng chế, xác định giá
trị hàng xâm phạm; hỗ trợ giải quyết tranh chấp

về tài sản trong trường hợp phá sản, vi phạm hợp
đồng, thừa kế
8. Hưởng thuế ưu đãi từ việc biếu tặng
(donation) sáng chế
Giá trị của sáng chế được biếu tặng (thường là
cho các tổ chức phi lợi nhuận) được dùng làm cơ
sở để các cơ quan thuế tính toán mức ưu đãi thuế
cho doanh nghiệp biếu tặng.
Các mục đích định giá sáng chế nêu trên có thể khác nhau tùy thuộc vào nhu
cầu của mỗi loại chủ thể, chẳng hạn nhà quản lý doanh nghiệp định giá sáng chế
nhằm đưa ra quyết định đúng đắn về việc có hay không nộp đơn đăng ký xác lập
quyền đối với sáng chế hoặc có hay không tiếp tục duy trì hiệu lực của bằng độc
quyền sáng chế, hoặc nhằm tính toán phí chuyển giao sáng chế trong các giao d
ịch
li-xăng, hoặc nhằm đánh giá giá trị của doanh nghiệp sáp nhập hoặc mua lại, hoặc
nhằm xác định giá trị thị trường của bản thân doanh nghiệp; các luật sư và thẩm
phán định giá sáng chế nhằm xác định giá trị thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại
trong các vụ xâm phạm sáng chế; các tổ chức tài chính định giá sáng chế trong giao
dịch ký quỹ hoặc vay ngân hàng bằng sáng chế; còn nhà đầu t
ư và nhà phân tích tài
chính định giá sáng chế để đánh giá giá trị của doanh nghiệp làm cơ sở đưa ra quyết
định đầu tư hoặc nhằm tư vấn…
Xét trên bình diện vĩ mô, việc xác định giá trị của sáng chế cũng như lợi ích
kinh tế do sáng chế mang lại cũng được coi là có vai trò quan trọng
16
trong việc
nâng cao nhận thức của công chúng về tầm quan trọng của sáng chế, từ đó thực sự
thừa nhận sáng chế là một loại tài sản vô hình có giá trị, việc khai thác giá trị của
sáng chế được gắn với chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế cũng như
tôn trọng độc quyền đối với sáng chế của người khác; vi

ệc thúc đẩy hoạt động
chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ thương mại công nghệ ngày
càng chiếm tỷ trọng tăng dần trong thương mại quốc tế, do các bên tham gia đàm
phán sẵn sàng ký kết thỏa thuận chuyển giao công nghệ trên cơ sở đã xác định rõ

16
Ma Lianyuan, “Valuation of Intellectual Property Assets: Valuation Techniques, Parameters, Methodologies
and Limitations”, 11/2000

10
ràng giá trị của công nghệ được chuyển giao; việc thúc đẩy hoạt động đầu tư vào các
ngành công nghiệp, trong đó sáng chế có giá trị được xác định và được coi là một
phần/toàn bộ tài sản đầu tư liên quan đến việc thành lập các doanh nghiệp hoặc liên
doanh hoạt động trong những ngành công nghiệp mới.

II. Tổng quan về các cách tiếp cận định giá sáng chế
1. Một số khái niệm về giá trị và định giá sáng chế

Theo tác giả Boer, F.P.
17
, “định giá được hiểu là việc gán một lượng tiền tệ
nhất định vào đối tượng được định giá”. Theo tác giả Rick Neifeld
18
, “định giá là
một thuật ngữ kế toán dùng để chỉ tổng số tiền phải trả để nhận được những lợi ích
trong tương lai của một tài sản vào thời điểm nhất định”. Trong lĩnh vực sáng chế,
theo tác giả Robert Pitkethly
19
, “định giá bằng độc quyền sáng chế hoặc đơn đăng ký
sáng chế hoàn toàn liên quan tới việc đưa ra quyết định về tương lai giống như việc

mức giá thị trường cổ phiếu do nhà đầu tư quyết định trên cơ sở hiệu quả kinh doanh
trong tương lai của công ty”. Còn theo Patent Hawk
20
, “định giá bằng độc quyền
sáng chế được hiểu là việc ước tính giá trị thị trường của công nghệ được cấp bằng
độc quyền sáng chế chứ không phải để tiến hành kế toán; trong đó, giá trị của một
bằng độc quyền sáng chế phản ảnh phạm vi bảo hộ và nhu cầu đối với sáng chế
được bảo hộ so với tình trạng kỹ thuậ
t; giá trị thị trường của bằng độc quyền sáng
chế hoàn toàn là sự tính toán thu nhập tiềm năng của sản phẩm hoặc dịch vụ sử dụng
sáng chế được cấp bằng độc quyền”.
Những khái niệm nêu trên chỉ là một trong nhiều cách thể hiện khác nhau liên
quan tới khái niệm về định giá sáng chế. Một cách tổng quát, định giá sáng chế được
hiểu là việc xác định “giá trị
” của sáng chế tại một thời điểm nhất định trong những
điều kiện nhất định. Nói cách khác, “giá trị” của sáng chế là mục tiêu của việc định
giá sáng chế.
Như đã đề cập ở trên (mục I.1.), khái niệm giá trị của sáng chế thuộc nội hàm
khái niệm giá trị của hàng hóa
21
. Khái niệm về giá trị và các khái niệm liên quan tới
giá trị (giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, giá cả) của hàng hóa có một quá trình phát
triển lâu dài trong lịch sử kinh tế học và triết học và có nội hàm được mở rộng dần
theo thời gian. Giá trị
(value) của hàng hóa là thuộc tính bản chất của hàng hóa,
được hiểu là kết quả của lao động sống (living labor) của người tạo ra hàng hóa và
lao động được vật hóa (materialized labor) kết tinh trong hàng hóa đó. Nói cách
khác, giá trị của hàng hóa là giá trị lượng lao động tiêu hao để tạo ra hàng hóa đó
và được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (socially necessary labor time),


17
Boer F.P., “The real options solution - Finding value in a high-risk world”, John Wiley & Sons Inc., 2002
18
Rick Neifeld, “Patent Valuation from a Practical View Point, and Some Interesting Patent Value Statistics from
the PatentValuePredictor Model”, 2009
19
Robert Pitkethly, “The Valuation of Patents: A Review of Patent Valuation Methods with Consideration of
Option Based Methods and the Potential for Further Research”, 1997
20
Patent Hawk, “Patent Valuation Theory”, 2009
21
Ma Lianyuan, “Valuation of Intellectual Assets: Valuation Techniques, Parameters, Methodologies and
Limitations”, 30/10/2009

11
trong đó thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động xã hội trung bình
để tạo ra hàng hóa tương ứng. Theo khái niệm này, lượng giá trị của hàng hóa chịu
ảnh hưởng của ba yếu tố cơ bản: năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ
phức tạp của lao động.
Bất kỳ hàng hóa nào cũng đều có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng
(Use
Value) của hàng hóa được hiểu là tính hữu ích, hoặc tính năng/công dụng của hàng
hóa đó nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định của việc sản xuất/kinh doanh hoặc tiêu
dùng cá nhân. Giá trị sử dụng được quyết định bởi những thuộc tính tự nhiên (vốn
có) của hàng hóa và những thuộc tính do con người tạo ra cho hàng hóa đó.
Nếu hàng hóa được trao đổi trên thị trường thì hàng hóa đó có thêm giá trị trao
đổi. Giá trị trao đổi
(Exchange Value) lấy giá trị sử dụng làm cơ sở, là tỷ lệ theo đó
một lượng giá trị sử dụng của loại hàng hóa này được trao đổi với một lượng giá trị
sử dụng của loại hàng hóa khác; tỷ lệ này được quyết định bởi lao động (gồm thời

gian lao động và công sức lao động) kết tinh trong hàng hóa. Nói cách khác, giá trị
trao đổi của hàng hóa là sự phản ảnh giá trị trong quá trình trao đổi. Giá trị trao đổi
của hàng hóa thường được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá hay
giá cả của hàng hóa đó.
Giá cả
(Price) của hàng hóa là biểu hiện bằng tiền của giá trị trao đổi của hàng
hóa đó; nói cách khác, giá cả của hàng hóa là số tiền phải trả để có được hàng hóa
đó. Giá cả của hàng hóa là một đại lượng thay đổi so với giá trị: khi lượng cung và
lượng cầu của một hàng hóa tương đương với nhau thì giá cả phản ánh và phù hợp
với giá trị của hàng hóa đó; khi lượng cung thấp hơn lượng cầu thì giá cả
sẽ cao hơn
giá trị; khi lượng cung cao hơn lượng cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị. Giá cả phụ
thuộc nhiều yếu tố như: lao động hao phí của người tạo ra hàng hóa, vị thế của hàng
hóa, độ khan hiếm của hàng hóa, thói quen tâm lý, quy định xã hội…
Như vậy, theo các khái niệm kinh tế học và triết học nêu trên, giá trị của sáng
chế được hiểu là giá trị lượng lao động tiêu hao (lao động c
ủa tác giả sáng chế và
chi phí đầu tư/chi phí cho phương tiện vật chất) để tạo ra sáng chế đó. Giá trị của
sáng chế được phản ảnh bởi giá trị trao đổi và được biểu hiện dưới hình thức giá cả
của sáng chế trong quá trình khai thác giá trị sử dụng của sáng chế đó.
Theo lý thuyết tài chính hiện đại, khái niệm “giá trị” của sáng chế như trên
dường như chưa phả
n ảnh một cách cụ thể đặc tính “sinh lợi” của sáng chế. Các khái
niệm về “giá trị”của sáng chế theo nghĩa hẹp hơn và được sử dụng phổ biến hơn
chủ yếu coi khả năng tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai, hoặc tiềm năng thương
mại, của một sáng chế là yếu tố quyết định giá trị của sáng chế đó. Chẳng hạ
n, theo
tác giả Smith & Parr
22
, giá trị của sáng chế là sự thể hiện tất cả những lợi ích trong

tương lai của quyền sở hữu sáng chế được gộp lại để thanh toán một lần. Còn theo
Patent Hawk
23
, “giá trị thị trường của bằng độc quyền sáng chế hoàn toàn là sự tính

22
Gordon V. Smith & Russel L. Parr, “Valuation of Intellectual Property and Intellectual Assets”, 3
rd
ed., John
Wiley & Sons, Inc., 2000
23
Patent Hawk, “Patent Valuation Theory”, 2009

12
toán thu nhập tiềm năng của sản phẩm hoặc dịch vụ có sử dụng sáng chế được cấp
bằng độc quyền sáng chế”… Một cách tổng quát, giá trị của sáng chế được xác định
bởi lợi ích kinh tế trong tương lai do sáng chế mang lại được quy về thời điểm hiện
tại.
2. Những nguyên tắc kinh tế chi phối việc định giá sáng chế
Như đã đề cập ở trên, giá trị của sáng chế được biểu hiện bằng giá cả của sáng
chế trên thị trường, do đó chịu tác động bởi các yếu tố nội tại như giá trị sử dụng
(tính hữu ích) của sáng chế, tuổi đời kinh tế của sáng chế và các yếu tố ngoại lai
như nhu cầu, khả năng thanh toán của người mua sáng chế, tình hình thị trườ
ng công
nghệ thuộc lĩnh vực của sáng chế (mật độ sáng chế tương tự) Vì vậy, quá trình
định giá sáng chế đòi hỏi sự phân tích các yếu tố tác động nói trên đến sự hình thành
giá trị của sáng chế, nói cách khác là cần phải xem xét mối quan hệ kinh tế giữa các
yếu tố đó với giá trị của sáng chế. Mối quan hệ đó chịu sự chi phối bởi những
nguyên tắc kinh tế c
ơ bản sau đây.

(i) Nguyên tắc sử dụng tốt nhất và có hiệu quả nhất
Việc sử dụng tốt nhất và có hiệu quả nhất đối với sáng chế là sự khai tác tối đa
các khía cạnh kỹ thuật, pháp lý, tài chính trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội phù hợp
nhằm mang lại giá trị lớn nhất cho sáng chế.
Quá trình định giá sáng chế nhằm xác định lợi ích kinh tế trong tương lai do sáng
chế mang lạ
i thường dựa trên giả định sáng chế được sử dụng theo nguyên tắc này
nhằm tính toán giá trị tối đa của sáng chế; tuy nhiên, một sáng chế đang được sử dụng
trong thực tế không nhất thiết có nghĩa là sáng chế đó được sử dụng tốt nhất và có hiệu
quả nhất, do đó cần phải xem xét thêm những yếu tố ảnh khác ảnh hưởng tới tình trạng
sử dụng như vậy khi tiến hành định giá.
(ii) Nguyên tắc cung - cầu
Giá trị của một sáng chế được xác định bởi mối quan hệ cung và cầu về sáng chế
đó trên thị trường; ngược lại, giá trị của sáng chế cũng tác động đến cung và cầu về
sáng chế đó trên thị trường. Giá trị của sáng chế thay đổi tỷ lệ thuận với cầu và tỷ lệ
nghị
ch với cung về sáng chế. Vì vậy, trong quá trình định giá sáng chế cần phải xem
xét những yếu tố ảnh hưởng tới mối quan hệ cung - cầu về sáng chế để xác định giá trị
của sáng chế. Những yếu tố cơ bản thường được đưa vào xem xét bao gồm: các đặc
điểm về kỹ thuật, pháp lý và kinh tế của sáng chế; các đặc điểm của người mua
và/hoặc ngườ
i bán sáng chế hiện tại và tiềm năng; các đặc điểm của thị trường (lĩnh
vực công nghệ của sáng chế)
(iii) Nguyên tắc thay đổi
Giá trị của sáng chế không mang tính bất biến mà biến đổi theo sự thay đổi của
những yếu tố hình thành nên giá trị của sáng chế đó; nói cách khác, có sự tồn tại mối
quan hệ nhân quả giữa các yếu tố ảnh hưởng tới giá tr
ị của sáng chế và giá trị của sáng
chế đó.Vì vậy, quá trình định giá sáng chế thường dựa trên giả định vào thời điểm định
giá các thông tin, dữ liệu được sử dụng không thay đổi (ổn định) nhằm cho phép xác

định chính xác lượng giá trị của sáng chế.

13
(iv) Nguyên tắc thay thế
Trong trường hợp có sự tồn tại của hai hay nhiều sáng chế có thể thay thế lẫn
nhau trong quá trình sử dụng, thì giá trị của những sáng chế đó được xác định bởi sự
tác động lẫn nhau giữa sáng chế này với sáng chế kia; nói cách khác, giá trị của sáng
chế được định giá chịu tác động bởi giá trị của những sáng chế thay thế khác. Giá trị
tối đa của sáng ch
ế có xu hướng được thiết lập bởi chi phí mua sáng chế thay thế. Đây
là yếu tố cần được xem xét nếu quá trình định giá sáng chế có áp dụng nguyên tắc thay
thế.
(v) Nguyên tắc thu nhập tăng hoặc giảm
Theo nguyên tắc này, thu nhập do sáng chế mang lại có xu hướng tăng liên tục
tương ứng với khoản đầu tư tăng lên cho việc sử dụng sáng chế; tuy nhiên, sự gia tăng
của thu nhập chỉ có gi
ới hạn (ngưỡng) nhất định, vượt qua ngưỡng đó thì mặc dù đầu
tư tiếp tục tăng nhưng thu nhập tăng thêm sẽ giảm dần. Vì vậy, trong quá trình định giá
sáng chế cần phải xem xét mối tương quan giữa đầu tư (chi phí) và thu nhập nhằm bảo
đảm tuân thủ nguyên tắc này.
(vi) Nguyên tắc đóng góp
Theo nguyên tắc này, mức độ đóng góp của sáng chế vào tổng thu nhập từ sản
phẩm là yếu tố tác động đến giá trị của sáng chế; nói cách khác tổng thu nhập từ một
sản phẩm phụ thuộc vào sự có mặt hoặc vắng mặt của sáng chế đó. Vì vậy, giá trị của
sáng chế có thể được xác định bằng lượng thu nhập chênh lệch từ sản phẩm có sử dụng
sáng chế và không sử dụng sáng chế trong điều kiện sáng chế đượ
c sử dụng ở mức độ
tốt nhất và có hiệu quả nhất.
(vii) Nguyên tắc cạnh tranh
Theo nguyên tắc này, lợi nhuận cao vượt trội sẽ thúc đẩy cạnh tranh, ngược lại

cạnh tranh quá mức có thể làm giảm lợi nhuận và có thể triệt tiêu lợi nhuận. Vì lợi
nhuận là thước đo giá trị của sáng chế đồng thời là kết quả của sự cạnh tranh (nế
u có)
trên thị trường, nên trong quá trình định giá sáng chế cần phải xem xét mối quan hệ
cạnh tranh giữa sáng chế cần định giá và những sáng chế tương tự trên thị trường.
(viii) Nguyên tắc ước tính lợi ích tương lai
Theo nguyên tắc này, giá trị của sáng chế có thể được xác định bằng việc ước
tính khả năng sinh lợi trong tương lai của sáng chế dựa trên triển vọng thương mại của
sáng chế và/hoặ
c kỳ vọng của chủ sở hữu sáng chế về lợi ích tương lai thu được từ
sáng chế. Vì quá trình định giá theo nguyên tắc này hoàn toàn dựa trên sự ước tính nêu
trên nên kết quả định giá mang tính chủ quan và phụ thuộc vào mức độ chính xác của
việc dự báo khả năng sinh lợi trong tương lai của sáng chế. Do đó nhằm bảo đảm độ
tin cậy của kết quả định giá cần phải xem xét thêm những y
ếu tố ảnh hưởng tới giá trị
của sáng chế cũng như khả năng áp dụng các phương pháp định giá khác để kiểm tra
lại kết quả.



14
3. Các cách tiếp cận định giá sáng chế cơ bản
Cách tiếp cận định giá (valuation approach) sáng chế được hiểu là cách ước
tính giá trị của sáng chế bằng việc áp dụng một hoặc nhiều phương pháp định giá
(valuation method) đặc thù; nói cách khác một cách tiếp cận định giá sáng chế là
một nhóm phương pháp định giá có bản chất giống nhau, trong đó, phương pháp
định giá sáng chế được hiểu là cách thức cụ thể để tính toán giá trị của sáng chế theo
một cách tiếp cậ
n định giá đã lựa chọn
24

. Trong hầu hết tài liệu tham khảo về định
giá trong kinh doanh
25
, có bốn cách tiếp cận (nhóm phương pháp) định giá sáng chế
được thừa nhận rộng rãi, đó là: cách tiếp cận định giá dựa trên chi phí, cách tiếp cận
định giá dựa trên thị trường, cách tiếp cận định giá dựa trên thu nhập, và cách tiếp
cận định giá dựa trên quyền chọn. Các cách tiếp cận nói trên bao gồm các phương
pháp định lượng (quantitative method) nhằm tính toán giá trị bằng tiền của sáng chế
ở thời điểm hi
ện tại. Nội dung cơ bản của các cách tiếp cận nói trên như sau.
3.1. Cách tiếp cận chi phí (Cost based approach)

Cách tiếp cận chi phí xác định giá trị của một sáng chế bằng cách tính toán
tổng chi phí phát sinh mà một doanh nghiệp bỏ ra để tạo ra và phát triển sáng chế
tương đương của doanh nghiệp đó hoặc của doanh nghiệp khác. Tổng chi phí để tạo
ra và phát triển sáng chế được coi là một trong những yếu tố quyết định giá trị của
sáng chế đó.
Cách tiếp cận chi phí gồm có ba phương pháp sau đây:
(i) Ph
ương pháp chi phí quá khứ (Historic cost)
Phương pháp này xác định tổng chi phí phát sinh trong quá khứ để tạo ra và
phát triển sáng chế so sánh đồng nhất với sáng chế cần định giá vào thời điểm sáng
chế cần định giá được tạo ra và phát triển.
Trên thực tế phương pháp này không được áp dụng phổ biến do đặc tính “độc
nhất” của sáng chế cần định giá nên hiếm khi tồn tại một sáng chế khác giống hệt để
tiến hành so sánh. Tuy nhiên, việc tính toán các chi phí quá khứ cho sáng chế thường
được thực hiện để phục vụ cho việc xác định chi phí tái tạo theo phương pháp (ii)
dưới đây.
(ii) Phương pháp chi phí tái tạo (Replication cost)
Phương pháp này xác định tổng chi phí đầu tư để tạo ra và phát triển sáng chế

so sánh tương đương với sáng chế cần định giá theo cùng một cách thức vào thời
điểm hiện tại. Các chi phí đầu tư nói trên bao gồm cả chi phí nghiên cứu và phát
tri
ển, trong đó có chi phí cho việc áp dụng thử nghiệm (prototypes) không thành
công, nếu có.
(iii) Phương pháp chi phí thay thế (Replacement cost)

24
Anna Boman & Jonas Larsson, “Patent Valuation in Theory and Practice”, 16/01/2003
25
Housel, T. & Bell, A., “Measuring and managing Knowledge”, McGraw-Hill, 2001

15
Phương pháp này xác định tổng chi phí cần thiết để có được (mua) sáng chế so
sánh tương đương với sáng chế cần định giá do doanh nghiệp khác tạo ra và phát
triển.
Theo phương pháp (ii) và (iii) trên đây, giá trị của sáng chế được xác định là
giá trị chênh lệch giữa chi phí tái tạo (hoặc chi phí thay thế) và mức độ hao mòn của
sáng chế. Mức độ hao mòn của sáng chế có thể bao gồm mức hao mòn do thời gian
sử dụng sáng chế (còn g
ọi là hao mòn tự nhiên - physical depreciation, PD), và/hoặc
do lỗi thời công nghệ (còn gọi là hao mòn chức năng - functional obsolescence, FO)
và/hoặc do tác nhân bên ngoài (còn gọi là hao mòn kinh tế - economic obsolescence,
EO)
26
. Do đó, giá trị của sáng chế được xác định theo công thức tổng quát sau đây:
V = CRN - (PD + FO + EO) (C1)
hoặc V = COR - (PD + FO + EO) (C2)
trong đó: V là giá trị của sáng chế
CRN là chi phí tái tạo (Cost of Repropduction New)

COR là chi phí thay thế (Cost of Replacement)
PD là mức hao mòn tự nhiên
FO là mức hao mòn chức năng
EO là mức hao mòn kinh tế
Trong Công thức (C1) và (C2) nói trên, các số hạng PD, FO, EO xuất hiện khi
xác định được mức độ hao mòn tương ứng. Chẳng hạn, nếu không có hoặc không
tính toán được mức hao mòn tự nhiên (PD) và mức hao mòn kinh tế (EO), thì mức
độ hao mòn của sáng chế chỉ được xác định theo hao mòn chức năng (FO).
Các chi phí (tái tạo hoặc thay thế) nói trên thường được xác định bao gồm các
chi phí cơ bản sau đây
27
:
- Chi phí trực tiếp: Chi phí cho đơn đăng ký sáng chế (application), bao gồm
chi phí nộp đơn, thẩm định, cấp bằng độc quyền, dịch thuật tài liệu, chi phí thuê luật
sư/đại diện; Chi phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền sáng chế (maintenance); Chi
phí bảo vệ (defending) và thực thi (enforcement) quyền đối với sáng chế…
- Chi phí gián tiếp: Chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D expenses), bao gồm
chi phí cho nhân lực, nguồn cung cấp đầu vào, thi
ết bị kiểm tra và thí nghiệm, quá
trình thử nghiệm, thông tin/dữ liệu, năng lượng; Chi phí công bố (publication),
thông báo (signaling); Chi phí sản xuất (production), tiếp thị (marketing), bao gồm
chi phí mua sắm máy móc/công cụ sản xuất, chi phí sản xuất ban đầu, chi phí phát
triển sản xuất, chi phí đào tạo nhân lực; chi phí mua (procurement) sáng chế (theo li-
xăng chéo)…

26
Gordon Smith, “Assessment and Valuation of Inventions and Research Results for Their Use and
Commercialization”, 4/2002
27
Stephan Hundertmark, “Cost Approach”, 2/2008


16
Mức độ hao mòn của sáng chế được xác định theo cách tính toán mức độ hao
mòn của tài sản cố định.
Ví dụ
: Xác định giá trị của sáng chế X được cấp bằng độc quyền sáng chế châu
Âu theo cách tiếp cận chi phí tái tạo
28
:
- Các chi phí trực tiếp cho sáng chế X gồm có:
Đơn vị tính: Euro
Chi phí trực tiếp Năm -2 Năm -1 Năm 0
(năm hiện tại)
Nộp đơn đăng ký sáng chế 300 0 0
Thẩm định đơn đăng ký sáng chế 500 0 0
Cấp bằng độc quyền sáng chế 0 0 600
Dịch thuật tài liệu đơn 0 0 6.000
Phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền
sáng chế
0 0 960
Phí quản lý, quản trị (administration) 3.840 1.920
Chi phí thuê luật sư sáng chế 3.600 800 1.000
Tổng cộng 8.240 2.720 8.560

- Các chi phí gián tiếp cho sáng chế X gồm có:
Đơn vị tính: Euro
Các chi phí gián tiếp được phép Năm -4 Năm -3 Năm -2 Năm -1 Năm 0 (năm
hiện tại)
1. Chi phí nghiên cứu và phát triển
(R&D)


- Nhân lực 96.000 48.000
- Nguồn cung cấp đầu vào
(consumable supply)
45.000 51.100
- Trang thiết bị thí nghiệm, thử
nghiệm
12.000 62.500
- Tiến hành thử nghiệm 0 74.000
- Thông tin/dữ liệu 18.000 6.500
- Năng lượng (energy) 3.000 1.900
Tổng cộng (1) 174.000 244.000
2. Chi phí thực hiện (sử dụng sáng
chế)

- Mua sắm công cụ sản xuất
(production tool development)
4.100 12.700 36.883
- Khởi động sản xuất (initializing
production)
0 12.571 40.571
- Phát triển sản xuất (production
ramp up)
0 0 110.000
- Đào tạo (training) 44.000 23.000 34.500
Tổng cộng (2) 48.100 48.271 221.954

28
Stephan Hundertmark, “Cost Approach”, 2/2008


17
Các chi phí gián tiếp được phép Năm -4 Năm -3 Năm -2 Năm -1 Năm 0 (năm
hiện tại)
Tổng (1) +(2) 174.000 244.000 48.100 48.271 221.954

- Tổng chi phí quá khứ cho sáng chế X (bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí
gián tiếp) là: Năm -4: 174.000 Euro; Năm -3: 244.000 Euro; Năm -2: 56.340 Euro;
Năm -1: 50.991 Euro; Năm 0: 230.514 Euro. Do đó tổng chi phí từ năm -4 đến năm
0 là: 755.845 (Euro).
- Biết tuổi đời kinh tế của sáng chế là 16 năm (bằng độc quyền sáng chế còn
hiệu lực trong vòng 16 năm), tuổi đời hiệu quả của sáng chế là 9 năm (sáng chế đã
được đưa vào khai thác 9 năm) - không có số liệu
đầy đủ và chính xác để tính toán
mức độ hao mòn tự nhiên và hao mòn kinh tế, do đó mức hao mòn của sáng chế
được xác định theo mức hao mòn chức năng là: (9/16) x 755.845 = 425.162 (Euro).
Do đó giá trị hiện tại của sáng chế X là: 755.845 - 425.162 = 330.683 (Euro.)
Ưu điểm của cách tiếp cận chi phí là làm cho sáng chế xuất hiện trong sổ sách
kế toán của doanh nghiệp với tư cách một loại tài sản được hạch toán, do đó góp
phần nâng cao nhận thức củ
a doanh nghiệp về giá trị kinh tế của sáng chế. Kết quả
của cách tiếp cận này cũng là một chỉ số hữu ích phản ảnh giá trị của sáng chế, đặc
biệt là trong trường hợp lợi ích kinh tế trong tương lai của sáng chế đó chưa thực sự
rõ ràng (chẳng hạn sáng chế đang trong quá trình phát triển hoặc ở giai đoạn đầu của
quá trình khai thác thương mại).
Tuy nhiên, cách tiế
p cận chi phí lại bộc lộ khá nhiều nhược điểm khiến cho
cách tiếp cận này không được áp dụng phổ biến trong thực tiễn định giá sáng chế.
Nhược điểm lớn nhất của cách tiếp cận này là chỉ sử dụng một yếu tố (yếu tố chi
phí) để xác định giá trị của sáng chế, trong khi thực tế cho thấy rằng thường không
có mối tương quan trực tiếp giữa chi phí tạo ra/phát triển một sáng chế với thu nhập

tiềm năng (trong tương lai) của sáng chế đó: nhiều sáng chế được tạo ra/phát triển
với chi phí tốn kém nhưng lại không phải là những sáng chế có giá trị kinh tế tương
xứng chi phí đã bỏ ra, ngượ
c lại có những sáng chế vẫn duy trì khả năng mang lại
giá trị to lớn đối với doanh nghiệp sau nhiều năm sử dụng mặc dù chi phí cho sáng
chế đó giảm dần theo thời gian. So với các cách tiếp cận định giá khác, cách tiếp cận
chi phí hoàn toàn không xem xét tới lợi ích kinh tế tương lai mà sáng chế có khả
năng mang lại. Một nhược điểm khác của cách tiếp cận chi phí là thường chỉ xem
xét các dòng tiền ra (chi phí) trong quá khứ
mà không xem xét tới khả năng thích
ứng của sáng chế với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ trong hiện tại và
tương lai. Hơn nữa, không phải lúc nào cũng có thể có được thông tin chính xác về
chi phí tạo ra/phát triển sáng chế so sánh tương đương cũng như chưa có sự thống
nhất rõ ràng về loại chi phí nào được coi là thuộc chi phí tạo ra/phát triển sáng chế.

18
Trong thực tế, cách tiếp cận chi phí thường được sử dụng trong lĩnh vực kế
toán hoặc các nghiệp vụ tài chính khác tuân theo các quy tắc kế toán. Vì vậy, cách
tiếp cận này chỉ hữu ích trong trường hợp được áp dụng nhằm mục đích kế toán
hoặc nhằm bổ trợ cho cách tiếp cận thu nhập (đối chiếu kết quả), và cũng chỉ thích
hợp trong hệ thống kế toán dựa trên chi phí quá khứ ho
ặc khi phương pháp tính thuế
quy định phải áp dụng phương pháp này.

3.2. Cách tiếp cận thị trường (Market based approach)

Cách tiếp cận thị trường xác định giá trị của một sáng chế bằng cách so sánh
với mức giá được các bên độc lập (không phụ thuộc) với nhau thỏa thuận trong giao
dịch về một sáng chế tương đương vào thời điểm gần nhất. Mức giá của sáng chế
theo thỏa thuận nói trên trong thị trường tích cực (active market) được coi là giá trị

của sáng chế cần định giá, dựa trên nguyên tắ
c thị trường quyết định giá cả chính
xác và do đó quyết định giá trị của sáng chế.
Cách tiếp cận thị trường gồm có ba phương pháp cơ bản sau đây:
(i) Phương pháp đấu giá (auction)
Theo phương pháp này, giá trị của sáng chế được xác định là mức giá cuối
cùng trong cuộc đấu giá hoàn hảo với nhiều người mua tiềm năng có thông tin hoàn
hảo về tất cả các khía cạnh (kinh tế, kỹ thuật, pháp lý…) c
ủa sáng chế.
(ii) Phương pháp giá trị thị trường so sánh (Comparable market value)
Theo phương pháp này, giá trị của sáng chế được xác định bằng cách so sánh
với giá trị thị trường (market value) của sáng chế tương đương hoặc sáng chế trong
giao dịch tương đương.
(iii) Phương pháp phí li-xăng so sánh (Comparable royalty rate)
Theo phương pháp này, giá trị của sáng chế được xác định bằng cách so sánh
với thu nhập từ sáng chế tương đương là đối tượng của th
ỏa thuận li-xăng trên cơ sở
mức phí li-xăng hợp lý giữa hai bên có quan hệ độc lập bên ngoài doanh nghiệp
(nguyên tắc chiều dài cánh tay ngoại lai - external arm’s length principle) hoặc giữa
doanh nghiệp với bên thứ ba (nguyên tắc chiều dài cánh tay nội bộ - internal arm’s
length principle)
29
. Để đạt được kết quả định giá đáng tin cậy hơn, người ta thường
sử dụng tỷ suất trung bình của ngành công nghiệp (tương ứng với lĩnh vực kỹ thuật
của sáng chế) làm cơ sở để ấn định tỷ suất (suất) phí li-xăng trong các thỏa thuận li-
xăng hoặc trong quá trình xác định mức độ thiệt hại theo thủ tục tố tụ
ng. Do đó, giá
trị của sáng chế được xác định theo công thức sau đây:
n
V = (Σ S

i
. r
i
) / n (C3)
i=1

29
Grünewald, Dr.rer.nat, Alexander Wurzer, “Reasons for Patent Valuation”, 4/2007

19
trong đó: V là giá trị của sáng chế
S
i
là thu nhập từ sáng chế thứ i (i = 1÷n)
r
i
là tỷ suất phí li-xăng của sáng chế thứ i (i = 1÷n)
n là số lượng sáng chế so sánh tương đương
Trong trường hợp không có thông tin về tỷ suất phí li-xăng sáng chế so sánh
tương đương, người ta thường áp dụng Quy tắc 25% (25 percent rule, hoặc rule of
thumb)
30
. Theo quy tắc này, bên giao li-xăng được nhận 25% tổng lợi nhuận (gross
profit) mà bên nhận li-xăng thu được từ việc sử dụng/khai thác sáng chế, còn bên
nhận li-xăng được nhận 75% tổng lợi nhuận để bù đắp rủi ro và những nỗ lực tài
chính trong việc phát triển, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm
31
.
Ví dụ
:

Xác định giá trị của sáng chế X (sáng chế về sản phẩm điện tử) biết doanh thu
trong một năm theo thỏa thuận li-xăng từ các sáng chế so sánh (tương đương với X)
X1 là 2.700.000 USD, X2 là 3.150.000 USD, X3 là 2.920.000 USD.
Giá trị của Sáng chế X được tính toán như sau:
- Tỷ suất phí li-xăng trung bình trong lĩnh vực công nghệ điện tử được xác định
là 3%
32
.
- Thu nhập từ sáng chế được li-xăng được tính toán như sau:
Đơn vị tính: USD
Sáng chế X1 Sáng chế X2 Sáng chế X3
Doanh thu/năm từ sáng chế (S
i
) 2.700.000 3.150.000 2.920.000
Tỷ suất phí li-xăng (r
i
) 3% 3% 3%
Thu nhập từ sáng chế được li-xăng
(S
i
.r
i
)
81.000 94.500 87.600

- Áp dụng Công thức (C3) với n=3, giá trị của sáng chế X là: (81.000 + 94.500
+ 87.600) : 3 = 87.700 (USD).

30
Ankur Singla, “Valuation of Intellectual Property”, 2007

31
Dr. John Turner, “Valuation of Intellectual Property Assets: Valuation Techniques, Parameters, Methodologies
and Limitations”, 11/2000
32
Tỷ suất phí li-xăng trung bình trong một lĩnh vực công nghệ cụ thể chủ yếu được xác định trên cơ sở kết quả
điều tra/khảo sát thị trường công nghệ liên quan, và/hoặc thông tin/dữ liệu do cơ quan quản lý lĩnh vực tương ứng
cung cấp, và/ hoặc do các tổ chức/hãng/công ty hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ,
định giá tài sản trí tuệ cung cấp. Theo tác giả Thomas Giordano (“Royalty Rates in Intellectual Property
Valuation”, 10/2003), có một s
ố nguồn cơ sở dữ liệu sau đây chuyên cung cấp thông tin về tỷ suất phí li-xăng
phục vụ hoạt động định giá sáng chế: (i) fvginternational.com của The Financial Valuation Group; (ii)
royaltysource.com của Royalty Source, hoặc ausinc.com của Licensing Economics Review; (iii) pl-x.com của
PLX Systems; và (iv) consor.com của Consor Intellectual Asset Management.

20
Ưu điểm của cách tiếp cận thị trường là xác định trực tiếp giá trị của sáng chế
theo giá trị thị trường (do thị trường quyết định). Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng
bộc lộ một số hạn chế. Nhược điểm quan trọng của cách tiếp cận này là đòi hỏi phải
có thị trường tích cực, có sự trao đổi khách quan giữa các bên có mối quan hệ
độc
lập với nhau và có khả năng tiếp cận đầy đủ thông tin về mức giá được giao dịch.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy khó có thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện nói trên (đặc
biệt là hầu hết các sáng chế hiện nay không được mua hoặc bán trên cơ sở thỏa
thuận hợp lý (arm’s length negotiation), do đó không có phí li-xăng được xác định
một cách khách quan
33
). Một hạn chế khác là dường như không thể so sánh trực tiếp
hai sáng chế với nhau do đặc tính “độc nhất” của sáng chế (hiếm khi tồn tại hai sáng
chế trùng nhau hoặc tương đương với nhau để so sánh). Hơn nữa, việc so sánh như
vậy chứa đựng rủi ro (độ chính xác thấp) vì có khả năng tiềm năng thương mại của

sáng chế so sánh chưa thực sự được khai thác một cách tối
đa, nghĩa là chưa thực sự
phản ánh đầy đủ giá trị thực của sáng chế. Đặc biệt là trong trường hợp định giá
sáng chế bằng cách xác định tỷ suất phí li-xăng đối với sáng chế tương đương, giá trị
của sáng chế cần định giá có thể không được xem xét đầy đủ do mức phí li-xăng có
thể được xác định theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn trên cơ sở tỷ suấ
t phí li-
xăng tính theo giá bán tịnh của sản phẩm, hoặc theo doanh số bán hàng năm, hoặc
theo lợi nhuận ròng ; các yếu tố khác (như yếu tố thị trường công nghệ, tuổi đời
kinh tế của sáng chế so sánh, quan hệ giữa bên giao và bên nhận trong giao dịch li-
xăng sáng chế so sánh…) ảnh hưởng tới giá trị của giao dịch li-xăng hầu như không
được xem xét đến do khó có thể có đầy đủ thông tin chi tiết về bản chất c
ủa giao
dịch li-xăng. Ngay cả đối với phương pháp phí li-xăng so sánh là phương pháp được
áp dụng phổ biến hơn cả trong mô hình tiếp cận dựa trên thị trường, khi các doanh
nghiệp lớn hoặc các công ty chuyên cung cấp dịch vụ định giá có sưu tập dữ liệu về
tỷ suất phí li-xăng trong ngành công nghiệp tương ứng hoặc thông tin về các giao
dịch li-xăng tương đương, thì số lượng những sư
u tập dữ liệu như vậy vẫn còn rất ít
ỏi và khó tiếp cận.
Vì vậy, với những ưu nhược điểm nêu trên, cách tiếp cận thị trường thường chỉ
được áp dụng để định giá sáng chế trong trường hợp nhằm kiểm tra, đối chiếu kết
quả của các cách tiếp cận định giá khác. Trong tương lai, cách tiếp cận này có thể sẽ
được áp dụng rộng rãi hơn n
ếu thị trường sáng chế trở nên tích cực hơn và thông tin
về các giao dịch đối với sáng chế được phổ biến công khai hơn một cách tự nguyện
hoặc theo sự điều chỉnh của pháp luật.
3.3. Cách tiếp cận thu nhập (Income based approach)

33

Rick Neifeld, Ph.D., Patent Attorney, “Patent Valuation from a Practical View Point, and Some Interesting
Patent Value Statistics from the PatentValuePredictor Model”, 2009

21
Cách tiếp cận thu nhập được coi là thế hệ thứ hai của các mô hình định giá tài
sản trí tuệ
34
. Như đã đề cập ở trên, giá trị của sáng chế được xác định dựa vào khả
năng tạo ra thu nhập trong tương lai của sáng chế đó. Vì vậy, nhằm xác định giá trị
của một sáng chế, cách tiếp cận thu nhập xác định lợi ích kinh tế tiềm năng trong
tương lai của sáng chế đó. Cách tiếp cận này xem xét ba yếu tố
chủ yếu sau đây:
dòng tiền thuần (net cash flow), thời gian có dòng thu nhập (duration of income
streams), và tỷ suất chiết khấu (discounted rate). Thuộc mô hình tiếp cận này lại có
nhiều phương pháp khác nhau tùy thuộc vào lý do (mục đích) định giá và lĩnh vực
công nghệ tương ứng của sáng chế. Trong số đó, các phương pháp sau đây được áp
dụng phổ biến hơn cả trong thực tiễn:
(i) Phương pháp dòng tiền chiết khấ
u (Discounted Cash Flow - DCF)
Phương pháp này được coi là phương pháp định giá cơ bản và phổ biến nhất
vì cho kết quả đáng tin cậy hơn so với các phương pháp khác
35
. Phương pháp này
xác định giá trị của sáng chế bằng cách tính toán giá trị hiện tại của các dòng tiền
trong tương lai thu được từ sáng chế trong suốt tuổi đời kinh tế (đời sống hữu ích)
của sáng chế đó. Vì vậy, cách tính toán tập trung vào việc xác định các dòng tiền
trong tương lai (future cash flows) từ sáng chế, sau đó chiết khấu các dòng tiền đó
theo tỷ suất chiết khấu (discount rate) để có được giá trị hiệ
n tại (present value) của
sáng chế.

Theo phương pháp này, có hai yếu tố quan trọng phải được xem xét tới, đó là
yếu tố giá trị theo thời gian của tiền (time value of money) và yếu tố rủi ro (risk
factor) của các dòng tiền được dự báo (forecasted cash flows). Cả hai yếu tố này có
thể được xem xét đồng thời thông qua việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu phù hợp đối
với mỗi sáng chế, ho
ặc yếu tố rủi ro của các dòng tiền được dự báo (kể cả những rủi
ro biến đổi theo thời gian) được xem xét trước bằng cách điều chỉnh mức rủi ro, sau
đó xem xét tới yếu tố giá trị theo thời gian của tiền bằng cách chiết khấu mức rủi ro
theo tỷ suất phi rủi ro (risk-free rate). Cả hai biến thể này đều được áp dụng tương
đối phổ biến
36
.

34
Dr. Meir Perez Pugatch, “What is the value of your patent? Theory, myth and reality”, 2008
35
Wayne R. Brown, “Patent Valuation and Patent Damages”, 29/10/2007
36
“Yếu tố rủi ro” còn có thể được xem xét dưới góc độ “các quyết định trong tương lai trong các giai đoạn khác
nhau thuộc tuổi đời kinh tế của sáng chế có tác động tới giá trị của sáng chế”; do đó, để điều chỉnh mức rủi ro,
người ta còn sử dụng phương pháp “phân tích cây quyết định” (Decision Tree Analysis - DTA), nghĩa là phân tích
giá trị của sáng chế theo mỗi quyết định trong tương lai bằng kỹ thuật chiế
t khấu dòng tiền (DCF) để quy các giá
trị đó về thời điểm hiện tại. Phương pháp này có ưu điểm là xem xét tới tính linh hoạt của việc đưa ra quyết định
trong quá trình quản trị sáng chế, nhưng có nhược điểm quan trọng là hoàn toàn dựa trên các quyết định mang tính
giả định, ảnh hưởng tới độ tin cậy của kết quả định giá, do đó không được áp dụng phổ biế
n trong thực tiễn.

22
Giá trị theo thời gian của tiền là một trong những nguyên tắc quan trọng của

của mô hình tiếp cận dựa trên thu nhập, bao gồm giá trị tương lai và giá trị hiện tại
của tiền. Thực tiễn của hoạt động kinh tế đã chỉ ra mối quan hệ giữa giá trị tương lai
và giá trị hiện tại của tiền, theo đó một đồng tiền ngày hôm nay có giá trị cao hơn
một
đồng tiền trong tương lai và ngược lại
37
. Trong quản trị tài chính, có thể dự
báo/ước tính những dòng tiền (tức là một khoản tiền bỏ ra - dòng tiền ra, hoặc nhận
được - dòng tiền vào) khác nhau trong tương lai; tuy nhiên, vì không thể so sánh
được những lượng giá trị tương ứng với tương lai khác nhau, người ta thường sử
dụng giá trị hiện tại của tiền làm cơ sở định giá. Việc xác định giá trị hiện tại của
tiền có thể là xác
định giá trị hiện tại của dòng tiền đều (nghĩa là có những khoản
tiền - thu nhập hoặc chi phí - bằng nhau xuất hiện ở mỗi giai đoạn của đường thời
gian), hoặc giá trị hiện tại của dòng tiền biến thiên (nghĩa là có những khoản tiền
khác nhau xuất hiện ở mỗi giai đoạn của đường thời gian). Với giả định rằ
ng các
dòng tiền xuất hiện vào cuối mỗi giai đoạn, giá trị hiện tại của dòng tiền được xác
định theo công thức sau đây:
- Trường hợp dòng tiền đều:
n
PVA = CF . ∑ (1/1+i)
t
(C4)

t=1
trong đó: PVA là giá trị hiện tại của các dòng tiền đều (Present
Value of Annuity) trong n giai đoạn (năm);
CF là dòng tiền (Cash Flows)
t là năm thứ t (t= 1÷n)

n là số giai đoạn (năm), hoặc tuổi đời kinh tế
i là tỷ suất chiết khấu
(1/1+i)
t
còn gọi là thừa số giá trị hiện tại của dòng tiền
đều (Present Value Factor of Annuity - PVFA)
- Trường hợp dòng tiền biến thiên:
n
PV = ∑ CF
t
(1/1+i)
t
(C5)

t=1
trong đó: PV là giá trị hiện tại của các dòng tiền (Present Value)
trong n giai đoạn (năm);
CF
t
là dòng tiền giai đoạn thứ t (t= 1÷n)
n là số giai đoạn (năm), hoặc tuổi đời kinh tế
i là tỷ suất chiết khấu
(1/1+i)
t
còn gọi là thừa số giá trị hiện tại của dòng tiền
(Present Value Factor - PVF)

37
TS. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Ths. Nguyễn Quang Ninh, “Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp”, 1997


23
Hai công thức (C4) và (C5) nói trên thường được áp dụng để định giá sáng chế
theo cách tiếp cận thu nhập dựa trên dòng tiền chiết khấu, trong đó công thức xác
định giá trị hiện tại của sáng chế trên cơ sở dòng tiền biến thiên (Công thức (C5)) là
công thức tổng quát. Theo công thức này, giá trị hiện tại của sáng chế phụ thuộc vào
ba biến số sau đây: dòng tiền; tỷ suất chiết khấu; và tuổi đời kinh tế c
ủa sáng chế.
Các biến số này được xác định như sau:
- Dòng tiền (CF): được hiểu là thu nhập (hoặc thu nhập ròng) trong tương lai
do sáng chế mang lại trong một số năm nhất định (tương ứng với tuổi đời kinh tế của
sáng chế). Do đó, việc xác định dòng tiền từ sáng chế chủ yếu dựa trên cơ sở dự báo
(ước tính). Tuy nhiên, trong quá trình định giá sáng chế, cần có sự phân biệt thu
nh
ập do khối tài sản (bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình, trong đó có sáng
chế) mang lại, từ đó tính toán thu nhập từ sáng chế bằng cách bóc tách khỏi thu nhập
từ cả khối tài sản đó; nói cách khác, giá trị của sáng chế là lượng giá trị còn lại sau
khi lấy giá trị của toàn bộ khối tài sản trừ đi giá trị của các tài sản khác;
- Tỷ suất chiết khấu (i): là một biến số dùng để quy đổ
i giá trị tương lai của
dòng tiền về thời điểm hiện tại. Theo tác giả John Turner
38
, tỷ suất chiết khấu gồm
có ba yếu tố thành phần, đó là tỷ suất rủi ro (risk rate), tỷ giá hối đoái (exchange
rate) và tỷ lệ lạm phát (inflation rate); hoặc theo tác giả Ma Lianyuan
39
, tỷ suất chiết
khấu cũng gồm có ba thành phần, đó là tỷ suất phi rủi ro (risk-free rate), tỷ suất rủi
ro tài chính (risk-taking rate) và tỷ lệ lạm phát (inflation rate); hoặc theo tác giả
Stephan Hundertmark
40

, tỷ suất chiết khấu gồm có hai thành phần, đó là tỷ suất lợi
nhuận phi rủi ro (risk-free interest) và phụ phí rủi ro (risk premium). Ưu điểm của
các cách xác định tỷ suất chiết khấu nói trên trong thực tiễn định giá sáng chế là
tương đối đơn giản; tuy nhiên trong nhiều trường hợp đối với cùng một sáng chế lại
cho kết quả khác nhau, do đó việc lựa chọn kết qu
ả nào phụ thuộc vào mục đích
định giá hoặc thỏa thuận giữa các bên liên quan;
- Tuổi đời kinh tế (n): được hiểu là số giai đoạn (số năm) mà sáng chế có khả
năng mang lại lợi ích kinh tế cho chủ sở hữu. Do đó, tương tự như việc xác định
dòng tiền, tuổi đời kinh tế của sáng chế cũng được xác định trên cơ sở dự báo. Để
xác đị
nh biến số này một cách chính xác, thông thường người ta căn cứ vào các cơ
sở sau đây: thời hạn bảo hộ sáng chế do pháp luật quy định (hoặc thời hạn hiệu lực
của bằng độc quyền sáng chế); hoặc thời hạn được nêu trong thỏa thuận (hợp đồng)
li-xăng sáng chế; hoặc tuổi đời kinh tế được xác định bằng cách phân tích số liệu
thống kê; hoặc tu
ổi đời kinh tế được xác định bằng cách so sánh với tuổi đời của
sáng chế so sánh tương đương; hoặc tuổi đời kinh tế được xác định trên cơ sở dự báo
của chính chủ sở hữu.
Ví dụ
:

38
Dr. John Turner, “Valuation of Intellectual Property Assets: Valuation Techniques, Parameters, Methodologies
and Limitations”, 11/2000
39
Ma Lianyuan, “Valuation of Intellectual Assets: Valuation Techniques, Parameters, Methodologies and
Limitations”, 11/2000
40
Stephan Hundertmark, “Cost Approach”, 2/2008


24
Căn cứ vào thông tin/dữ liệu trong tình huống/bài toán định giá, xác định giá trị
của sáng chế X biết rằng tuổi đời kinh tế của X là 5 năm (từ 2009-2013), tỷ suất lợi
nhuận phi rủi ro là 3,5%, phụ phí (tỷ suất) rủi ro là 12%, doanh thu và chi phí tương
ứng liên quan tới Sáng chế X từ năm 2009 đến năm 2013 được thể hiện tại bảng sau
đây:
Đơn vị: Euro
Năm 2009 2010 2011 2012 2013
Doanh thu 5.000 22.500 64.000 89.500 81.000
Chi phí 45.500 3.750 1.800 1.750 1.000
Giá trị hiện tại của sáng chế X được xác định như sau:
- Thu nhập ròng từ sáng chế từ năm 2009-2013 là:
Đơn vị: Euro
Năm 2009 2010 2011 2012 2013
Doanh thu 5.000 22.500 64.000 89.500 81.000
Chi phí 45.500 3.750 1.800 1.750 1.000
Thu nhập ròng (CF
t
)
(= Doanh thu - Chi phí)
-40.500 18.750 62.200 87.750 80.000
- Tỷ suất chiết khấu (i) và thừa số giá trị hiện tại được xác định như sau:
Tỷ suất chiết khấu = 3,5% + 12% = 15,5%
Thừa số giá trị hiện tại: năm 2009 = 1/(1+0,155)
0
= 1
năm 2010 = 1/(1+0,155)
1
= 0,8658

năm 2011 = 1/(1+0,155)
2
= 0,7496
năm 2012 = 1/(1+0,155)
3
= 0,6490
năm 2013 = 1/(1+0,155)
4
= 0,5619
- Áp dụng Công thức (C5), giá trị hiện tại của sáng chế theo từng năm là:
PV năm 2009 = (-40.500) x 1 = -40.500
PV năm 2010 = 18.750 x 0,8658

= 16.233
PV năm 2011 = 62.200 x 0,7496

= 46.625
PV năm 2012 = 87.750 x 0,6490 = 56.950
PV năm 2013 = 80.000 x 0,5619 = 44.952
Do đó giá trị hiện tại của sáng chế là: PV = (-40.500) + 16.233 + 46.625 +
56.950 + 44.952 = 124.260 (Euro)
(ii) Phương pháp giá trị hiện tại ròng được điều chỉnh rủi ro (risk adjusted net
present value - rNPV)

25
Phương pháp này được phát triển dựa trên cách tiếp cận DCF và chủ yếu được
áp dụng cho ngành công nghiệp dược phẩm và công nghệ vi sinh
41
, theo đó chú
trọng tới sự rủi ro trong quá trình tạo ra/phát triển sáng chế về dược phẩm hoặc vi

sinh phẩm (đặc biệt là quá trình thử nghiệm). Vì vậy, theo phương pháp này, các
dòng tiền ở mỗi giai đoạn của quá trình tạo ra/phát triển sáng chế được điều chỉnh
rủi ro theo tỷ lệ xác suất (probability rates) được ấn định dựa trên các chỉ số thống
kê mức độ rủi ro c
ủa ngành công nghiệp liên quan. Các dòng tiền sau khi được điều
chỉnh rủi ro được chiết khấu về thời điểm hiện tại như cách tiếp cận DCF.
(iii) Phương pháp tiết kiệm phí li-xăng (relief from royalty)
Theo phương pháp này, giá trị của sáng chế được xác định trên cơ sở phí li-
xăng mà doanh nghiệp phải trả cho bên thứ ba theo thỏa thuận (giả định) để được
chuyển giao quyền sử dụng đố
i với sáng chế tương đương, với giả định rằng giá trị
của sáng chế được li-xăng tương đương với phí li-xăng mà các doanh nghiệp khác
sẵn lòng chi trả để được sử dụng sáng chế đó. Nói cách khác, tiền phí li-xăng mà
doanh nghiệp không phải bỏ ra để có được quyền sử dụng sáng chế so sáng tương
đương được coi là khoản thu nhập từ sáng chế cần định giá của doanh nghiệp. Vì
v
ậy, nhằm xác định chính xác khoản thu nhập này, ngoài việc phải xác định mức phí
li-xăng, phương pháp này đòi hỏi phải dự báo doanh số bán một cách đáng tin cậy
để xác định dòng thu nhập trực tiếp từ sáng chế. Sau đó, phí li-xăng (thu nhập) được
chiết khấu theo tỷ suất chiết khấu thích hợp bằng cách tiếp cận DCF nêu trên.
Đôi khi phương pháp này được xếp vào nhóm cách tiếp cận thị trường
42

(phương pháp phí li-xăng so sánh). Cách xác định mức phí li-xăng theo phương
pháp này tương tự như mục 3.2.(iii) trên đây.
(iv) Phương pháp yếu tố công nghệ (technology factor)
Phương pháp này trước hết tính toán giá trị hiện tại ròng phi rủi ro (risk-free
net present value) đối với sáng chế (tương tự như cách tiếp cận DCF) và nhân giá trị
này với “yếu tố rủi ro” (risk-factor) hay “yếu tố công nghệ” (technology factor, hoặc
yếu tố

β
). Giá trị yếu tố công nghệ được tách khỏi các yếu tố khác phản ánh ưu thế
và nhược thế về thương mại của sáng chế. Mục đích của phương pháp này là nhằm
xem xét mức độ ảnh hưởng của các rủi ro về kỹ thuật (đối với sáng chế công nghệ),
pháp lý, thị trường và kinh tế tới giá trị của sáng chế.

41
Hungary Patent Office, Pro Inno Europe, Student Handbook, “Valuation of Intellectual Property”, 2008
42
Wayne R. Brown, “Patent Valuation and Patent Damages”, 29/10/2007

×