Th.S.Nguyn Thanh Hi
1
THANH TRA CHNH PH
TRNG CN B THANH TRA
báo cáo Tổng thuật
TI KHOA HC CP B
nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra
trong các đơn vị sự nghiệp công
- Ch nhim ti: ThS.NGUYN THANH HI
Hiu trng Trng Cỏn b Thanh tra
- Th ký ti: DNG HNG THNH
Cc Chng tham nhng - Thanh tra Chớnh ph
7893
H Ni, 6 - 2009
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 5
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT 6
PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 7
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 11
5.1 Phương pháp chung 11
5.2 Phương pháp riêng 11
6. Kết cấu của Đề tài 11
CHƯƠNG I . MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG VÀ THANH
TRA, KIỂM TRA TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG 14
I.1. Các loại hình đơn vị sự nghiệp công chủ yếu hiện nay và quy chế pháp lý của từng
loại hình đơn vị sự nghiệp công 14
I.1.1 Khái niệm và phân loại các đơn vị sự nghiệp công hiện nay 14
I.1.1.1 Khái niệm 14
I.1.1.2. Khái niệm sự nghiệp và phục vụ 16
I.1.2. Vai trò của đơn vị sự nghiệp công trong quá trình đổi mớ
i 23
I.1.3. Thực trạng về hoạt động của đơn vị sự nghiệp công 25
I.2. Một số vấn đề về công tác thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công 38
I.2.1. Sự cần thiết và một số đặc điểm của công tác thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự
nghiệp công 38
I.2.1.1. Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công 38
I.2.1.2. Một số đặc điểm của công tác thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp
công 39
I.2.1.2 Trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp công trong công tác thanh tra,
kiểm tra trong đơn vị 41
I.2.1.3 Những dạng sai phạm chủ yếu trong các loại hình đơn vị sự nghiệp công 43
I.2.1.4.Nội dung thanh tra, kiểm tra trong đơn vị sự nghiệp công 43
I.2.1.5. Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra trong đơn vị sự nghiệp công 45
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
3
I.2.1.6. Mối quan hệ giữa công tác thanh tra, kiểm tra của đơn vị sự nghiệp công với hoạt
động thanh tra của các tổ chức thanh tra nhà nước 47
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA, KIỂM TRA
TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG 49
II.1. Các quy định của pháp luật về đơn vị sự nghiệp công liên quan đến công tác thanh
tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công 49
II.2 Khái quát thực trạng chung về công tác tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra
trong các đơn vị sự nghiệp công 52
II.2.1. Tổ chức và hoạt động thanh tra kiểm tra đơn vị sự nghiệp công những năm qua 52
II.2.1.1. Thanh tra thủ trưởng 52
II.2.1.1. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của đơn vị chủ quản 54
II.2.1.2. Thanh tra nhân dân ở đơn vị sự nghiệp công 58
II.2.2 Những khó khăn vướng mắc trong hoạt động thanh tra, kiểm tra các đơn vị sự nghiệp
công 61
II.2.2.1. Những khó khăn vướng mắc trong hoạt động thanh tra thủ trưởng trong các đơn
vị sự nghiệp công 61
II.2.2.2 Những vướng mắc khó khăn trong công tác thanh tra đơn vị sự nghiệp công 62
II.2.2.3. Hạn chế, vướng mắc trong sự phối kết hợp giữa thanh tra, kiểm tra nội bộ với
hoạt động của thanh tra nhân dân trong đơn vị sự nghiệp công 66
II.3.1. Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động của Đài Truyền hình Việt Nam 67
II.3.1.1. Khái quát về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Đài truyền hình
Việt Nam 67
II.3.1.2. Đặc thù của công tác thanh tra, kiểm tra của Đài THVN 68
II.3.1.3. Vai trò Ban Kiểm tra trong hoạt động của Đài THVN 71
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tăng cường ổn định nội bộ cơ quan 72
II.3.2. Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động tại Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh 75
II.3.2 1. Chức năng, nguyên tắc, hình thức hoạt động và nhi
ệm vụ thanh tra giáo dục
tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia 75
II.3.2 2. Thực trạng về tổ chức, hoạt động của thanh tra giáo dục 76
II.3.2.3. Thực trạng về hoạt động thanh tra đào tạo 77
II.3.2 4. Sự cần thiết phải tăng cường tổ chức và nâng cao hiểu quả hoạt động của
thanh tra đào tạo 79
II.3.3. Công tác thanh tra, kiểm tra tại trường Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội 82
II.3.3.1. Một vài nét về trường Đại học GTVT 82
II.3.3.2 Những quy định pháp luật liên quan đến công tác thanh tra, kiểm tra tại
Trường Đại học giao thông vận tải. 83
II.3.3.3 Tổ chức, hoạt động và quyền hạn của bộ phận Thanh tra, kiểm tra của
Trường Đại học giao thông vận tải. 84
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
4
II.3.3.4. Ủy ban kiểm tra công đoàn của trường Đại học giao thông vận tải 87
II.3.3.5. Những khó khăn vướng mắc trong hoạt động thanh tra, kiểm tra tại Trường
Đại học Giao thông vận tải và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra 88
II.3.3.6. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra ở Trường Đại
học Giao thông vận tải 90
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG
TÁC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA, KIỂM TRA TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP CÔNG 94
III.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức và hoạt động thanh tra,
kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công 94
III.1.1. Phương hướng đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với đơn vị sự
nghiệp công 94
III.1.2. Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra nội bộ trong đơn vị
sự nghiệp công 96
III.1.3. Phương hướng về xây dựng mô hình tổ chức thanh tra nội bộ trong đơn vị sự nghiệp
công phù hợp với yêu cầu xã hội hóa các dịch vụ công 97
III.1.4. Tăng cường tính tự chủ, độc lập trong hoạt động thanh tra thủ trưởng 98
III.1.5. Đối mới phương thức tiến hành thanh tra 98
III.1.6. Tăng cường tính phối hợp 99
III.1.7. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy trình về thanh tra nội bộ trong các đơn vị
sự nghiệp 100
III.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra
trong các đơn vị sự nghiệp công 101
III.2.1. Nâng cao nhận thức về thanh tra nội bộ như một công cụ hữu hiệu góp phần phục
vụ công tác quản lý của thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công 101
III.2.2. Xây dựng mô hình tổ chức thanh tra nội bộ phù hợp với yêu cầu quản lý theo xu
hướ
ng tăng cường vai trò tự chủ của đơn vị sự nghiệp công 102
III.2.3. Tăng cường phối kết hợp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra,kiểm tra
trong đơn vị sự nghiệp công 104
III.2.4. Tăng cường năng lực cán bộ đảm nhiệm công tác thanh tra nội bộ trong đơn vị sự
nghiệp công 105
III.2.5. Hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động thanh tra
nội bộ 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
5
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài khoa học cấp bộ: “Nâng cao hiệu quả hoạt
động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công” Ban chủ nhiệm đề tài đã
gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu một lĩnh vực có nội dung sâu, rộng và
liên quan đến nhiều khái niệm, nhiều kiến thức thuộc về nhiều ngành nghề khác
nhau như: giáo dục, y tế, thể thao, nghiên cứu khoa họ
c. Để có thể đánh giá thực
trạng tổ chức và cơ sở pháp lý của hoạt động thanh tra trong các đơn vị sự nghiệp
công từ đó tìm ra những nguyên nhân và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động này cần có sự giúp đỡ rất nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực khác
nhau.
Chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các bạn đồng nghiệp trong
và ngoài cơ quan đã giúp Ban chủ nhiệm
đề tài làm sáng rõ những vấn đề trong
mô hình tổ chức và hoạt động của công tác thanh tra, kiểm tra tại các đơn vị sự
nghiệp công tại Việt Nam hiện nay.
Ban chủ nhiệm đề tài xin chân thành cảm ơn tới Hội đồng Khoa học cơ quan
Thanh tra Chính phủ, tập thể Viện Khoa học Thanh tra đã tạo điều kiện để chúng
tôi hoàn thành đề tài này.
Thay mặt Ban chủ nhiệm đề tài tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ đ
ó./.
Chủ nhiệm đề tài:
ThS.Nguyễn Thanh Hải
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
6
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
STT Khái niệm Viết tắt
1 Thanh tra Chính phủ TTCP
2 Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia HVHC
3 Ngân sách nhà nước NSNN
4 Thanh tra Nhà nước TTNN
5 Chính phủ CP
6 Hội đồng nhân dân HĐND
7 Thanh tra nhân dân TTND
8 Hành chính nhà nước HCNN
9 Hành chính sự nghiệp HCSN
10 Truyền hình Việt Nam THVN
11 Nghị định số 43/2006/ NĐ-CP NĐ 43, Nghị định 43
12 Nghị định số 10/2002/ NĐ-CP NĐ 10, Nghị định 10
13 Khiếu nại, tố cáo Khiếu nại Tố cáo
14 Nghị định NĐ
15 Thông tư TT
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công tác thanh tra, kiểm tra là một khâu không thể thiếu trong mọi hoạt động
quản lý, kể cả quản lý mang tính chất nhà nước hay quản lý có tính chất nội bộ
trong các cơ quan, tổ chức đơn vị, trong khu vực công và cả khu vực tư. Hoạt động
thanh tra ở mỗi thời kỳ khác nhau, đối với mỗi đối tượng khác nhau có những đặ
c
điểm riêng đòi hỏi hoạt động này phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục
và phương pháp thích hợp. Hiện nay theo quy định của Luật thanh tra đã phân chia
thành hai loại hình là Thanh tra hành chính và Thanh tra chuyên ngành.
Tuy nhiên sau khi Luật thanh tra năm 2004 có hiệu lực thì sự phân chia này
thực chất cũng chỉ mang tính tương đối và đều do các cơ quan thanh tra nhà nước
tiến hành; mọi hoạt động quyền hành của các cơ quan này đều mang tính quyền lực
nhà nước. Tuy nhiên trong số
các cơ quan, tổ chức của nhà nước có những nơi
không có tổ chức thanh tra nhà nước chuyên nghiệp, chính vì vậy bản thân thủ
trưởng, người đứng đầu các tổ chức, đơn vị này phải tiến hành việc tự kiểm tra
thanh tra trong đơn vị của mình, đó chính là hoạt động thanh tra kiểm tra mang tính
chất nội bộ trong các đơn vị sự nghiệp công. Như vậy, để bảo đảm các đơn vị s
ự
nghiệp hoạt động đúng pháp luật vừa cần có sự thanh tra từ bên ngoài, do các cơ
quan thanh tra nhà nước tiến hành, vừa kết hợp với công tác thanh tra kiểm tra nội
bộ của bản thân đơn vị sự nghiệp công đó (từ trước đến nay vẫn thường được gọi là
thanh tra của thủ trưởng). Trên thực tế do quá trình sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp
và việc đổi m
ới cơ chế quản lý đối với các loại đơn vị này nên tổ chức và hoạt động
của nó có nhiều thay đổi, các đơn vị sự nghiệp đã được ngày càng được trao quyền
tự chủ tự chịu trách nhiệm nhiều hơn dưới sự giám sát của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Tổ chức và hoạt động thanh tra trong các đơn vị sự nghiệp là vấn đề
chư
a từng được nghiên cứu và cũng chưa được pháp luật quy định cụ thể mặc dù đã
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
8
có rất nhiều quy chế pháp lý quy định chức năng quyền hạn và nhiệm vụ, trách
nhiệm của các đơn vị này. Chính vì vậy cho đến nay, tổ chức và hoạt động thanh
tra của các đơn vị sự nghiệp được thực hiện một cách tuỳ tiện, tự phát thiếu tính
chuyên nghiệp do vậy, hiệu quả, hiệu lực chưa cao. Trong khi đó, chúng ta biết
rằng, công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ càng tốt bao nhiêu thì những khó kh
ăn
vướng mắc và những hành vi vi phạm pháp luật, những vụ việc sai phạm về kinh tế
lớn càng có cơ hội được hạn chế ngay từ ban đầu. Chính vì vậy cần thiết phải có sự
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này để từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị với
các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản thích hợp điều chỉnh vấn đề này.
Có th
ể thấy vấn đề này trước mắt là là một trong những nội dung cần sửa đổi, bổ
sung của Luật thanh tra. Đó là lý do của việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả
hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công nói chung và kinh
nghiệm tổ chức và hoạt động của bộ phận này đ
ã được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu, có thể kể ra một số công trình và bài viết sau đây:
- Văn Tiến Mai: Những quy định pháp luật về thanh tra chuyên ngành trong
một số lĩnh vực – các vướng mắc và giải pháp(Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh
tra 1999 -2002, tập 5);
- Nguyễn Hữu Lượng: Suy nghĩ về thanh tra Việt Nam và đổi mới hệ thống
thanh tra giáo dục (Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra 1999 -2002, tập 5);
- Nguyễn Đức Doanh: Thanh tra Y t
ế những mặt được và một số vấn đề cần
nghiên cứu(Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra 1999 -2002, tập 5);
- Phạm Văn Khanh: Một số vấn đề về phương án lựa chọn mô hình tổ chức,
hoạt động thanh tra (Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra 1999 -2002, tập 6);
- Lê Văn Võ: Thanh tra nhân dân trong các doanh nghiệp và cơ quan hành
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
9
chính sự nghiệp (Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra 1999 -2002, tập 3);
- Nguyễn Bá Thu: Thanh tra nhân dân trong nhà trường – Thực trạng và giải
pháp(Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra 1999 -2002, tập 3);
- Đồng Quang Hưng: Những vấn đề đặt ra từ thực tế triển khai thực hiện
Luật thanh tra(Tạp Chí Thanh tra số 10/2007);
- Ths Nguyễn Tiến Tùng: Cần có những quy định riêng cho hoạt động thanh
tra chuyên ngành(Tạp Chí Thanh tra số 7/2007);
- Tuấn Đạo Thanh: Thanh tra, kiểm tra trong hoạt động công ch
ứng (Theo
Tạp chí Thanh tra, Số 2/2007)
-PGS,TS Trần Hậu Kiêm: Hoạt động thanh tra nhân dân – thực trạng và giải
pháp.
Những tài liệu nói trên là nguồn tư liệu quý, có giá trị tham khảo, kế thừa để
tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, những công trình nói trên
mới đề cập đến hoạt động và phân tích mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra
kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công, tuy nhiên cách tiếp cận của các tác giả
đều tậ
p trung vào việc thanh tra, kiểm tra với tư cách là việc làm của các cơ quan
thanh tra nhà nước hoặc thanh tra nhân dân!. Thực tế cho thấy, hiện nay chưa có
công trình nào đi sâu phân tích, tìm ra những kinh nghiệm sâu về quy chế pháp lý,
đặc điểm của các đơn vị sự nghiệp công dưới góc độ vừa là đơn vị thuộc sự quản lý
đặc thù của nhà nước và dưới góc độ là đơn vị hoạt động độc lập một cách tương
đối nh
ằm mang lại lợi nhuận như một doanh nghiệp từ đó để đưa ra những mô hình
tổ chức tối ưu nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
10
- Đề tài nghiên cứu những mô hình thanh tra của một số đơn vị sự nghiệp
công cũng như một số quy chế pháp lý quy định cho hoạt động này tại Việt Nam
trong thời gian vừa qua từ đó làm cơ sở pháp lý cho việc đổi mới và nâng cao hoạt
động này.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số khái niệm về sự nghiệp công, thanh tra, kiểm tra tại đơn vị
sự nghiệp công tại Việt Nam;
- Nghiên c
ứu một số mô hình hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị
sự nghiệp công;
- Thực trạng chung của hoạt động động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị
sự nghiệp công trong thời gian vừa qua;
- Đánh giá thực trạng tổ chức và cơ sở pháp lý của hoạt động thanh tra trong
các đơn vị sự nghiệp công trong thời gian qua, từ đó tìm ra những nguyên nhân và
những giải pháp nhằm đổi mới tổ chứ
c và nâng cao hoạt động này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu mô hình một số khái niệm căn bản về đơn vị sự nghiệp công,
Những ưu điểm, hạn chế của một số quy chế pháp lý dành cho hoạt động thanh tra
trong các đơn vị này;
- Đề tài tập trung nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của hoạt
động thanh tra tại các đơn vị sự nghiệp công đặ
c thù như Đài truyền hình, các tổ
chức giáo dục
- Chỉ ra những điểm bất cập quá trình hoạt động thanh tra trong đơn vị sự
nghiệp công từ đó đề xuất các giải pháp trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm đã thực
hiện ở một số đơn vị để đưa ra mô hình, tổ chức, quy chế pháp lý cho hoạt động
này trong thời gian tới.
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
11
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp chung
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng các quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền và CCHC
trong hoạt động thanh tra kiểm tra mang tính quyền lực nhà nước nói chung và hoạt
động thanh tra, kiểm tra tại các đơn vị s
ự nghiệp công nói riêng.
5.2 Phương pháp riêng
Nhóm thực hiện đề tài có sử dụng phương pháp thống kê, điều tra xã hôi học
để đánh giá chính xác thực trạng của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị
sự nghiệp công hiện nay, qua đó sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh
kết hợp kinh nghiệm thực tiễn công tác thanh tra hành chính với nghiên cứu lý luận
nhằm làm sáng tỏ những nội dung đặc thù mà đề tài nghiên cứu.
6. Kế
t cấu của Đề tài
Đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra , kiểm tra trong các đơn
vị sự nghiệp công” có kết cấu như sau:
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CÔNG VÀ THANH TRA, KIỂM TRA TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CÔNG
I. Các loại hình đơn vị sự nghiệp công chủ yếu hiện nay và quy chế pháp lý của từng
loại hình đơn vị sự nghiệp công
1. Khái niệm và phân loại các đơn vị sự nghiệp công
2. Vai trò của đơn vị sự nghiệp công trong quá trình đổi mới
3. Một số đặc điểm về hoạt động của đơn vị sự nghiệp công
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
12
4. Cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp công
II. Một số vấn đề chung về công tác thanh tra, kiểm tra trong đơn vị sự nghiệp
công
1. Sự cần thiết và một số đặc điểm của công tác thanh tra, kiểm tra trong
các đơn vị sự nghiệp công
2. Trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp công trong công tác
thanh tra,kiểm tra đơn vị
3. Nội dung thanh tra, kiểm tra trong đơn vị sự nghiệp công
4. Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra trong đơn vị sự nghiệp công
5. Mối quan hệ giữa công tác thanh tra, kiểm tra của đơn vị sự nghiệp công với
hoạt động thanh tra của các tổ chức thanh tra nhà nước
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA,
KIỂM TRA TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
I. Các quy định của pháp luật liên quan đến công tác thanh tra, kiểm tra trong các
đơn vị sự nghiệp công, những đặc thù và bất cập trong các quy định này
II. Khái quát thực trạng chung về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các
đơn vị sự nghiệp công những năm qua
1.Tổ chức và hoạt động thanh tra kiểm tra đơn vị sự nghiệp công những năm
qua
2. Những khó khăn vướng mắc trong tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra
trong các đơn vị sự nghiệp công
III. Thực trạng về mô hình, tổ chức, hoạt động và một số vướng mắc, hạn chế
trong hoạt động thanh tra, kiểm tra tại một số đơn vị sự nghiệp công tạ
i Việt Nam
1. Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động đặc thù của Đài Truyền hình
Việt Nam
2. Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động tại Học viện Hành chính Chính trị
Quốc gia
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
13
CHƯƠNG III. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH
TRA, KIỂM TRA TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
I. Phương hướng nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức và hoạt động thanh tra,
kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
1. Phương hướng đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra, kiểm tra, nói chung
đối với đơn vị sự nghiệ
p công
2. Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra nội bộ
trong đơn vị sự nghiệp công nhằm tăng cường tính tự chủ trong quản lý tại các đơn
vị này theo hướng phát huy hết năng lực của các đơn vị này tiến tới xã hội hóa việc
cung cấp dịch vụ cho xã hội
II. Giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức và hoạt động thanh tra,
ki
ểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
1. Nâng cao nhận thức về thanh tra nội bộ như một công cụ hữu hiệu góp
phần phục vụ công tác quản lý của thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công
2. Xây dựng mô hình tổ chức thanh tra nội bộ phù hợp với yêu cầu quản lý
theo xu hướng tăng cường vai trò tự chủ của đơn vị sự nghiệp công
3. Tăng cường ph
ối kết hợp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh
tra,kiểm tra trong đơn vị sự nghiệp công
4. Tăng cường năng lực cán bộ đảm nhiệm công tác thanh tra nội bộ trong
5. Hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động
thanh tra nội bộ
PHẦN KẾT LUẬN
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
14
CHƯƠNG I . MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
VÀ THANH TRA, KIỂM TRA TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
I.1. Các loại hình đơn vị sự nghiệp công chủ yếu hiện nay và quy chế
pháp lý của từng loại hình đơn vị sự nghiệp công
I.1.1 Khái niệm và phân loại các đơn vị sự nghiệp công hiện nay
I.1.1.1 Khái niệm
“Sự nghiệp” là một từ có nguồn gốc từ Trung qu
ốc. Theo nghĩa rộng, đó là
mục tiêu cao cả mà con người theo đuổi, ví dụ như: “vì sự nghiệp độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội”, hoặc là chiến tích trong một ngành, một lĩnh vực như trong
cụm từ “thân thế và sự nghiệp của ” hay “sự nghiệp văn học của Nguyễn Du”,
"sự nghiệp quân sự của Trần Quốc Tuấn" v.v
Theo nghĩa hẹp dùng trong ngành kinh tế, nh
ất là trong lĩnh vực ngân sách
và kế hoạch, từ “sự nghiệp” dùng để chỉ những hoạt động không tạo ra sản phẩm
vật chất những cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội và của cá nhân con người, ví
dụ như giáo dục, y tế, khoa học, văn hoá, xã hội , những hoạt động này thường
không lấy lợi nhuận làm mục tiêu nên thường do Nhà nước sử dụng ngân sách để
thực hi
ện. Do đó, trong ngân sách có phần chi phí dành cho “sự nghiệp”, trong kế
hoạch Nhà nước có lĩnh vực “sự nghiệp” bên cạnh lĩnh vực sản xuất kinh doanh và
lĩnh vực hành chính, hoặc nói cụ thể về “sự nghiệp kinh tế”, "sự nghiệp văn hoá
giáo dục", "sự nghiệp khoa học, điều tra cơ bản” v.v Các đơn vị sự nghiệp
(trường học,bệnh viện ) trước đây hoạt độ
ng không khác các đơn vị hành chính
bao nhiêu, cũng là những đơn vị dự toán, kế hoạch do cấp trên giao, nhân sự do cấp
trên quyết, kinh phí do cấp trên duyệt và chi, vì vậy mà hai từ sự nghiệp và hành
chính hay đi liền cùng nhau, nhiều khi còn gọi chung là “các đơn vị hành chính sự
nghiệp”.
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
15
Nhiều nhà nghiên cứu xem “sự nghiệp” là một từ được phát sinh từ nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, chủ yếu bao gồm: khoa học, giáo dục, văn hoá,
y tế, thể thao cộng với phúc lợi xã hội và cứu tế xã hội… Khi chuyển sang nền kinh
tế thị trường, vấn đề được mở rộng tương ứng với khái niệm “dịch vụ công” dùng
rộng rãi trên thế gi
ới mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là “sự nghiệp công doanh” hay
“sự nghiệp công”. Như vậy có thể nói sự nghiệp công được coi là tên gọi chung các
ngành giá trị phi vật chất mà xã hội cộng đồng lựa chọn, sắp xếp và sản xuất, bao
gồm:
- Các ngành công ích xã hội đã có từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung (khoa,
giáo, văn, y, thể, phúc lợi, cứu tế);
- Các ngành sự nghiệp công cộng (đường xá, giao thông, vận tải, cấ
p nước,
cấp điện, cấp khí );
- Các ngành bảo vệ tài nguyên công cộng (rừng, nguồn nước, đất núi, công
viên ).
Khái niệm sự nghiệp công được xuất hiện cách đây gần 2000 năm khi nhà
Hán-TQ bắt đầu cho thành lập một số trường đào tạo các quan chức mới cho triều
đình mà thời đó gọi là trường đào tạo khoa bảng (written examinations), một điều
thú vị là ở châu Âu vào giữa thế k
ỷ 18 đã xuất hiện khái niệm sự nghiệp công khi
tồn tại một cơ quan chuyên giải quyết tham quan và sự thiên vị được tách khỏi bộ
phận xét xử của quân đội thời kỳ bấy giờ. Cơ quan này hoạt động không vì lợi
nhuận. cơ quan này tồn tại tới cuối thế kỷ 18 và trở thành cơ quan mang quyền lực
nhà nước (theo wikipedia org)
Theo đại từ điển bách khoa Trung Qu
ốc đơn vị sự nghiệp công được định
nghĩa là “tổ chức phục vụ xã hội hoạt động vì mục đích công ích trong giáo dục,
khoa học, văn hoá, y tế v.v do cơ quan nhà nước thành lập hoặc do cơ quan khác
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
16
thành lập nhưng dùng tài sản nhà nước”. Như vậy, hiểu theo định nghĩa này thì có
3 yếu tố được coi là quan trọng trong khái niệm “sự nghiệp công”:
- Tổ chức phục vụ xã hội
- Hoạt động công ích
- Do nhà nước thành lập.
I.1.1.2. Khái niệm sự nghiệp và phục vụ
Theo quan niệm truyền thống trước đây, nhiều người cho rằng phải làm ra
sản phẩm vật chất mới gọi là sản xuấ
t, còn các hoạt động không tạo ra sản phẩm
vật chất nhưng thoả mãn những yêu cầu thiết yếu của xã hội được gọi là “phục vụ”;
những sản phẩm vô hình làm ra có thể gọi là “sản phẩm phục vụ”. Sản phẩm phục
vụ có thể bao gồm cả phục vụ sản xuất (như vận tải, viễn thông ), phục vụ đời
sống (như
ăn uống, du lịch ) và phục vụ phát triển (như giáo dục, y tế, khoa
học ), song cũng chưa bao trùm toàn bộ khu vực kinh tế thứ ba như khái niệm
“dịch vụ” hiện nay. Riêng trong các kế hoạch kinh tế quốc dân các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây đã đưa vào một “ngành phục vụ”, nhưng nội dung chủ yếu lại chỉ
nói về các nghề phục vụ đời sống (như
ăn uống, sửa chữa v.v ). Thời gian gần
đây, kinh tế và khoa học công nghệ thế giới phát triển rất nhanh, khu vực thứ ba
chiếm tỷ trọng ngày càng cao (ở các nước phát triển có thể chiếm tới 3/4 tổng sản
phẩm xã hội), sản phẩm phục vụ được coi là có giá trị sử dụng và giá trị trao đổi
như các hàng hoá khác; phạm vi sản xuất không còn giới hạn ở sản phẩm vậ
t chất
mà sản xuất được đánh giá ở giá trị gia tăng tạo ra, bao gồm cả hàng hoá vật chất
và hàng hoá dịch vụ. So sánh với “sự nghiệp”, phạm vi của “phục vụ” rộng hơn,
không bị bó hẹp trong hoạt động không vụ lợi và chủ yếu do nhà nước làm, đồng
thời cũng có thể không chỉ giới hạn ở một số ngành đơn lẻ như giáo dục, khoa học
v.v ; song theo cách hiểu thông thường, từ “phục vụ” vẫn được coi là có nghĩa hẹp
hơn từ “dịch vụ”, thậm chí nằm trong phạm vi của “dịch vụ”. Ở Trung quốc là nơi
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
17
xuất xứ của cả hai từ “sự nghiệp” và “phục vụ” (nhưng không có từ “dịch vụ”), có
xu hướng dùng từ “phục vụ” để dịch từ “service” của nước ngoài, nhưng cũng chưa
thấy dùng với nghĩa bao quát nhất cải tiến. Còn lĩnh vực sự nghiệp chỉ bao gồm
một ít ngành trong khu vực dịch vụ, có những đặc thù riêng, đang cần được nghiên
cứu cải cách b
ằng những phương pháp thống nhất để đạt được những kết quả thống
nhất. Trong nhiều tài liệu nước vẫn dùng từ sự nghiệp công đồng nghĩa với từ “dịch
vụ công” (public service), được hiểu là những hoạt động vì lợi ích công (công ích),
thực hiện dưới sự chỉ đạo hay bảo trợ của Nhà nước, theo một quy chế pháp lý
riêng.
Dịch vụ công bao gồm các dịch v
ụ liên quan đến chủ quyền quốc gia (toà án,
quốc phòng, an ninh, hành chính, thuế ), các dịch vụ về văn hoá xã hội (giáo dục,
y tế, khoa học, bảo hiểm xã hội ) và các dịch vụ thương mại (năng lượng, vận tải,
truyền thông và kết cấu hạ tầng kèm theo). Các dịch vụ công phải bảo đảm
nguyên tắc liên tục không gián đoạn, nguyên tắc bình đẳng, mọi người công dân
đều có quyền tiếp cận như
nhau, và nguyên tắc thích ứng, tổ chức và hoạt động có
thể và phải phù hợp với các yêu cầu thay đổi hoặc yêu cầu mới của xã hội. như vậy
hoạt động sự nghiệp chỉ tương ứng với một phần dịch vụ công thứ hai, dịch vụ văn
hoá xã hội. Loại thứ nhất thuộc lĩnh vực hành chính, phải do Nhà nước trực tiếp
thực hiện; lo
ại thứ ba thuộc hoặc gần với lĩnh vực kinh doanh, có thể uỷ thác cho
các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện. Loại thứ hai thuộc trách nhiệm Nhà nước
nhưng có thể xã hội hoá để bảo đảm đủ nguồn hoạt động và đạt hiệu quả, chất
lượng cao nhất.
Tóm lại lĩnh vực “sự nghiệp công” đối tượng nghiên cứu trong đề tài được
giới hạn
ở một số đơn vị có chung các đặc điểm sau:
- Không tạo ra sản phẩm vật chất và cũng không tham gia trực tiếp vào việc
sản xuất của cải vật chất, nhưng thoả mãn trực tiếp nhu cầu thiết yếu về phát triển
của cả xã hội hoặc của các thành viên trong xã hội.
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
18
- Nhà nước, ngoài trách nhiệm bảo đảm an ninh, an toàn xã hội, tạo môi
trường thuận lợi cho hoạt động phát triển kinh tế, tổ chức quản lý xã hội theo luật
pháp và đạo đức xã hội, công bằng xã hội, còn có chức năng phục vụ xã hội, dùng
tiền thuế thu được để chi vào việc nâng cao dân trí, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, nâng
cao thẩm mỹ và đời sống tinh thần, nâng cao trình độ khoa học công nghệ của
người dân và củ
a đất nước…
- Phần lớn hoặc toàn bộ tài sản của đơn vị được coi là thuộc trách nhiệm Nhà
nước nên nguồn kinh phí hoạt động dựa vào ngân sách nhà nước, có nghĩa là hoạt
động sự nghiệp là hoạt động “không vụ lợi, không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng
đầu”
Trước kia khi các tổ chức sự nghiệp rất dễ bị hành chính hoá và ỷ lại vào sự
bao cấp của Nhà nước: kế ho
ạch do trên giao, tổ chức do trên quyết, chi tiêu do trên
duyệt, kết quả nộp cấp trên. Các ngành sự nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ công về
văn hoá xã hội, trong đó nổi bật là 4 ngành: giáo dục, y tế, khoa học, văn hoá thể
thao là những ngành sử dụng kinh phí lớn, liên quan đến nhiều người và cả xã hội,
cũng là nơi dễ tồn đọng tệ nạn quan liêu, tham nhũng, dễ tạo sự lạm dụ
ng công quỹ
nhà nước. Nếu tiến hành xây dựng hoàn chỉnh mô hình thanh tra, kiểm tra trong 4
ngành quan trọng trên thì kinh nghiệm có thể tham khảo để áp dụng cho các ngành
sự nghiệp công khác. Hơn nữa, trong quá trình đổi mới đang tiến hành, cải cách
hành chính và cải cách doanh nghiệp đang được thực hiện theo các chương trình đã
định; nếu có thêm sự giám sát của tổ chức thanh tra, kiểm tra tại đơn vị thì mới
đảm bảo công cuộc đổi mới thực sự toàn di
ện, đồng bộ và có hiệu quả hơn rất
nhiều.
Như vậy đề tài này tập trung làm rõ vào việc đánh giá thực trạng tổ chức và
cơ sở pháp lý của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
trong 4 ngành sự nghiệp lớn là giáo dục, y tế, khoa học và văn hoá nói riêng và các
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
19
đơn vị sự nghiệp công nói chung với hy vọng những biện pháp xem xét có thể áp
dụng rộng hơn.
Cho tới hiện nay rất khó tìm được một đơn vị sự nghiệp không có một nguồn
thu khác (có cơ chế thu còn thu được hay không lại là vấn đề khác). Vì vậy, khái
niệm sư nghiệp công có thu hay không có thu sẽ không được tách biệt trong đề tài.
Nếu cần phân biệt trong giai đoạn hiện nay thì nên dựa vào mức độ hạch toán
độc
lập của các tổ chức sự nghiệp và phân loại thành các đơn vị tự hạch toán hoàn toàn,
các đơn vị tự hạch toán một phần và các đơn vị dự toán. Mỗi loại cần có chế độ tài
chính riêng: một số đơn vị tự hạch toán hoàn toàn có điều kiện có thể chuyển thể
thành doanh nghiệp, hoạt động theo luật doanh nghiệp; loại đơn vị còn giữ chế độ
đơn vị dự toán có thể áp dụng cơ chế tài chính của nghị định 10/2002/NĐ-CP; các
đơn vị còn lại cần theo một chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy đủ về tài chính).
Về mặt tổ chức cán bộ, những quy định mới về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
mới ban hành còn ít nhiều mang tính chất thăm dò, thí điểm, nên còn cần thêm thời
gian để đánh giá hiệu quả. Về quyền chủ động của các đơn vị sự nghiệp trong kế
hoạch và chương trình hoạt động, các luật giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ
v.v đã giải quyết một số vấn đề cơ bản, song trong quá trình thực hiện cũng bộc
lộ một số yếu tố cần được đi sâu hơn nữa, chính vì vậy đề
tài cũng sẽ không đi vào
hoạt động đặc thù của đơn vị sự nghiệp công có thu hay không có thu.
Muốn có một cái nhìn tương đối tổng hợp và về những biến đổi tích cực
cũng như những vấn đề tồn tại của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong những ngành
sự nghiệp nêu trên, cần tiến hành khảo sát một cách nghiêm túc và khách quan của
chính hoạt động này trong thực tế.
I.1.1.3. Phân loại các đơ
n vị sự nghiệp công
Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính
phủ quy định cụ thể các đơn vị sự nghiệp được chia làm 3 loại cơ bản là gồm: Đơn
vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, đơn vị sự
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
20
nghiệp có thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên và đơn vị sự
nghiệp không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp; mọi kinh phí hoạt động đều do
ngân sách nhà nước cung cấp.
* Để xác định được chính xác các loại đơn vị sự nghiệp cần dựa vào phương
thức xác định như sau:
Mức tự bảo đảm chi phí Tổng số nguồn thu sự nghiệp
hoạ
t động thường xuyên = x 100 %
của đơn vị (%) Tổng số chi hoạt động thường xuyên
Trong đó:
Tổng số nguồn thu sự nghiệp:
+ Nguồn thu sự nghiệp đối với đối với đơn vị bảo đảm toàn bộ và bảo đảm 1
phần gồm (a) Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy
định c
ủa nhà nước (b) Thu từ hoạt động dịch vụ phù với lĩnh vực chuyên môn và
khả năng của đơn vị (thu từ hợp đồng đào tạo với các tổ chức trong và ngoài nước,
dịch vụ khám chữa bệnh ) (c) Thu khác (nếu có) (d) Lãi được chia từ các hoạt
động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động dịch vụ.
+ Nguồn thu sự nghiệp đối với đơn vị NSNN bảo
đảm toàn bộ kinh phí hoạt
động quy định: (a) Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo
quy định của nhà nước; (b) Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên
môn và khả năng của đơn vị; (c) Thu khác.
Tổng số chi hoạt động thường xuyên:
+ Đối với các đơn vị tự bảo đảm kinh phí hoạt động và bảo đả
m một phần kinh
phí hoạt động, gồm:
-> Chi hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm
quyền giao, gồm: Tiền lương; tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
21
nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo quy định hiện hành;
dịch vụ công cộng; văn phòng phẩm; các khoản chi nghiệp vụ; sửa chữa thường
xuyên tài sản cố định và các khoản chi khác theo chế độ quy định;
-> Chi hoạt động thường xuyên phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí, gồm: Tiền
lương; tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội,
bả
o hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo quy định hiện hành cho số lao động trực
tiếp phục vụ công tác thu phí và lệ phí; các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn; sửa
chữa thường xuyên tài sản cố định và các khoản chi khác theo chế độ quy định
phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí;
-> Chi cho các hoạt động dịch vụ; gồm: Tiền lương; tiền công; các khoản phụ
cấp lương; các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
, kinh phí công đoàn
theo quy định hiện hành; nguyên, nhiên, vật liệu, lao vụ mua ngoài; khấu hao tài
sản cố định; sửa chữa tài sản cố định; chi trả lãi tiền vay, lãi tiền huy động theo
hình thức vay của cán bộ, viên chức; chi các khoản thuế phải nộp theo quy định của
pháp luật và các khoản chi khác (nếu có);
-> Đối với các đơn vị NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động gồm (a)
Chi hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhi
ệm vụ được cấp có thẩm quyền
giao; (b) Chi hoạt động thường xuyên phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí (nếu
có); (c) Chi cho các hoạt động dịch vụ (nếu có).
Tổng số nguồn thu sự nghiệp và tổng số chi hoạt động thường xuyên tính theo dự
toán thu, chi của năm đầu thời kỳ ổn định.
Căn cứ vào mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên, đơn vị sự nghi
ệp
được phân loại như sau:
- Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động, gồm:
+ Đơn vị sự nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên xác
định theo công thức trên, bằng hoặc lớn hơn 100%.
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
22
+ Đơn vị sự nghiệp đã tự bảo đảm chi phí hoạt động từ nguồn thu sự nghiệp,
từ nguồn ngân sách nhà nước do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đặt hàng.
- Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động: Là đơn vị sự
nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên xác định theo công thức
trên, từ trên 10%
đến dưới 100%.
- Đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động,
gồm:
+ Đơn vị sự nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên xác
định theo công thức trên, từ 10% trở xuống.
+ Đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu.
Đối với các đơn vị sự nghiệp đặc thù trực thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam,
Thông tấn xã Việ
t Nam, các đơn vị sự nghiệp có quy trình hoạt động đặc thù quy
định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính
phủ, thì các đơn vị sự nghiệp đặc thù được phân loại theo loại của đơn vị sự nghiệp
cấp trên.
Tóm lại có 03 loại hình đơn vị sự nghiệp như sau :
- Đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt
động thường
xuyên là đơn vị có các nguồn thu từ nguồn thu sự nghiệp, từ các hoạt động dịch vụ
có tổng nguồn thu sự nghiệp bằng hoặc lớn hơn tổng chi hoạt động thường xuyên,
ngân sách Nhà nước không phải cấp kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên cho
đơn vị. (Loại 1)
- Đơn vị sự nghiệp có thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thườ
ng
xuyên: là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp, nhưng chưa tự trang trải được toàn bộ chi
phí hoạt động thường xuyên. Tổng nguồn thu sự nghiệp nhỏ hơn tổng chi phí hoạt
động thường xuyên, ngân sách Nhà nước phải cấp một phần chi phí hoạt động
thường xuyên cho đơn vị. (Loại 2)
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
23
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu,
kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do ngân sách nhà nước
bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà
nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động). (Loại 3)
Việc phân loại đơn vị sự nghiệp như trên được ổn định trong thời gian 3 n
ăm
nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp chủ động trong kế hoạch tài chính,
nhân sự khi thực hiện các nhiệm vụ. Sau thời hạn 3 năm sẽ xem xét phân loại lại
cho phù hợp với tính chất hoạt động của từng đơn vị sự nghiệp. Việc phân loại này
không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo đảm tự chủ về tài chính mà còn có ý nghĩa
trong việc phân c
ấp quản lý biên chế và sử dụng nhân sự của các đơn vị sự nghiệp.
Thông tư số 10/2004/TT- BNV ngày 19/02/2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 116/2003/NĐ-CP đã chỉ rõ việc phân cấp quản lý
viên chức của các đơn vị sự nghiệp thông qua việc phân loại các đơn vị sự nghiệp
như sau:
Đố
i với đơn vị sự nghiệp Loại 1 thì các Bộ, tỉnh phân cấp cho đơn vị sự
nghiệp đó được tự chủ việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức của đơn vị
mình;
- Đối với đơn vị sự nghiệp Loại 2 thì tuỳ theo mức độ tự chủ và tự bảo đảm
chi phí hoạt động thường xuyên của từng đơn v
ị sự nghiệp mà Bộ, tỉnh phân cấp
cho đơn vị sự nghiệp đó được tự chủ từng phần về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
viên chức của đơn vị mình;
- Đối với đơn vị sự nghiệp Loại 3 thì bộ, tỉnh thực hiện quản lý việc tuyển
dụng, sử dụng và quản lý viên chức của đơn vị sự
nghiệp đó.
I.1.2. Vai trò của đơn vị sự nghiệp công trong quá trình đổi mới
Trong công cuộc phát triển và công nghiệp hoá của mỗi nước, khoa học công
nghệ và giáo dục đào tạo nói riêng và các lĩnh vực sự nghiệp nói chung bao giờ
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
24
cũng giữ một vai trò rất quan trọng. Kinh nghiệm mấy thập kỷ qua của các nước
mới công nghiệp hoá (NIC) và các quốc gia khu vực Châu Á đã chứng minh rõ
điều đó. Cũng với ý nghĩa ấy, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước
ta, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ được coi vừa là nền tảng, vừa là động
lực của sự phát triển kinh tế xã hội; do đó, giáo dục đ
ào tạo và khoa học công nghệ
(và cả các ngành sự nghiệp công khác) trở thành một trong những điều kiện tiền đề
quyết định khả năng triển khai, phát triển và thành công của công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Chiến lược phát triển quốc gia trong những năm sắp tới đặt ra
những nhiệm vụ rất đặc biệt: trong khoảng 15-20 năm phải đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy có thể nói, nếu giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ là động lực của phát triển và công nghiệp hoá thì
đối với yêu cầu công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và công nghiệp hoá rút ngắn
thời gian thì phải coi khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo là động lực chủ yếu
và không thể thiếu. Định đề trên càng có ý nghĩa quyết định khi chúng ta đặt vấn đề
như trong nghị quyết Đại hội X đã khẳng định, chúng ta vừa phải tiến hành công
nghiệp hoá, vừa phải từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức; vì không thể hình
dung một nền kinh tế tri thức mà thiếu những con người làm chủ được kiến thức
mới và công nghệ mới. Dĩ nhiên, ngoài giáo dục, khoa học, các ngành sự nghiệp
khác như văn hoá, y tế cũng có một vị trí và vai trò tương tự.
Nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, lấy mục tiêu lâu dài là dân
giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong suốt quá trình phát
triển, những mục tiêu xã hội mới thực sự là mục tiêu cuối cùng, sự phát triển tự do
của con người là tâm điểm của mọi chính sách phát triển. Tuy nhiên, trong giai
đoạn hiện nay, chúng ta vẫn phải đặt phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm do
điểm xuất phát về
kinh tế của chúng ta quá thấp và có phát triển kinh tế thì mới có
điều kiện cần thiết để phát triển các mặt xã hội. Do vậy, suốt trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta phải bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hoà giữa
Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các đơn vị sự nghiệp công
Th.S.Nguyễn Thanh Hải
25
kinh tế và xã hội, vừa đẩy mạnh tăng trưởng, vừa thu hẹp dần khoảng cách giữa các
vùng, các miền và giữa các cộng đồng, nhóm dân cư. Có thể trong một thời gian,
khoảng chênh lệch về kinh tế chưa thể rút ngắn do cần phải tạo ra một số vùng phát
triển trọng điểm có đủ sức mạnh kinh tế để đẩy nhanh bước tăng trưởng chung,
song về mặt xã hội (giáo d
ục, y tế, văn hoá v.v ) cần giữ cho khoảng chênh lệch
không mở rộng và dần dần thu hẹp lại bằng các chính sách tài chính, chính sách
đầu tư thích hợp. Như vậy, với định hướng xã hội chủ nghĩa, các lĩnh vực giáo dục,
khoa học, y tế, văn hoá v.v , nói chung lại là các lĩnh vực về phát triển con người,
càng cần được đặt vào vị trí xứng đáng. Nói tóm lại, phát triển các lĩnh vực sự
nghiệ
p là điều kiện tiền đề, là nền tảng và động lực cho sự phát triển và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó cũng là động lực chủ yếu cho sự phát triển
bền vững, kết hợp công nghiệp hoá với hiện đại hoá, vừa công nghiệp hoá, vừa
từng bước phát triển kinh tế tri thức. Với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, những lĩnh vực
s
ự nghiệp trên gắn bó chặt chẽ với sự phát triển con người, càng cần được coi trọng
đúng mức. Nhấn mạnh như trên cũng là nhấn mạnh đến chất lượng của sự phát
triển, chất lượng sự sống của con người và xã hội.
I.1.3. Thực trạng về hoạt động của đơn vị sự nghiệp công
Hiện nay, chính sách đối với lĩnh vực sự nghi
ệp đã có nhiều thay đổi, nhà
nước cũng đã tạo các điều kiện tối đa trong hoạt động của nhóm đơn vị này tuy
nhiên kết quả thực sự còn chưa đáng kể, cụ thể:
- Hiệu quả và chất lượng các hoạt động sự nghiệp công nói chung còn thấp,
không theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới nói riêng và của tiến trình phát triển
nói chung. Tuy về mặt số l
ượng có tiến bộ đáng kể (số trường học, số giường bệnh,
số thuốc cung cấp, số đề tài nghiên cứu hoàn thành, số người được hưởng thụ về
văn hoá v.v ), tuy nhiên nhìn về chất lượng nhiều vấn đề đáng quan ngại, đơn cử
như chất lượng giáo dục, đào tạo, chất lượng chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ, chất