Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Chính sách thu hút vốn ODA của việt nam sau khi gia nhập WTO và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.42 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, với vị trí là một quốc gia đang
phát triển, việc nhận trợ cấp từ nước ngoài để phát triển nền kinh tế còn lạc hậu trong
nước là một trong những giải pháp thiết yếu của Việt Nam. Nguồn vốn ODA đó hỗ
trợ đắc lực cho phát triển hạ tầng cơ sở ở Việt Nam, đồng thời là sự phát triển về mặt
xã hội trong thời kì xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Bằng việc tiếp nhận và triển khai vốn ODA, nền kinh tế Việt Nam đó đạt được
nhiều thành tích nổi bật, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc thu hút và sử dụng vốn ODA vẫn còn
nhiều hạn chế và bất cập.
Theo nhận định của chính phủ, giai đoạn 2006 - 2010, trong bối cảnh ODA thế giới
có nhiều thuận lợi nhưng còn nhiều thách thức, Việt Nam tiếp tục có một số lợi thế để
thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, song đi cung với nó là không ít những khó khăn cần
khắc phục để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn trên, tình trạng biến
Việt Nam trở thành “ con nợ ” đồng thời thúc đẩy quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Nhận thức được điều đó, và dưới góc nhìn của học viên và bằng một số tài liệu
tham khảo, những đánh giá của các chuyên gia kinh tế, Nhóm 14 xin trình bày một
vài ý kiến về “Chính sách thu hút vốn ODA của Việt Nam sau khi gia nhập WTO và
giải pháp”.
Do thời gian có hạn, cũng như khả năng nắm bắt vấn đề còn hạn chế, bài viết
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, Nhóm 14 rất mong nhận được ý kiến
đóng góp, khắc phục từ các thầy cô và các bạn.
1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ODA
1. Khái niệm:
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về ODA nhưng nói chung


những quan điểm ấy đều dẫn chung đến một bản chất. Theo cách hiểu chung nhất thì
ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với những điều kiện ưu đãi
của các cơ quan tài chính thuộc các tổ chức Quốc tế các nước, các tổ chức Phi chính
phủ nhằm hỗ trợ cho sự phát triển và thịnh vượng của các nước khác (không tính đến
các khoản viện trợ cho mục đích thuần tuý quân sự ).
Các điều kiện ưu đãi có thể là : lãi suất thấp (dưới 3%/1 năm ), thời gian ân hạn dài
hoặc thời gian trả nợ dài (30-40 năm). Nghị định 87-CP của chính phủ Việt Nam quy
định về nguồn vốn ODA là sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với một hay nhiều Quốc gia, tổ chức Quốc tế. Hình thức của sự hợp
tác có thể là hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ theo kỹ thuật
hoặc theo dự án.
* ODA có các hình thức sau:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ. Nhưng
đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận
chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể
chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách.
Tín dụng thương mại: Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả dài) trên
thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc.
Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt được một
hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích
tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định một cách chính xác nó sẽ được
sử dụng như thế nào.
Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường, các dự án này
có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước
ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó hoặc để soạn thảo, xác nhận các
báo cáo cho đối tác viện trợ.
Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường cơ sở
lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi đầu tư. Chuyển giao
tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ nhưng quan trọng hơn là đào
2

tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà
nước, các vấn đề xã hội.
2. Phân loại ODA
2.1. Phân loại theo nước nhận.
Nếu phân loại theo nước nhận, ODA có hai loại:
- ODA thông thường: hỗ trợ cho những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp.
- ODA đặc biệt: hỗ trợ cho các nước đang phát triển với thời hạn cho vay ngắn, lãi
suất cao hơn.
2.2. Phân loại theo nguồn cung cấp.
Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại.
- ODA song phương: là viện trợ phát triển chính thức của nước này dành cho chính
phủ nước kia.
- ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế hay tổ
chức khu vực hoặc của một chính phủ môt nước dành cho chính phủ một nước nào
đó, nhưng được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP,UNICEF
2.3. Phân loại ODA theo phương thức hoàn trả (tính chất nguồn vốn):
Nếu phân loại theo tính chất nguồn vốn thì ODA có hai loại:
- Viện trợ không hoàn lại: được thực hiện thông qua các chương trình, dự án ODA
dưới các dạng sau:
* Hỗ trợ kỹ thuật: Thực hiện việc chuyển giao công nghệ hoặc truyền đạt những
kinh nghiệm xử lý cho nước nhận tài trợ.
* Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật: ví dụ như là lương thực, vải, thuốc chữa bệnh,
có khi là vật tư cho không.
- Viện trợ có hoàn lại bao gồm:
* ODA cho vay ưu đãi: là các khoản ODA cho vay có yếu tố không hoàn lại đạt ít
nhất 25% trị giá khoản vay.
* ODA cho vay hỗn hợp: bao gồm kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một
phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
mạnh hơn cả về đời sống kinh tế xã hội.
2.4 Phân loại theo mục tiêu sử dụng, ODA có 4 loại:

Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của
Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp cho
nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá).
Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo điều
kiện ràng buộc.
3
Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện trợ kế
hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác khoản
viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều kiện
được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng
ODA".
3. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu:
* Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn tại 3
nguồn ODA chủ yếu:
- Liên xô cũ, Đông Âu.
- Các nước thuộc tổ chức OECD.
- Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
* Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương, và
các tổ chức viện trợ song phương.
- Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau:
+ Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm:
* Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP).
* Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
* Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO)
* Chương trình lương thực thế giới (WFP)
* Quĩ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA)
* Tổ chức y tế thế giới (WHO)
* Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO)
* Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA).

+ Các tổ chức tài chính quốc tế:
* Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)
* Ngân hàng thế giới (WB)
* Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
+ Liên minh Châu Âu (EU).
+ Các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
+ Tổ chức xuất khẩu dầu mỡ (OPEC)
+ Quĩ Cô - Oét.
- Các nước viện trợ song phương:
+ Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD).
4
+ Các nước đang phát triển.
II.ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ODA
1. Đặc điểm của ODA:
Như đã nêu trong khái niệm ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có
hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi. Do vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, Vốn ODA mang tính ưu đãi.
Vốn ODA có thời gian cho vay( hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng
hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân
hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại( cho không), đây
cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho
không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất
viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán
thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm
phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và
chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội( GDP) bình quân đầu người thấp.

Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không
hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng
lớn.
Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với
chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên
nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu
tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng
kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có
thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và
tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những
điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh
của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA.
5
Thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc.
ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước
nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những
ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ,
Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên
dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan
Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình.
Canada yêu cầu tới 65%. Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để
mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song
song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước
đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân
các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước

đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện
trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt
an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính
cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề
mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình
đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v đòi
hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước
nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước
phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định vị thế và ảnh hưởng của
mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ
hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về
chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn
mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối phó với
những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài chính rất
lớn cho các nước Đông nam á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu dịch và đầu
tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu cầu vốn ngắn hạn chủ
yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho mậu dịch và đầu tư
có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng Yên và gắn với
những dự án có các công ty Nhật tham gia.
6
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà
còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho
các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính
sách phát triển cho phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước
nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước
mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn
trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng và cùng có lợi.
Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ.
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ

thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên
sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không
có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho
sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại
tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn
vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
2. Vai trò của ODA trong sự phát triển kinh tế xã hội:
2.1. Viện trợ tài chính ở các nước đang phát triển có cơ chế quản lý tốt sẽ giúp
tăng trưởng nhanh hơn, giảm tình trạng nghèo đói và đạt được các chỉ tiêu xã hội.
Trên thực tế, một số nước nhận nhiều viện trợ mà thu nhập giảm trong khi một số
nước nhận ít viện trợ mà thu nhập lại tăng. Nhưng nếu chỉ xét đến sự phân biệt giữa
các nước có cơ chế quản lý tốt và cơ chế quản lý tồi thì đối với các nước có cơ chế
quản lý tồi, dù số tiền viện trợ là bao nhiêu thì tăng trưởng vẫn thấp, thậm chí còn âm.
Đối với các nước có cơ chế quản lý tốt, khi viện trợ tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng
trưởng tăng lên 0,5%. Ngoài ra, viện trợ còn góp phần làm giảm đói nghèo. Theo các
chuyên gia về ODA, bình quân ở các nước đang phát triển, thu nhập đầu người tăng
1% đã dẫn đến tỷ lệ đói nghèo giảm xuống 2%. Nói cách khác, ở các nước có cơ chế
quản lý tốt, khi viện trợ tăng lên 1% GDP thực tế thì sẽ giảm 1% tỷ lệ đói nghèo. Và
ở các nước có cơ chế quản lý tốt, tăng 10 tỷ USD viện trợ một năm sẽ cứu được 25
triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói, nhưng dù có tăng 10 tỷ USD ở các nước có cơ
chế quản lý tồi thì cũng chỉ cứu được 7 triệu người thoát khỏi cảnh kiếm ăn lần hồi
mà thôi.
Viện trợ tác động đến tăng trưởng, từ đó đã tác động đến mục đích nâng cao mức
sống. Tăng trưởng không loại bỏ đói nghèo nhưng rõ ràng tăng trưởng có tác động
lớn đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội. Nếu một nước có cơ chế quản lý tốt thì khi viện
7
trợ tăng lên 1% GDP sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong trẻ em 0,9%. Ngược lại, nếu một nước
có cơ chế quản lý tồi thì khi viện trợ tăng lên 1% GDP cũng không đem lại một tác
động nào đối với tỷ lệ chết trẻ sơ sinh. Điều đó có nghĩa là các chỉ tiêu xã hội có quan
hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân đầu người, hay nói cách khác nó có quan hệ chặt

chẽ với viện trợ.
2.2. Viện trợ thúc đẩy đầu tư.
Các nước đang phát triển là những nước rất cần vốn cho đầu tư phát triển, và viện
trợ chính là một hình thức bổ sung cho nguồn vốn trong nước. Vốn đầu tư có thể thu
hút từ các nguồn ODA, FDI hoặc nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Trong
điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì nguồn vốn nước ngoài có tầm quan
trọng đặc biệt. Nguồn vốn ODA thường được các nước đang phát triển đầu tư cải
thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, xây dựng đường giao thông, phát triển năng
lượng vì đây là những ngành cần phải đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm nên tư nhân
không có khả năng đầu tư.
Viện trợ còn thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và phát triển nguồn
nhân lực. Nhờ có viện trợ mà nước nhận tài trợ với cơ chế quản lý tốt sẽ tạo ra được
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội vững chắc, giao thông thuận tiện, hệ thống pháp luật ổn
định, viện trợ là sự chuẩn bị cho vốn đầu tư trực tiếp được thu hút vào là điều kiện
cho FDI được sử dụng một cách hiệu quả. Mặt khác, viện trợ còn giúp những nước
đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý
tiên tiến, kỹ năng chuyên môn cao. Đây chính là lợi ích căn bản, lâu dài của quốc gia
nhận tài trợ.
Viện trợ thúc đẩy đầu tư tư nhân. Ở những nước có cơ chế quản lý tốt thì viện trợ
nước ngoài không thay thế cho đầu tư tư nhân mà đóng vai trò như là nam châm hút
đầu tư tư nhân theo tỷ lệ sấp xỉ 2 USD trên 1USD viện trợ. Đối với các nước quản lý
tốt thì viện trợ góp phần củng cố niềm tin cho khu vực tư nhân và hỗ trợ các dịch vụ
công cộng. Viện trợ tăng với quy mô 1% GDP sẽ làm tăng đầu tư tư nhân trên 1,9%
GDP. Ở các nước có cơ chế quản lý tồi, viện trợ nước ngoài có thể khuyến khích khu
vực nhà nước tiến hành các khoản đầu tư thương mại đáng ra do khu vực tư nhân thực
hiện.
2.3. Viện trợ giúp các nước đang phát triển cải thiện thể chế và chính sách kinh tế.
Cải thiện thể chế và chính sách kinh tế ở những nước đang phát triển là chìa khoá
để tạo bước nhảy vọt về lượng trong thúc đẩy tăng trưởng, tức là góp phần làm giảm
đói nghèo. Mặt khác, viện trợ có thể nuôi dưỡng cải cách. Khi các nước mong muốn

cải cách thì viện trợ nước ngoài có thể đóng góp những nỗ lực cần thiết như hỗ trợ thử
8
ngiệm cải cách, trình diễn thí điểm, tạo đà và phổ biến các bài học kinh nghiệm.
Những nước mà ở đó chính phủ thực hiện những chính sách vững chắc phân bổ hợp
lý các khoản chi tiêu và cung cấp dịch vụ có hiệu quả cao thì hiệu quả chung của viện
trợ là lớn. Ngược lại, ở những nước mà chính phủ và nhà tài trợ không đồng nhất
quan điểm trong việc chi tiêu, hiệu quả lại thấp thì các nhà tài trợ cho rằng cách tốt
nhất là giảm viện trợ và tăng cường hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách và xây
dựng thể chế cho đến khi các nhà tài trợ thấy rằng viện trợ của họ sẽ đóng góp cho sự
phát triển. Qua đây ta cũng nhận thấy rằng giá trị thực của các dự án là ở chỗ thể chế
và chính sách được củng cố, cải thiện việc cung cấp dịch vụ xã hội. Việc tạo ra được
kiến thức với sự trợ giúp của viện trợ sẽ dẫn tới sự cải thiện trong một số ngành cụ thể
trong khi một phần tài chính của viện trợ sẽ mở rộng các dịch vụ công cộng nói
chung.
Cơ chế quản lý tốt, ổn định kinh tế vĩ mô, Nhà nước pháp quyền và hạn chế tham
nhũng sẽ dẫn đến tăng trưởng và giảm đói nghèo. Qua các nghiên cứu của các chuyên
gia có thể thấy khó có thể nhận ra mối quan hệ giữa viện trợ mà các nước nhận được
với trình độ chính sách của họ. Tuy không có mối quan hệ về lượng giữa viện trợ và
chất lượng chính sách của nước nhận viện trợ nhưng trong một số trường hợp viện trợ
vẫn có thể góp phần cải cách, thông qua các điều kiện đặt ra hoặc thông qua việc phổ
biến ý tưởng mới.
Tóm lại, viện trợ đã và đang có hiệu quả. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA chỉ phát huy
hết vai trò của nó khi có một cơ chế quản lý tốt, một thể chế lành mạnh và một môi
trường chính trị hoàn thiện. Nếu không chẳng những ODA không phát huy vai trò của
nó mà còn đem lại gánh nặng nợ nần cho đất nước.
Việt Nam là một nước đang phát triển, hiện đang mong muốn nhận được nhiều
nguồn ODA và quản lý sử dụng ODA thật hiệu quả phục vụ cho phát triển đất nước.
Việt Nam cần nhận thức rõ được vai trò của ODA, các điều kiện để ODA phát huy
vai trò của nó để từng bước hoàn thiện công tác thu hút, quản lý và sử dụng ODA.
9

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA CỦA VIỆT NAM
SAU KHI GIA NHẬP WTO
I. Tác động của việc gia nhập WTO đến thu hút và sử dụng ODA
II. Tình hình thu hút ODA
Mặc dù tình hình phát triển của nhiều nước tài trợ chủ chốt, thành viên của tổ
chức OECD-DAC có nhiều khó khăn, nguồn vốn ODA thế giới tăng nhưng chậm
trong khi đó nhu cầu về nguồn vốn này tăng mạnh ở các nước đang phát triển, song
nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn về phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường và mở
rộng hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực của Đảng và nhà
nước ta, cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết mạnh mẽ cung cấp nguồn vốn
ODA cho Việt Nam.
Tổng vốn ODA cam kết của cộng đồng tài trợ quốc tế tại Hội nghị thường niên
nhóm tư vấn tài trợ dành cho Việt Nam trong 3 năm (2006-2008) đạt 18.635 tỷ USD.
Nếu bao gồm cả khoản cam kết mới trị giá 83.2 tỷ Yên của chính phủ nhật Bản khi
nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam thì tổng giá trị ODA cam kết đạt khoảng 19.535
tỷ USD. Với số vốn cam kết, trong 3 năm qua ta đã đạt tổng giá trị 11.070 tỷ USD,
trong đó ODA vốn vay: 10.143 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại: 0.927 tỷ USD. So
với chỉ tiêu đề ra trong hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời kỳ 2006-
2010(12.35 – 15.75 tỷ USD ký kết mới đưa tổng nguồn vốn ODA được ký kết lên con
số 23,75 tỷ USD) thì trong 2 năm 2009-2010 ta sẽ phải ký kết mới các hiệp định với
tổng giá trị từ 1.28 – 4.68 tỷ USD. Việc nhập WTO mở ra cơ hội thuận lợi để Việt
Nam thu hút các luồng vốn đầu tư cả từ trong lẫn ngoài nước dưới nhiều hình thức
khác nhau. Nhờ lợi thế về nguồn nhân công, đất đai, tài nguyên còn rẻ và trong bối
cảnh một thị trường Việt Nam đầy tiềm năng khá mở và và môi trường đầu tư kinh
doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện thông qua những chính sách và biện
pháp hấp dẫn, Việt Nam trở thành một điểm sáng đối với các nhà đầu tư. Trong 3 năm
qua, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn ODA lớn. Năm 2009 số vốn ODA mà
các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam là gần 6 tỷ USD cao hơn gần 10% so với
năm 2008, và trong năm 2010 cam kết vốn vay ODA của các nhà tài trợ có sự tăng

trưởng lớn( hơn 8 tỷ USD). Đây là chỉ tiêu mà ta có đầy đủ khả năng đạt được với
điều kiện các Bộ, ngành và địa phương phối hợp chặt chẽ với nhà tài trợ trong quá
trình xây dựng văn kiện chương trình, dự án để có thể tiến tới đàm phán và ký kết.
10
Trong số các chương trình, dự án được ký kết có những chương trình, dự án quy
mô lớn và quan trọng như: Xây dựng đường vành đai 3 Hà Nội, cải thiện môi trường
nước thành phố Huế, xây dựng đường cao tốc Bắc Nam… Cơ cấu vốn ODA ký kết
theo ngành, lĩnh vực thời kỳ năm 2006-2010 thể hiện trong bảng sau:
Ngành, lĩnh vực Dự báo giá trị ODA theo hiệp
định 2006-2010
Dự báo giá trị ODA cam
kết
Tỷ USD Tỷ trọng đầu

Tỷ USD
Nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản kết
hợp với phát triển nông thôn và xoá
đói giảm nghèo
2,2-2,5 18% 2,9-3,3
Năng lượng và công nghiệp 1,9-2,2 16% 2,6-2,9
Giao thông, bưu chính-viễn thông, cấp
thoát nước và đô thị
3,6-4,1 30% 4,8-5,5
Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường,
khoa học công nghệ và các ngành
khác
4,3-4,9% 36% 5,8-6,6
Tổng 12,0-13,6 100% 16,0-18,2
Nguồn: Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-xã hội Quốc gia
Có thể nhận thấy cơ cấu nguồn vốn ODA được ký kết theo ngành và lĩnh vực trong

thời gian quan phù hợp với định hướng cơ cấu sử dụng nguồn vốn ODA thời kỳ 2006-
2010, trong đó tập trung nguồn vốn này cho các ngành và lĩnh vực ưu tiên như nông
nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo, phát triển năng lượng
và công nghiệp, phát triển giao thông, thông tin liên lạc và cấp thoát nước đô thị, phát
triển các lĩnh vực xã hội( y tế, giáo dục,…).
III. Tình hình sử dụng ODA
Thời gian qua, nhiều đoàn kiểm tra của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển
châu Á, đoàn Chính phủ và Quốc hội Nhật Bản đã sang xem xét, kiểm tra nguồn
vốn ODA được sử dụng như thế nào. Tất cả đều có nhận định chung Việt Nam là
nước sử dụng ODA có hiệu quả nhất. Chính phủ Việt Nam đã luôn có những biện
pháp tích cực và quyết liệt để đảm bảo việc giải ngân diễn ra theo đúng tiến độ. Tình
hình giải ngân nguồn vốn ODA về cơ bản đã được cải thiện rõ rệt, về cơ bản đã đạt
được kế hoạch đặt ra. Tuy nhiên, kế hoạch 5 năm 2006-2010 đề ra nhiệm vụ giải ngân
nguồn vốn ODA phải đạt mục tiêu 11.9 tỷ USD, song tổng giải ngân trong 3 năm đầu
11
đã đạt được 6.161 tỷ USD. Năm 2009, tổng giá trị vốn ODA giải ngân tính đến 20/11
ước đạt 1,99 tỷ USD, vượt khoảng 5% so với kế hoạch dự kiến cả năm 2009. Các dự
án ODA ở Việt Nam có sự giám sát công khai của các nhà tài trợ và mọi thủ tục đều
được thực hiện một cách công khai, minh bạch. Việc kiểm soát chi tiêu trong các dự
án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ thực hiện khá tốt và sự thất thoát trong việc
sử dụng vốn của các dự án ODA là thấp. Bên cạnh đó, các nhà tài trợ đều nhận định
chúng ta đã xác định được hướng đi đúng đối với một nước đang phát triển, đã đề ra
được những giải pháp cũng như đã có những bước đi phù hợp, linh hoạt bảo đảm đất
nước phát triển theo hướng bền vững.
IV. Một số hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn ODA
Công tác thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua còn có một số yếu kém, gây
thất thoát và lãng phí. Những yếu kém trong công tác thu hút và sử dụng ODA chủ
yếu là:
+ Quá trình tổ chức thực hiện dự án gặp nhiều ách tắc, kéo dài thời gian dẫn đến
tốc độ giải ngân vốn ODA chậm.

Những ách tắc chủ yếu diễn ra trong các khâu sau:
- Giải phóng mặt bằng: Có khoảng 80% các dự án bị ách tắc, vướng mắc, chậm trễ
là do nguyên nhân này.
- Công tác đấu thầu: Thời gian tiến hành đấu thầu thường bị kéo dài do Việt Nam
mới làm quen với nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế. Các cơ
quan quản lý dự án thường tự đưa ra các yêu cầu ban đầu mà không có sự tham gia
của tư vấn chuyên nghiệp nên nhiều dự án gây tranh cãi, thắc mắc trong quá trình
chọn nhà thầu hoặc kéo dài thời gian xét thầu.
Chất lượng các nhà thầu được lựa chọn thấp, không đáp ứng được yêu cầu của dự
án đặt ra. Các cơ quan quản lý dự án không tiến hành xác minh những khả năng của
nhà thầu như khả năng tài chính, khả năng kỹ thuật, tiến độ thi công Vì vậy, khi
thực hiện xảy ra tình trạng: nhà thầu không tuân thủ nghiêm ngặt quy trình, nội dung
trong bản thiết kế chi tiết để giảm chi phí hoặc cần tăng tiến độ thực hiện thì phía nhà
thầu không có khả năng huy động đủ nguồn lực về tài chính, máy móc thiết bị, con
người
Giải ngân chậm dẫn tới các hậu quả sau đây:
+ Giải ngân vốn ODA bị kéo dài làm thay đổi các thông số kỹ thuật của các dự án,
dẫn tới làm giảm hiểu quả của dự án, hạn chế khả năng trả nợ, là nguy cơ làm tăng nợ
quá hạn cho Chính phủ, làm ùn đọng vốn ODA cam kết và ký kết.
12
+ Chậm đưa công trình vào sử dụng gây lãng phí, thất thoát nguồn lực, công trình
kém hiệu quả.
+ Làm giảm tính ưu đãi của vốn vay (rút ngắn thời gian ân hạn, kéo dài thời gian
trả phí cam kết).
+ Làm giảm uy tín của ta đối với các nhà tài trợ về năng lực tiếp nhận và sử dụng
ODA, ảnh hưởng trực tiếp đến việc vận động nguồn vốn này.
+ Chất lượng một số công trình sử dụng vốn ODA chưa bảo đảm
Phần lớn các chương trình dự án tập trung vào lĩnh vực xây dựng cơ bản. Chất
lượng một số công trình sử dụng vốn ODA chưa bảo đảm đúng những tiêu chuẩn định
mức của bản thiết kế đặt ra. Ban vận hành phải bỏ chi phí đáng kể ra để bảo dưỡng tu

sửa. Nguyên nhân là trong quá trình thực hiện xảy ra thất thoát, lãng phí. Thất thoát
trong xây dựng cơ bản hiện nay của Việt Nam chiếm khoảng 20%-30% tổng vốn đầu
tư trong từng dự án.
Mặt khác, chất lượng, nội dung thiết kế kỹ thuật tổng thể và chi tiết không phù hợp
với thực tế, không lường hết được biến cố kỹ thuật cũng như sự thay đổi bất thường
của môi trường nên phải chỉnh sửa thiết kế hoặc thiết kế lại toàn bộ nội dung.
Một số dự án hỗ trợ kỹ thuật viện trợ không hoàn lại cũng chưa đạt được hiệu quả
như mong muốn vì dự án còn nặng về các yếu tố đầu vào (nhập xe con, đi khảo sát ở
nước ngoài ), nhẹ về các kết quả đầu ra. Hậu quả là nhiều dự án chồng chéo nhau về
nội dung, kết quả dự án không được khai thác và sử dụng một cách thích đáng
+ Công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế
Quản lý nhà nước là nguyên nhân bao trùm của những hạn chế trong việc thu hút
và sử dụng ODA. Bất cập trong công tác quản lý nhà nước thể hiện ở việc phân cấp,
phân định chức năng , nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước; hệ thống chính
sách và những văn bản pháp luật liên quan đến vốn ODA; việc thẩm định phê duyệt,
bố trí vốn đối ứng, theo dõi, giám sát các dự án ODA
Chính những điều này đã làm giảm hiệu quả tiếp nhận và sử dụng ODA trong thời
gian qua mà một trong những biểu hiện về lượng là giải ngân ODA của ta còn chậm,
chỉ đáp ứng được 70-80% yêu cầu của giải ngân bình quân một năm của thời kỳ kế
hoạch. Vì vậy, muốn đạt được kết quả tốt trong việc thu hút và sử dụng ODA, không
ngừng phát huy những yếu tố tích cực, thuận lợi, đồng thời khắc phục những hạn chế
trong công tác này đòi hỏi các Bộ, ngành quản lý ODA không ngừng phấn đấu, tìm ra
những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn này
trong thời gian tới.
13
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Định hướng thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn 2010-2015
II. Một số giải pháp chủ yếu

5 năm không phải là thời gian quá ngắn nhưng cũng chưa đủ để chúng ta
có thể rút ra đầy đủ những kinh nghiệm cũng như hoàn chỉnh các biện pháp thu hút
và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hoàn hảo, mà Chính phủ còn phải tiếp tục thực
hiện nhiều biện pháp cải cách hơn nữa nhằm tranh thủ nhiều hơn sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế.
Trong tình hình cả 2 bên - các nhà tài trợ và Chính phủ Việt Nam – cùng tiến hành
nhiều biện pháp nhằm phối hợp chặt chẽ để đưa ra những thủ tục hợp lí, thoả mãn yêu
cầu của bên cung cấp và bên tiếp nhận. Sau đây nhóm nghiên cứu xin nêu một số giải
pháp tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA như sau:
1. Về thu hút vốn:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lí và điều hành công tác tiếp nhận ODA.
- Tăng cường công tác cán bộ, đầu tư đào tạo để nâng cao năng lực cho những cán
bộ thuộc bộ phận liên quan đến việc xác định nhu cầu đàm phán, kí kết những hiệp
định với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hơn nữa cả về số luợng và chất lượng của
nguồn vốn thu hút được.
- Mở lớp đào tạo ngắn về những kiến thức có liên quan đến ODA, tập huấn về
những quy định và thủ tục, điều kiện cung cấp ODA của các nhà tài trợ.
- Những ngành và địa phương có nhu cầu về cung cấp vốn ODA cần nghiên cứu kĩ
những chính sách ưu tiên của các đối tác nước ngoài cũng như quy chế quản lí và sử
dụng vốn ODA của Chính phủ Việt Nam để tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ và
các cơ quan có liên quan trong việc lập hồ sơ dự án và các thủ tục xin viện trợ phù
hợp với đối tượng ưu tiên.
2. Về sử dụng vốn:
Việt Nam là một nước đang phát triển do đó nguồn vốn ODA có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đây sẽ là nguồn lực chủ yếu
14
để Chính phủ đầu tư tái thiết cơ sở hạ tầng đang trên đà xuống cấp, lạc hậu nghiêm
trọng và cần được khẩn trương nâng cấp, đổi mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội nói chung và mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng.
ODA cũng là nguồn tài trợ cần thiết cho các hoạt động nghiên cứu, khảo sát, đánh giá

tiềm năng của các nguồn tài nguyên, thực trạng kinh tế xã hội, tình hình của các
ngành, lãnh vực trong nền kinh tế quốc dân, những thông tin thu thập, được sẽ là căn
cứ xác đáng cho quản lý vĩ mô.
Nhận thức được vai trò của nguồn vốn ODA đối với công cuộc phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, chúng ta đã có một số thành công lớn trong công tác vận động đầu
tư và là dấu hiệu chứng tỏ sự ủng hộ của quốc tế đối với công cuộc cải cách kinh tế xã
hội đang được thực hiện có kết quả tại Việt Nam. Tuy nhiên có được nguồn vốn mới
chỉ là tiền đề, điều quan trọng hơn hết là làm thế nào để hấp thụ, sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn nói trên. Để góp phần xử lí vấn đề này cần phải thực hiện cho được những
biện pháp sau:
Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức về vai trò và bản chất của viện trợ nước ngoài.
Tính chất ưu đãi của nguồn vốn ODA (thời gian, lãi suất ) thường làm cho các cơ
quan trong nước (quản lí tiếp nhận) có quan niệm hết sức dễ dãi và chủ quan về sự
phân phối và sử dụng nguồn vốn này. Họ không chú ý đến yêu cầu hiệu quả, bỏ qua
yếu tố chi phí thời cơ trong thẩm định, đánh giá dự án, chưa quan tâm đầy đủ đến việc
xác định các ưu tiên đầu tư, vẫn còn dựa dẫm chủ yếu vào nguồn vốn nước ngoài và
xem nhẹ sự đối ứng của nguồn vốn trong nước, triển khai dự án chậm có khi còn lãng
phí. Những quan niệm sai lầm trên cần sớm được chấn chỉnh, luôn luôn lưu ý rằng
đây là nguồn vốn phải hoàn trả vốn gốc và lãi vì vậy nếu sử dụng kém hiệu qủa vẫn
có thể rơi vào khủng hoảng nợ nần như đã xảy ra ở nhiều nước.
Thứ hai, thiết lập các định hướng ưu tiên đầu tư và tiến hành nghiên cứu khả thi
từng dự án chặt chẽ.
Cần tránh xu hướng dàn trải viện trợ nước ngoài trên một diện rộng bao quát nhiều
lãnh vực, ngành hay địa phương. Trong điều kiện nguồn vốn hạn chế, để nguồn vốn
phát huy hiệu quả nhanh và rộng, nên tập trung đầu tư vào một số lĩnh vực, vùng lãnh
thổ có lợi thế tương đối và có khả năng gây tác động phát triển lớn.
Thứ ba,cải thiện chất lượng dự án đầu tư:
Để cải thiện và nâng cao tốc độ giả ngân vốn ODA, giảm thiểu gánh nặng nợ nần,
phải quan tâm nhiều hơn nữa đến chất lượng đầu vào của nguồn vốn ODA. Phải lựa
chọn các dự án phù hợp, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và

trung hạn. Cần chú trọng tới cơ cấu và tính bền vững của các nguồn vốn ODA.
15
Để tăng cường chất lượng đầu vào của các chương trình, dự án ODA công tác
chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án cần được tổ chức chặt chẽ và chất lượng cao
trên cơ sở phát triển quan hệ đối tác. Cần phát triển hơn nữa quan hệ đối tác giữa các
bên, trên cơ sở quan tâm tới lợi ích chung cả tất cả các bên tham gia và đề cao vai trò
làm chủ của bên tiếp nhận. Đồng thời, chia sẻ thông tin cũng là một cơ sở quan trọng
để phát trển quan hệ đối tác. Do đó, để có thể phối hợp trong quan hệ hợp tác phát
triển nói chung và tạo điều kiện cho việc giải ngân đúng tiến độ các bên cần có thông
tin chính xác và tôn trọng lợi ích của nhau.
Thứ tư, tăng cường nguồn lực đối ứng trong nước.
Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong
nước tham gia trong từng chương trình. Các dự án vay vốn của chính phủ Nhật Bản
hay Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước
chiếm từ 15% đến 30% tổng giá trị dự án, các dự án hỗ trợ của các tổ chức thuộc hệ
thống Liên hợp quốc thường đòi hỏi vốn đối ứng trong nước khoảng 20% trị giá dự
án.
Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý
từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát
sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để xin hỗ trợ
một phần ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc nào
cũng trôi chảy, mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự chậm
trễ trong việc thực hiện dự án.
Cơ chế vốn đối ứng khác nhau cho những dự án cùng loại là câu hỏi đang chờ giải
đáp. Bên cạnh đó, một số dự án do vốn đầu tư lớn nên càng khó khăn về vốn đối ứng,
đặc biệt là đối với các địa phương.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn đối ứng, cần quy định cụ thể hơn về cơ chế
vốn đối ứng. Đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện
dự án, thống nhất cơ chế quản lý vốn đối ứng đối với những dự án cùng loại.
Mặt khác, cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù

hợp với quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài mục đích,
nội dung của dự án.
Thứ năm: Cải tiến cơ chế quản lý và điều phối viện trợ.
Viện trợ nước ngoài có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng ở trong nước kể từ
lúc vận động kinh tài trợ cho đến khi hoàn tất cam kết hoàn trả cho nên thiết lập một
cơ chế nhằm đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng , thông suốt của cả một hệ thống tổ
chức có liên quan đến việc trợ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Ngoài ra còn phải xác
16
định khả năng trả nợ cả gốc và lãi trong tương lai để xây dựng kế hoạch trả nợ, cập
nhật các thông tin trong và ngoài nước về sự biến động của các nhân tố có khả năng
tác động đến nguồn vốn vay để xử lý kịp thời và có những quyết định đúng đắn tránh
tình trạng lỗ do những tác động của những nhân tố khách quan khi dự án đã đi vào
hoạt động.
Thứ sáu,hài hoà thủ tục giữa các nhà tài trợ. Hiện nay, các nhà tài trợ cũng như các
quốc gia đối tác đều mong muốn có các quy chế và hệ thống đơn giản hoá để cùng
nhau thực hiện, tiến tới các điểm chung về mẫu, nội dung và tính thường xuyên cho
một báo cáo định kỳ ở mỗi chương trình, dự án phù hợp yêu cầu của tất cả các nhà tài
trợ. Hơn nữa, những điểm chung là cần thiết để loại bỏ sự trùng lặp trong việc chuẩn
bị tài liệu, đánh giá các tác động về môi trường và xã hội đối với các chương trình, dự
án đồng tài trợ. Vì thế nhu cầu hài hoà thủ tục theo các quy chế và các hệ thống phù
hợp với những tiêu chuẩn, nguyên tắc quốc tế là khách quan và cần thiết.
Thứ bảy, mở rộng thêm đối tượng của nguồn vốn ODA. Nguồn vốn ODA hiện nay
chủ yếu chỉ dành cho khu vực quốc doanh, những gì thuộc sở hữu nhà nước; còn khu
vực tư nhân thì mới chỉ được tiếp cận nguồn vốn này với tư cách là nhà thầu (chủ yếu
là xây dựng và mua sắm trang thiết bị) - một mắt xích nhỏ trong toàn bộ chuỗi xích
của việc sử dụng nguồn vốn ODA. Thực tế đã cho thấy, rất nhiều doanh nghiệp tư
nhân đã sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp nhà
nước, vì vậy trong thời gian tới cần chú ý hơn tới đối tượng này.
Cuối cùng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ. Thời gian qua trong
khuôn khổ các chương trình, dự án ODA, một đội ngũ khá đông đảo cán bộ đã được

đào tạo và huấn luyện về công tác quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA.
Tuy nhiên, trong thời gian tới cần có một chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra
những thay đổi về nhận thức, thái độ và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp.
KẾT LUẬN
17
Như vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) nói riêng có tác dụng rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam.
Để phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển hòa nhập thế giới trong khi quy mô nền kinh tế nhỏ, thiếu vốn và tiết kiệm
trong nước còn quá thấp thì cần phải bổ sung khối lượng vốn đầu tư nước ngoài, tranh
thủ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ODA. Muốn vậy, Nhà nước ta cần có các
chính sách phù hợp để thu hút và sử dụng nguồn ODA có hiệu quả hơn và có những
biện pháp thực hiện các chính sách đó một cách triệt để và hợp lý. Có như vậy chúng
ta mới sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn vốn này, góp phần thúc đẩy kinh tế phát
triển và đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
đề ra.
18

×