Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học phục vụ công tac đánh giá tác động môi trường của các dự án khai thác mỏ hầm lò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.89 MB, 158 trang )



BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
VIỆN KHOA HỌC ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN









BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU XÁC LẬP CƠ SỞ KHOA HỌC PHỤC VỤ CÔNG
TÁC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CỦA DỰ ÁN KHAI THÁC
MỎ HẦM LÒ







7865
15/4/2010


HÀ NỘI - NĂM 2010


BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
VIỆN KHOA HỌC ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN
Ë







NGHIÊN CỨU XÁC LẬP CƠ SỞ KHOA HỌC PHỤC VỤ CÔNG TÁC ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CỦA DỰ ÁN KHAI THÁC MỎ HẦM LÒ


Cơ quan thực hiện đề tài Chủ nhiệm đề tài
Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản















ThS. Mai Thế Toản







HÀ NỘI - NĂM 2010

2

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA

1. ThS. Mai Thế Toản, Cục Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường – Tổng
cục Môi trường, Bộ TNMT (Chủ nhiệm đề tài)
2. TS. Mai Trọng Tú, Viện Khoa học địa chất và khoáng sản - Bộ TNMT (Phó
chủ nhiệm đề tài)
3. PGS.TS.Hồ Sĩ Giao, Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm khai thác mỏ,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội
4. PGS.TS.Trầ
n Xuân Hà, Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm khai thác mỏ,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội
5. ThS.Nguyễn Cao Khải, Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm khai thác mỏ,
Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội
6. Phạm Thanh Hải, Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm khai thác mỏ, Trường
Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội


















3
BẢNG THỐNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Diễn giải
ANFO Ammonium Nitrate Fuel Oil (thuốc nổ ANFO)
BOD
5
Bịochemical Oxygen Demand (Yêu cầu oxy cho quy trình
sinh hoá trong 5 ngày)
BVMT Bảo vệ môi trường
CNH Công nghiệp hóa
CHLB Cộng hòa Liên bang
CHXHCN Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
COD Chemical Oxygen Demand (Yêu cầu oxy cho phản ứng hóa)
DO Dissolved oxygen (Oxy hoà tan)
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
GDP Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)

HĐH Hiện đại hoá
HTKT Hệ thống khai thác
KTHL Khai thác hầm lò
KSCI Khoáng sản có ích
LKM Luyện kim màu
MXTL Máy xúc thuỷ lực
NPV Net Present Value (Giá trị hiện tại ròng)
SS Chất rắn lơ lửng
TLGN Thuỷ lực gàu ngược
TLGT Thuỷ lực gàu thuận
TCCP Tiêu chuẩn cho phép
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TKV Tập đoàn Công nghiệpThan – Khoáng sản Việt Nam
TVĐT Tư vấn đầu tư
TNKS Tài nguyên khoáng sản
TP Thành phố
UBND Uỷ ban Nhân Dân
VLXD Vật liệu xây dựng


4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG I: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 11
1.1 Khái quát chung 11
1.2 Tình hình khai thác một số tài nguyên khoáng sản chính 12
1.3 Hiện trạng môi trường trên các mỏ hầm lò 23
1.4. Công tác bảo vệ môi trường trên ba mỏ khảo sát 31
CHƯƠNG II: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN 58


2.1. Luật Khoáng sản (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2005) 58
2.2. Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) [7] 59
3.3. Tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và Luật Khoáng sản. 62
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA KHAI
THÁC MỎ HẦM LÒ TỚI CÁC THÀNH PHẦN CỦA MÔI TRƯỜNG 68
3.1. Phân loại tác hại của khai thác hầm lò 68
3.2. Các hoạt động gây ô nhiễm từ các mỏ hầm lò 71
3.3. Các tác động chính của khai thác hầm lò tới môi trường. 71
CHƯƠNG IV: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT
TRONG KHAI THÁC MỎ HẦM LÒ NHẰM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 86

4.1 Hạn chế sự chiếm dụng đất đai của khai thác mỏ hầm lò 86
4.2. Tiết kiệm tài nguyên lòng đất 86
4.3. Hạn chế sự suy giảm môi trường đất 86
4.4. Phục hồi chức năng trồng trọt cho đất. 91
4.5. Hạn chế việc xả bụi, khí độc và tiếng ồn vào không khí. 93
4.6. Xử lý nước thải trên mỏ hầm lò. 103
4.7. Xử lý quặng đuôi tuyển nổi và bùn tại hồ thải 110
4.8. Tận dụng công trình mỏ cũ vào mục đích dân sinh khác 111
CHƯƠNG V: PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG SAU KHAI THÁC 113
5.1.Công tác chuẩn bị 113
5.2. Khôi phục cải tạo mỏ sau khai thác 117
5.3.Dự toán chi phí phục hồi môi trường [27] 124
5.4. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường 127

5
CHƯƠNG VI: LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG CHO CÁC DỰ ÁN KHAI THÁC MỎ HẦM LÒ 132


6.1. Các phương pháp được khuyến cáo áp dụng. 132
6.2. Phương pháp liệt kê danh mục (checklist methodologies) 133
6.3. Xây dựng ma trận môi trường dùng trong ĐTM các dự án khai thác hầm
lò 134

CHƯƠNG VII: NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ TIÊU TRONG HOẠT ĐỘNG
KHAI THÁC HẦM LÒ CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG 139

KẾT LUẬN 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 156



6
MỞ ĐẦU

Trong suốt thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành quả đáng kể
góp phần bảo đảm tính hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Việc quy định về ĐTM đã luôn luôn phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình
thực tế biến đổi mạnh mẽ ở Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh cả nước đang
đẩ
y mạnh thực hiện chính sách mở cửa, khuyến khích đầu tư phát triển để thực
hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ đặt ra cho công
tác ĐTM là tạo sự thông thoáng tối đa cho môi trường đầu tư và đảm bảo được
yêu cầu của công tác bảo vệ môi trường. Vì vậy, trong 15 năm qua, các văn bản
quy phạm pháp luật cấp Bộ đã liên tục được s
ửa đổi, bổ sung và thay thế lẫn
nhau. Kết quả mang lại của công tác ĐTM trong thời gian qua là rất quan trọng,
tuy nhiên, còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn, thảo luận rộng rãi hơn

nhằm đáp ứng các yêu cầu trong tình hình mới của Việt Nam.
Tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần
đáng kể trong giảm nghèo và cải thiện điều kiện sống cho hầ
u hết mọi người
dân. Nhu cầu tăng trưởng kinh tế đòi hỏi nhanh chóng mở rộng các vùng đô thị,
chuyển đổi mục đích sử dụng đất và tăng khai thác các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, đa dạng sinh học và tạo sức ép lớn lên môi trường. Trong khi đó, trình độ
công nghệ và sản xuất trong nước vẫn còn khá lạc hậu. Đây chính là thách thức
rất lớn đối với hoạt động quản lý bả
o vệ môi trường. Khi đánh giá về công tác
phòng chống ô nhiễm, trong đó nội dung đánh giá tác động đúng vai trò quan
trọng bậc nhất, cho thấy còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn nhằm
đáp ứng các yêu cầu trong tình hình mới của Việt Nam.
Trong ngành khai thác mỏ, cho đến nay, nhiều báo cáo ĐTM của dự án
khai thác khoáng sản bằng phương pháp hầm lò đã được lập, thẩm định và phê
duyệt, song do chưa có được hướ
ng dẫn cụ thể về chuyên ngành, nên trong quá
trình thực hiện ĐTM các Dự án đã gặp nhiều khó khăn vướng mắc, trong khi nội
dung đánh giá tác động môi trường cho các dự án khai thác khoáng sản thường
là rộng lớn và phức tạp.
Khai thác mỏ bằng phương pháp hầm lò ở nước ta, ngoài mỏ Chì-Kẽm
Chợ Điền và 2 dự án bắt đầu triển khai là Ni ken Bản Phúc và Vonfram Núi

7
Pháo, chủ yếu tập trung vào hoạt động khai thác than ở Quảng Ninh với 8 mỏ
hầm lò lớn và trên 20 mỏ hầm lò vừa và nhỏ, 4 nhà máy tuyển lớn cùng các cụm
sàng ở mỏ. Để đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu, trong những
năm qua tốc độ tăng trưởng của ngành than là rất đáng khích lệ. Năm 2005 sản
lượng than đã đạt trên 31 triệu tấn, năm 2007
đã đạt 43,2 triệu tấn và dự kiến

đến năm 2020 sẽ đạt 54.755 ÷59.655 triệu tấn (cả lộ thiên và hầm lò). Tổng diện
tích sử dụng cho sản xuất than là 17.220,7 ha trong tổng số diện tích tự nhiên
của tỉnh Quảng Ninh là 593.858 ha. Bên cạnh những tác động tích cực của hoạt
động sản xuất than thì hàng loạt tác động tiêu cực cũng kèm theo. Đó là làm
thay đổi cảnh quan, địa hình khu vực; làm suy giảm tài nguyên rừng; gây hi
ện
tượng trôi trượt, sạt lở đất, bồi lấp sông suối, bờ biển; làm ô nhiễm môi trường
không khí do khí độc và bụi, ô nhiễm nước bởi nước thải axít và chất rắn lơ
lửng; Trong tương lai, cường độ sản xuất than tiếp tục tăng lên, thì những tác
động xấu của nó đối với môi trường sẽ còn nặng nề hơn.
Khai thác than hầm lò là nguyên nhân phát sinh dịch động và biến dạng đấ
t
đá. Điều này dẫn đến các rủi ro và sự cố môi trường như nứt nẻ, sụt lún mặt đất
làm phá huỷ các công trình công nghiệp và dân dựng, đồng thời cũng gây sự sập
lở đất đá trong các công trình hầm lò.
Khí mêtan là chất khí thường gặp ở các mỏ than hầm lò, là chất khí cực kỳ
nguy hiểm vì tính chất cháy nổ và gây hậu quả nghiêm trọng về tiền của và
người không thể lườ
ng hết được. Để loại trừ hữu hiệu khả năng cháy nổ khi mê
tan cần phải áp dụng hàng loạt các giải pháp tổ chức và kỹ thuật, đặc biệt là sử
dụng thật tốt giải pháp thông gió để chống bụ1. Hệ thống thông gió của các mỏ
than hầm lò vùng Quảng Ninh nhìn chung bước đầu đáp ứng được nhu cầu của
sản xuất, song cũng còn nhiều bất cập,
đặc biệt các mỏ vừa và nhỏ. Đó là phải
nhanh chóng đầu tư đúng mức về xây dựng và trang bị thiết bị cho các trạm
quạt, hoàn thiện các công trình thông gió để chống rò rỉ gió. Đồng thời hàng
quý, hàng năm phải tính toán điều chỉnh mạng gió cho phù hợp với tiến độ sản
xuất. Các sự cố bục nước thường xẩy ra trong khai thác hầm lò cũng là một
thách thức đối với công tác b
ảo vệ môi trường mà khi ĐTM cần đưa ra được

những giải pháp phòng chống hữu hiệu.

8
Ngoài ra, phòng chống bụi và xử lý nước thải mỏ trong khai thác hầm lò là
vấn đề cần quan tâm rong nội dung ĐTM.
Riêng đối với ngành khai thác khoáng sản, Báo cáo ĐTM phải bảo đảm
cung cấp các thông tin về hoạt động của quá trình khai thác mỏ, hiện trạng môi
trường nền khu vực khai thác mỏ, các nguồn gây ô nhiễm từ các khâu xây dựng
cơ bản mỏ, nổ mìn, bốc xúc quặng, đất đá, vận chuyển, đánh giá đị
nh lượng mức
độ ô nhiễm và đề xuất các biện pháp khống chế ô nhiễm, phòng chống sự cố môi
trường và chương trình quản lý môi trường (quan trắc môi trường, ký quỹ phục
hồi môi trường, đóng cửa mỏ…). Trên cơ sở phân tích các đặc điểm mỏ, quy
trình khai thác, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tại khu vực hoạt động mỏ,
báo cáo đánh giá tác động môi trường phải đưa ra
được những thông tin cần
thiết để đầu tư khai thác và chế biến khoáng sản một cách hiệu quả gắn liền với
các giải pháp bảo vệ môi trường. Các đánh giá định tính và định lượng về tác
động môi trường phải dựa trên cơ sở khoa học có xét đến các khía cạnh về quốc
phòng, an ninh trật tự, du lịch, tôn giáo; đảm bảo tính hợp lý giữa trữ lượng và
khai thác, giữa phát triển sản xuấ
t và bảo vệ môi trường. Vì vậy, việc lập báo
cáo ĐTM (với đầy đủ nội dung chứa đựng hàm lượng khoa học và thực tiễn) của
các dự án khai thác mỏ nói chung và khai thác hầm lò nói riêng là nội dung
quan trọng, là công cụ kỹ thuật, pháp lý không thể thiếu trong công tác quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường.
Nội dung chủ yếu mang tính nguyên tắc đối với Báo cáo ĐTM đã được nêu
tại Điều 20 Luật B
ảo vệ môi trường năm 2005 và sau đó được phát triển chi tiết
hơn tại Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 08/12/2008 (thay thế Thông tư

số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08 tháng 9 năm 2006) của Bộ Tài nguyên và Môi
trường. Các quy định về đánh giá tác động môi trường (ĐTM), thẩm định, phê
duyệt các báo cáo ĐTM hoặc CKBVMT trong hoạt động khoáng sản được quy
định cụ thể trong Luật BVMT năm 2005, Nghị định 80/2006/NĐ-CP và Thông
tư số 05/2008/TT-BTNMT.
Trong quá trình thực thi Luật BVMT đã nả
y sinh nhu cầu về việc cần có
những hướng dẫn chi tiết về lập báo cáo ĐTM riêng cho từng ngành, từng lĩnh
vực hoạt động kinh tế, năm 1999 Cục Môi trường thuộc Bộ KHCN và MT đã
ban hành “hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án khai thác

9
chế biến đá và sét” là một trong 8 lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau có bản
hướng dẫn lập báo cáo ĐTM. Tuy nhiên, do khai thác đá và sét không đại diện
cho công nghệ khai thác các khoáng sản khác, đặc biệt là công nghệ khai thác
các khoáng sản bằng phương pháp hầm lò, nên trong các báo cáo ĐTM của các
dự án khai thác mỏ hầm lò vẫn còn tồn tại những nội dung về công nghệ trình
bày còn hời hợt, những giải pháp để xuất về BVMT chưa sát thự
c hoặc ít tính
khả thi, Để tiếp cận đúng đắn vấn đề về tác động môi trường trong khai thác
khoáng sản bằng phương pháp hầm lò, trước hết cần nhận diện đầy đủ các hoạt
động phát triển của loại hình dự án này, các nguồn phát thải chất gây ô nhiễm từ
các hoạt động phát triển đó, đặc biệt là các tác động không liên quan đến chất
thải, các tai biến và sự cố môi trường, nh
ằm từ đó đề xuất được những giải
pháp phòng tránh và giảm thiểu thích hợp, có tính khả th1.
Từ những vấn đề nêu trên, việc tiến hành đề tài này nhằm xây dựng bản
hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án khai thác hầm lò
(bao gồm cả Quy trình thực hiện ĐTM) là thực sự cần thiết và có ý nghĩa đối
với nhu cầu phát triển hiện tại cũng nh

ư lâu dài của ngành khai thác mỏ hầm lò.
Mục đích của đề tài:
1. Tạo lập cơ sở khoa học để phục vụ công tác đánh giá tác động môi
trường của dự án khai thác mỏ hầm lò.
2. Đưa ra quy trình đánh giá tác động môi trường của dự án khai thác
hầm lò
3. Đưa ra Bản hướng kỹ thuật lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường của dự án khai thác mỏ hầm lò.
Phương pháp nghiên cứ
u của đề tài:
- Thu thập, phân tích và đánh giá chung về công tác lập và thẩm định báo
cáo ĐTM với các dự án khai thác hầm lò.
- Khảo sát thực tế: thu thập các số liệu quan trắc và phân tích các thông số
môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước, tiếng ồn và chất
thải rắn tại một số mỏ khai thác hầm lò.

10
- Phương pháp so sánh: Đối chiếu và so sánh kết quả điều tra và phân tích
với Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường;
- Phương pháp chuyên gia: Nghiên cứu độc lập về các vấn đề liên quan
đến khai thác mỏ, bảo vệ môi trường trong khai thác mỏ, các chính sách pháp
luật, tổ chức lấy ý kiến chuyên gia thông qua tham vấn, hội thảo,…
Trong khuôn khổ của bản báo cáo này, các vấn đề được trình bày là:
1. Hiện trạng khai thác hầm lò đối với các khoáng sàng quặng kim loại và
than.
2. Các văn bản pháp quy về môi trường có liên quan đến ngành khai thác
khoáng sản.
3. Hiện trạng ĐTM trong ngành KTHL: triển khai thực hiện giải pháp
BVMT trên các mỏ hầm lò, công tác quản lý môi trường trên các mỏ hầm lò.
4. Những giải pháp công nghệ kỹ thuật trong KTHL nhằm bảo vệ môi

trường.
Báo cáo không đi sâu vào vấn đề ô nhiễm môi trường trên các mỏ hầm lò
mà chỉ lồng ghép vấn đề này để làm sáng tỏ các mục tiêu trình bày trong các
phần thích ứng.


11
CHƯƠNG I:
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
1.1 Khái quát chung
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, công nghiệp
mỏ giữ vị trí quan trọng, tạo ra nguồn nguyên, nhiên, vật liệu cơ bản cho sự phát
triển của các ngành kinh tế như năng lượng, xi măng và vật liệu xây dựng, luyện
kim đen và luyện kim màu, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu.
Công nghiệp m
ỏ Việt Nam bao gồm: ngành than (khai thác chế biến than
antraxit, than nâu, than mỡ, diệp thạch chảy); ngành quặng (khai thác chế biến
quặng kim loại: kim loại đen, kim loại màu, phi kim loại như sắt, mangan, titan,
crôm, bauxit, pyrit, đồng, chì, kẽm, thiếc, nikel, antimoan, moliđen, uranium,
vàng, bạc, đá quý, apatit, graphit, đất hiếm, thuỷ ngân); ngành vật liệu xây
dựng (khai thác chế biến các loại khoáng sản để làm vật liệu xây dựng như đá
vôi làm xi măng, sành sứ, vậ
t liệu chịu lửa, cao lanh, thạch anh, amiăng, cát xây
dựng, cát làm thuỷ tinh, cát cuội, sỏi…)
Các khoáng sàng được khai thác chủ yếu là than antraxit, than mỡ, than
nâu, quặng sắt, và kim loại màu; đá cát sỏi làm vật liệu xây dựng; hoá chất công
nghiệp như apatit, pyrit,… Số lượng mỏ đang được khai thác một số khoáng sản
chủ yếu bao gồm: Than (53), than bùn (21), sắt (22), thiếc (12), vàng (11),
mangan (10), chì kẽm (8), inmênít (17), đá vật liệu xây dựng thông thường

(433), đá xi măng (37), đá ố
p lát (27), đá phụ gia xi măng (5), sét gạch Ngãi
(88), cát, sỏi xây dựng (81), sét xi măng (13), đôlômít (8), cao lanh (14),
Về quy mô khai thác khoáng sản, các mỏ có công suất lớn tập trung trong
ngành công nghiệp than, năm 2004 có 15 mỏ than đạt sản lượng > 1 triệu tấn
nguyên khai/năm; đá vôi phục vụ sản xuất xi măng (sản lượng > 1 triệu tấn
/năm, cát sỏi (>1 triệu m
3
/năm); apatít (> 500 nghìn tấn quặng/năm). Còn lại các
mỏ khoáng sản có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ (5.000 ÷ 10.000 tấn/năm). Từ góc
độ quy mô sản lượng có thể phân ra các doanh nghiệp như sau:
- Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản quy mô lớn (> 1 triệu tấn /năm
sản phẩm) có thể kể tới một số công ty khai thác than trong thành phần Tổng

12
công ty than Việt Nam, một số công ty khai thác đá vôi cho xi măng và khai
thác vật liệu xây dựng trong thành phần Tổng công ty xây dựng Việt Nam, xí
nghiệp liên doanh hoặc đầu tư nước ngoài 100%, công ty khai thác apatit trong
thành phần Tổng công ty hoá chất Việt Nam.
- Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản quy mô nhỏ và vừa bao gồm
phần lớn các công ty khai thác khoáng sản kim loại và phi kim loại trong thành
phần Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng công ty khoáng sản Việt Nam, các
công ty khoáng sản địa phương.
- Khai thác quy mô có thể, tự phát và thủ công tại nhữ
ng vùng có quặng là
hiện trạng rất phổ biến và mang tính hai mặt trong hoạt động khai thác khoáng
sản ở Việt Nam.
1.2 Tình hình khai thác một số tài nguyên khoáng sản chính.
+ Quặng sắt: Số lượng quặng sắt khai thác và chế biến của Việt Nam giai
đoạn từ 1995 ÷ 2002 rất ít, chỉ khoảng 300.000 ÷ 450.000 tấn/năm, trong đó các

doanh nghiệp của Nhà nước chiếm khoảng 80%, doanh nghiệp tư nhân và các
địa phương là 20%.
Công suất thiế
t kế khai thác mỏ ở quy mô công nghiệp không lớn, cao
nhất chỉ 350.000 tấn/năm. Thực tế sản lượng khai thác lớn nhất một mỏ đạt
250.000 tấn/năm. Chất lượng quặng sắt sau khi khai thác, chế biến không ổn
định, có xu hướng giảm dần theo chiều sâu khai thác.
Các mỏ khai thác tận thu thường không có thiết kế hoặc có nhưng khai thác
không tuân theo thiết kế. Nhiều doanh nghiệp khai thác tận thu đó khai thác bừa bãi
làm tổn thấ
t tài nguyên (không thu được quặng cám có cỡ hạt từ 0 ÷ 20 mm) và làm
suy giảm môi trường.
+ Quặng Crômit: Cho tới thời điểm hiện nay, công nghiệp khai thác, chế
biến quặng crômit tại mỏ Cổ Định tồn tại ở 2 dạng: khai thác quy mô công
nghiệp (sức nước, tàu cuốc) và khai thác thủ công (sức nước). Theo kết quả
thống kê, sản lượng quặng khai thác quy mô công nghiệp đạt cao nhất trong giai
đoạn những năm 1960 ÷ 1964. Trong những năm từ 1995 trở lại đây, sản lượng
quặng khai thác quy mô công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 20% trong tổng
sản lượng tinh quặng crômit hàng năm.

13
Mặc dù khai thác thủ công đem lại sản lượng đáng kể nhưng hậu quả để
lại cho môi trường, môi sinh là đáng kể và đó gây tổn thất tài nguyên khoáng sản
(không khai thác hết tầng quặng lớp dưới, hệ số thu hồi khi tuyển thủ công
thấp…).
+ Quặng Bauxit: Công nghiệp khai thác bauxit và luyện nhôm ở nước ta
hiện nay chưa phát triển. Hiện chỉ có mỏ bauxit Bảo Lộc đang khai thác bằng
ôtô, máy xúc kết hợp với máy gạt và máy xúc tải, tuyển trọng lực rửa bằng nước
với quy mô vài chục nghìn tấn bauxit mỗi năm để cấp cho Công ty hóa chất Tân
Bình thành phố Hồ Chí Minh làm phèn chua. Dự kiến trong thời gian tới, tổ hợp

này sẽ tăng công suất lên gấp đô1.
Dự án khả thi xây dựng tổ hợp khai thác bauxit, sản xuất alumin và nhôm
Tân Rai Lâm Đồng với công suất 300.000 tấn/năm alumin và 72.000 tấn/năm
nhôm kim loạ
i đó hoàn thành và đang trong giai đoạn phê duyệt. Dự án tiền khả thi
liên doanh với nước ngoài khai thác bauxit và sản xuất alumin Daknông Daklắc với
công suất 1.000.000 ÷ 2.000.000 tấn/năm alumin đang được triển kha1.
+ Quặng kẽm chì: Hiện nay việc khai thác quặng và luyện kẽm chì ở quy
mô công nghiệp tập trung ở Công ty LKM Thái Nguyên. Quặng ôxyt kẽm chủ yếu
được khai thác để sản xuất bột ôxyt kẽm với sản lượng 4.000 ÷ 5.000 tấn/nă
m.
Quặng sunphua kẽm chì khai thác ở quy mô nhỏ với sản lượng 10.000 tấn/năm
quặng nguyên khai và được làm giàu bằng công nghệ tuyển nổi cho tinh quặng tinh
kẽm đạt 50 ÷ 52 % Zn và tinh quặng chì đạt 60% Pb. Sản lượng tinh quặng kẽm chì
hiện nay đạt 2.000 tấn/năm. Thực thu tuyển nổi kẽm chì hiện nay đạt khoảng 75%
với tinh quặng kẽm, chì cao. Hàm lượng kẽm chì quặng vào là 10 ÷ 12%, nếu hàm
lượng vào < 10%, thì thực thu sẽ gi
ảm.
+ Quặng Titan: Giai đoạn đầu quặng titan được tận thu từ các xí nghiệp
sản xuất thiếc như là một sản phẩm phô cộng sinh, tập trung ở các xí nghiệp
thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang). Những năm 1978 ÷
1984 sản lượng quặng tinh inmenhit tận thu đạt ~ 500 ÷ 600 tấn/năm với hàm
lượng 46 ÷ 48% TiO
2
.
Vào cuối những năm 80, hình thành xí nghiệp khai thác - tuyển quặng
titan ở Xương Lý - Bình Định, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Bình Thuận chế biến

14
quặng titan cung cấp quặng tinh cho sản xuất que hàn ở trong nước và xuất

khẩu. Hiện nay có hàng chục công ty suốt dọc bờ bịển từ Thanh Hoá tới Thuận
Hải đang khai thác, chế biến và xuất khẩu quặng tinh titan. Các Công ty lớn là
MITRACO Hà Tĩnh, HUMEXCO Huế, BIJMAL Bình Định. Sản phẩm chính
hiện nay là tinh quặng inmenhit trên 52% TiO
2
, tinh quặng zircon trên 57%
ZrO
2
, tinh quặng rutin trên 82%. Gần đây Công ty MITRACO Hà Tĩnh và
HUMEXCO Huế đó nhập công nghệ và thiết bị để sản xuất sản phẩm zircon
siêu mịn chứa trên 65% ZrO
2
. Tổng sản lượng các sản phẩm từ khai thác quặng
titan hiện nay đó vượt trên chục vạn tấn/năm.
Công nghệ khai thác sa khoáng titan ven bịển phát triển theo các giai
đoạn như sau:
- Giai đoạn trước năm 1990: Chưa hình thành ngành khai thác - chế biến
sa khoáng titan, trừ một số địa phương khai thác thủ công quặng giàu > 85%
khoáng vật nặng cung cấp cho sản xuất que hàn ở trong nước.
- Giai đoạn 1990 ÷ 1995: Hình thành nhiều xí nghiệp, công ty khai thác
chế
biến quặng titan. Tốc độ phát triển nhanh. Chủ yếu là khai thác, tuyển
thu hồi quặng tinh inmenhit, zircon và rutin, đáp ứng nhu cầu sản xuất que
hàn trong nước. Công nghệ khai thác chủ yếu bằng thủ công chọn lọc những
lớp quặng giàu 80÷85% khoáng vật nặng. Một số cơ sở khai thác thủ công
đưa về tuyển bằng bãi đãi, máng thủ công tách cát và thu hồi khoáng vật
nặng. Tiếp đó tuyển tinh bằng máy tuyển t
ừ, tuyển điện - bàn đãi thu các loại
quặng tinh inmenhit > 52% TiO
2

, zircon 55 ÷ 60% ZrO
2
, rutin đạt > 85%
TiO
2
.
- Giai đoạn 1995 đến nay: Đối với các mỏ lớn như Cẩm Hoà, Kỳ Khang,
Đề Di, Bàu Dòi, Chựm Găng đó áp dụng công nghệ khai thác cơ giới bằng máy
xúc - máy gạt, máy bốc, tập trung quặng về các cụm tuyển thô. Công nghệ tuyển
thô sử dụng phân li cụm, vít đứng, 5.5. tuyển tinh bằng tuyển từ, tuyển điện, bàn
đã1. Đó hình thành bãi thải trong, có quy trình hoàn thổ và sử dụng lại nước
tuần hoàn.
Đối với những mỏ nhỏ nằm phân tán thì được khai thác bằng cơ giới
kết hợp thủ công. Công nghệ tuyển thô sử dụng các cụm vít đứng di động hoặc
máng đãi di động.

15
+ Quặng thiếc: Việt Nam đó từng bước tiếp thu công nghệ của Liên Xô
(cũ) để khai thác và luyện quặng thiếc ở quy mô công nghiệp như hiện nay. Về
quy mô khai thác kết hợp hình thức khai thác tập trung và phân tán, kết hợp quy
mô lớn, vừa và nhỏ, kết hợp với cơ giới, bán cơ giới và thủ công trong cả các
công đoạn khai thác - tuyển khoáng và luyện kim. Cho tới nay quặng thiếc ở
Việt Nam
được khai thác chủ yếu bằng phương pháp lộ thiên ở các mỏ sa
khoáng và luyện thiếc bằng công nghệ lò phản xạ và lò điện hồ quang.
Khai thác, tuyển quặng thiếc tự phát thủ công là một đặc điểm nổi bật của
ngành thiếc Việt Nam. Nhược điểm lớn của loại hình khai thác này là hủy hoại
môi trường, lãng phí tài nguyên, không an toàn.
Hiện nay ngành thiếc đang đứng trước khó khăn lớn là tình hình cạn ki
ệt

tài nguyên. Quặng sa khoáng, quặng giàu và chất lượng quặng nói chung đang ở
xu thế giảm. Do vậy cần đầu tư tìm kiếm phát hiện bổ sung tài nguyên, khai thác
và xử lý quặng gốc, quặng nghèo, quặng kém chất lượng, tăng thực thu kim loại,
tăng mức xử lý tổng hợp tài nguyên, tăng các biện pháp bảo vệ môi trường.
+ Quặng đồng: Mỏ đồng Sin Quyền đang khai thác quy mô nhỏ, cho sản
phẩm cuối cùng là tinh qu
ặng đồng với sản lượng 2.500 ÷ 3.000 tấn/năm. Dự án đầu
tư xây dựng liên hợp mỏ tuyển luyện đồng Sin Quyền quy mô lớn đang được thực
hiện công nghệ khai thác là kết hợp khai thác lộ thiên và khai thác hầm lò, áp dụng
công nghệ tuyển nổi để cho tinh quặng đồng, tinh quặng đất hiếm và tinh quặng
inmenhit.
+ Quặng vàng: Hiện nay một số xí nghiệp khai thác vàng trong nước và
liên doanh với nướ
c ngoài quy mô nhỏ đang hoạt động, sản lượng khoảng 70
kg/năm. Công nghệ khai thác chủ yếu là thủ công kết hợp với cơ khí. Các xí
nghiệp khai thác vàng quốc doanh thường bị lỗ vì công nghệ lạc hậu, thiếu vốn,
thiết bị không đồng bộ, công tác quản lý kém. Hiện nay khai thác thủ công là
chủ yếu, chỉ khai thác quặng giàu, không có khả năng thu hồi được các nguyên
tố đi kèm và gây ô nhiễm môi trường.
+ Quặng antimon: Được khai thác
ở mỏ Làng Vài - Tuyên Quang từ năm
1969. Sản lượng khai thác 50 ÷ 200 tấn/năm để sản xuất Sb kim loạ1. Tổng số
quặng đó khai thác khoảng 8000 tấn. Đến năm 1990 các thân quặng giàu đó khai
thác hết. Trữ lượng còn lại có hàm lượng dưới 5% Sb, nên sản xuất không có lãi

16
phải tạm ngừng. Hiện tại xí nghiệp khai thác, tuyển, luyện antimon Hà Giang
của Công ty khoáng sản Hà Giang đó đi vào hoạt động vào đầu năm 2003. Công
suất thiết kế là 1000 tấn/năm antimon kim loạ1.
Nhu cầu antimon ở nước ta hiện nay khoảng 1000 tấn/năm chủ yếu dùng

làm hợp kim chì - antimon, dựng trong công nghiệp sản xuất ắc quy, hợp kim
chữ in, hợp kim chịu mài mòn và một phần nhỏ sunphát atimon dựng trong công
nghiệp thu
ốc nổ.
+ Quặng mangan: Được sử dụng chủ yếu cho sản xuất feromangan trong
ngành luyện kim và sản xuất pin. Mỏ mangan Tốc Tác, Trà Lĩnh - Cao Bằng hiện
đang khai thác hầm lò thân quặng deluvi, công nghệ thủ công, khai thác tận thu với
công suất 12.000 ÷ 15.000 tấn/năm dùng cho sản xuất feromangan. Ngoài ra mỏ
Làng Bài - Tuyên Quang cũng được khai thác với sản lượng 2000 ÷ 2500 tấn
quặng tinh năm để phục vụ cho sản xuất pin.
+ Qu
ặng đất hiếm: Công tác nghiên cứu khoa học công nghệ xử lý quặng
đất hiếm ở trong nước đó được triển khai từ cuối những năm 60. Ở quy mô
phòng thí nghiệm và pilot, đó có công nghệ xử lý quặng đất hiếm để cho các sản
phẩm như tinh quặng đất hiếm trên 30% ReO, tổng oxyt đất hiếm trên 90% tổng
ReO, các oxyt đất hiếm riêng rẽ trên 90% ReO, hợp kim trung gian đất hiếm,
fero đất hiếm và một số kim lo
ại đất hiếm. Tuy nhiên do chưa có thị trường nên
các sản phẩm nêu trên chưa có điều kiện trở thành thương phẩm. Đất hiếm là
một thế mạnh về tài nguyên khoáng sản của Việt Nam. Tuy nhiên tiềm năng này
còn chưa được khai thác ở mức cần thiết, thực chất, ở Việt Nam chưa có khai
thác và chế biến đất hiếm ở quy mô công nghiệp.
+ Quặng Apatit: Mỏ Apatit Lào Cai bắt đầu khai thác t
ừ 1957 theo đề án
thiết kế của Liên Xô với công suất 500.000 tấn/năm quặng loại I, Quặng III thu
hồi nhân thể trong biên giới khai thác chưa có điều kiện sử dụng được về lưu
kho ở các bãi chứa. Năm 1981, để đáp ứng yêu cầu quặng apatit cho sản xuất
phân bón ngày càng lớn, đó tiến hành thiết kế mở rộng mỏ và xây dựng nhà máy
tuyển để làm giàu quặng 3.
Tổng sả

n lượng apatit trong một số năm lại đây ổn định ở mức 580.000
tấn/năm, trong đó 260.000 tấn/năm là quặng tinh, chủ yếu cho nhu cầu nội địa.

17
Hiện tại, các khu vực khai thác thuận lợi đó dần hết quặng, số còn lại điều kiện
khai thác khó khăn hơn.
+ Quặng cao lanh: Ở Việt Nam, do chưa có công nghệ chế biến cao lanh,
nên chỉ xuất khẩu cao lanh loại tốt, được lựa chọn ra từ cao lanh nguyên kha1.
Loại kém chất lượng phải thải bỏ, gây lãng phí tài nguyên. Trong khi đó, phải
nhập cao lanh đó chế biến với giá cao h
ơn 3 ÷ 4 lần so với giá xuất.
Khai thác cao lanh phát triển ở vùng Đông Nam Bộ và Lâm Đồng. Năm
1999, có gần chục cơ sở khai thác cao lanh ở các mỏ Đất Quốc, Chành Lưu, Lái
Thiêu thuộc Sông Bé, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, sản lượng của các mỏ này
đạt 375 ngàn tấn/năm.
Ngoài hai vùng trên, cao lanh còn được khai thác ở Lào Cai, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hoà, Lâm Đồng. Tổng sản lượng
khoảng trên 100 ngàn tấn/năm.
Sản lượng khai thác tự do trong dân chúng hàng năm c
ũng vào khoảng
500 ngàn tấn, tập trung ở Đồng Nai, Sông Bé, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú, Yên
Bái, Quảng Nam.
Riêng quặng kaolin - pyrophilit khai thác ở mỏ Tấn Mài - Quảng Ninh.
Đến năm 1994 đạt 27 ngàn tấn/năm. Từ năm 1997 trở lại đây, sản lượng tăng lên
tới 35 ÷ 50 ngàn tấn/năm, chủ yếu khai thác chọn lọc lấy quặng tốt để xuất khẩu
hoặc bán trong nước.
+ Quặng graphit: Nhu cầu sử dụ
ng graphit ở nước ta còn nhỏ, chủ yếu
chỉ để sản xuất pin và điện cực. Dự báo năm 2005, nhu cầu graphit trong nước
sẽ có thể vượt trên 5.000 tấn/năm.

Các mỏ đang khai thác - chế biến graphit là Mậu A - Yên Bái, Nậm Thi
(Lào Cai), Hưng Nhượng - Quảng Ngã1. Công nghệ khai thác được cơ giới hoá
bằng ôtô - máy xúc kết hợp thủ công chọn lựa trong khai thác để bóc đất đá vách
và đá kẹp như ở M
ậu A. Làm giàu quặng graphit bằng tuyển nổ1. Sản lượng
graphit các năm gần đây (1995 ÷ 1998) đạt từ 1.450 ÷ 1.850 tấn. Mỏ Nậm Thi
(Lào Cai) từ trước năm 1996 đó liên doanh với Công ty Paslsa (Australia).
Trong nước hiện chưa có công nghệ tuyển để đưa hàm lượng cacbon lên > 95%.

18
Việc khai thác graphit cần tính đến công nghệ tận thu các khoáng sản có ích đi
kèm để tăng thêm giá trị kinh tế.
+ Quặng Barit: Barit được khai thác từ năm 1939 ÷ 1942 ở khu núi chúa
Hà Bắc với 3.000 ÷ 4.000 tấn, năm 1965 ÷ 1978 xí nghiệp barium thuộc sở
Công nghiệp Bắc Giang khai thác barit được 9588 tấn, trung bình 685 tấn/năm.
Từ năm 1939 đến năm 1982, sản lượng nâng lên trung bình 2000 tấn/năm. Năm
1983 chuyển sang khai thác ở khu Làng Cao với sản l
ượng 2000 tấn/năm. Mỏ
Sơn Thành khai thác từ năm 1980 - 1981 với sản lượng 2.400 ÷ 2.600 tấn/năm,
tổng cộng đến năm 1996 đã khai thác 14.500 tấn.
Ngoài ra, từ năm 1989 đó tiến hành khai thác barit tại các mỏ Đại Từ (Bắc
Thái), Tân Trào (Tuyên Quang), sản lượng trung bình vài nghìn tấn/năm. Tính
tổng cộng từ thời Pháp thuộc đến nay đã khai thác khoảng 200.000 ngàn tấn
quặng barit, trong đó lượng khai thác năm 1954 được khoảng 100.000 ngàn tấ
n.
+ Quặng Pyrit: Hiện tại giá lưu huỳnh nguyên tố ngày càng giảm, vì vậy
từ nay đến 2010, không có kế hoạch đầu tư khai thác, chế biến quặng pyrit. Các
nhà máy hoá chất - supe phốt phát Lâm Thao, Long Thành, Thủ Đức đó và sẽ
không sử dụng pyrit để sản xuất axit sunfuric. Mỏ pyrit Giáp Lai đã đóng cửa.
Khi tổ hợp Đồng Sin Quyền Lào Cai đi vào sản xuất thì sản lượng axit sunfuric

của tổ hợp theo sẽ đạt trên 40 ngàn t
ấn/năm. Sản lượng tinh quặng lưu huỳnh có
S > 38% đạt khoảng 18 ngàn tấn/năm sẽ đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.
+ Quặng Bentonit: Bentonit được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp
của nền kinh tế quốc dân. Tuy vây, hiện tại sản lượng khai thác - chế biến còn rất
thấp. Theo niên giám thống kê 1998, sản lượng các năm chỉ đạt dưới 5.000 tấn.
Trong tương lai, việc sử dụng bentonit s
ẽ được mở rộng do nhu cầu làm
dung dịch khoan dầu khí, chất tẩy lọc trong công nghiệp và công nghệ lọc dầu.
Hiện tại, các lĩnh vực sản xuất chế biến thực phẩm (như làm bịa, nước chấm,…)
còn phải nhập ngoại bentonit chất lượng cao.
Công nghệ chế biến bentonit của Việt Nam chưa đạt được sản phẩm cao
cấp đáp ứng mọi yêu cầu c
ủa nền kinh tế quốc dân.
+ Khoáng sản làm vật liệu xây dựng: Ngành công nghiệpVLXD gồm hai
mảng: khai thác và chế biến trực tiếp tạo ra VLXD như đá xây dựng, cát vàng,

19
cát đen xây dựng, sỏi cuội xây dựng; khai thác, chế biến và nung luyện tạo ra
sản phẩm VLXD như đá làm xi măng, đá làm kính xây dựng.
Trước thời kỳ đổi mới, khai thác và chế biến TNKS làm VLXD đều có
trang bị kỹ thuật kém, chủ yếu làm thủ công, tỷ trọng thiết bị máy móc trong các
mỏ vật liệu chỉ đạt < 50% và phần lớn là không đồng bộ.
Từ năm 1986 việc khai thác và chế
biến tài nguyên làm VLXD bắt đầu
phát triển mạnh: từ chỗ khai thác TNKS làm VLXD thông dựng như xi măng,
gạch, Ngãi, đá, cát sỏi, vôi xây dựng,… đến nay chúng ta đó sản xuất được cả
các chủng loại VLXD cao cấp như gạch ceramic, gạch granit nhân tạo, sứ vệ
sinh, kính xây dựng, đá ốp lát,… Một số loại nguyên liệu và sản phẩm VLXD đó
được xuất khẩu ra nước ngoài như cát trắng, cát vàng, đá ốp lát, gạch Ngãi nung,

kính xây dựng, sứ vệ sinh, gạch ceramic và một số loại vật liệu trang trí hoàn
thiện khác.
- Đá vôi làm xi măng: Xi măng là chủng loại VLXD quan trọng nhất của
ngành xây dựng, do vậy việc khai thác và chế biến đá làm xi măng được quan
tâm số một của lĩnh vực xi măng.
- Đá vôi làm xi măng đòi hỏi hàm lượng: CaCO
3
≥ 96%; MgCO
3
≤ 1,5%.
Hiện nay, cả nước có 63 mỏ đá vôi với khả năng khai thác 16 ÷ 17 triệu
m
3
/năm để đảm bảo cho năng lực sản xuất 15,73 triệu tấn xi măng/năm. Trong
đó có 9 mỏ đá lớn với năng lực khai thác và chế biến 14 triệu m
3
/năm, phục vụ
cho 9 nhà máy xi măng lò quay (năng lực sản xuất 12,73 triệu tấn/năm) và 55
mỏ nhỏ năng lực khai thác 3 triệu m
3
đá/năm, phục vụ cho 55 nhà máy xi măng
lò đứng của địa phương là chủ yếu (năng lực sản xuất 30 triệu tấn/năm).
- Đá xây dựng và làm đường giao thông: Cho tới thời điểm 1997 cả nước
có khoảng 100 cơ sở khai thác, chế biến đá làm đường do cấp Trung ương và
tỉnh quản lý, nhưng chỉ có 28 xí nghiệp được đầu tư thiết bị hiện đại, trong
đó có
5 xí nghiệp liên doanh với nước ngoài và chiếm 1/3 sản lượng (52 triệu tấn), số
lượng còn lại do 70 xí nghiệp với thiết bị đã cũ của Liên Xô (cũ), Ba Lan và
khoảng 200 cơ sở khai thác của tư nhân (hoặc địa phương cấp huyện quản lý) sử
dụng máy nghiền loại nhỏ đảm nhận.


20
- Cát sỏi xây dựng: Trong tự nhiên cát và sỏi thường tồn tại xem lẫn
nhau. Những mỏ có nhiều sỏi, lắng đọng thành lớp ở dưới tầng cát, thì có
thể khai thác cát riêng, khai thác sỏi riêng. Hiện nay, khai thác cát tự
nhiên là chính vì có trữ lượng rất lớn. Còn sỏi thì đã có đá thay thế, nên
khai thác sỏi riêng chỉ khi có đủ điều kiện, còn lại chỉ là sàng lọc tận
dụng các loại sỏi ở trong cát.
Khai thác sỏi ở mi
ền Bắc đã được tiến hành ở Sông Lô bằng tàu cuốc sỏi,
mỗi năm vài chục ngàn khối, còn lại chủ yếu là lượng sỏi do tư nhân xúc chọn ở
các lòng suối cạn. Cả nước ước tính một vài triệu m
3
/năm.
Cát xây dựng, đặc biệt là cát đen, phân bố tương đối rộng dọc các triền
sông suố1. Năm 2001 cả nước đã khai thác 24,8 triệu m
3
cát vàng cho xây dựng
(chưa kể lượng cát cho ngành giao thông làm đường). Cát đen làm vữa xây và
để san lấp có số lượng lớn gấp 2 ÷ 4 lần số lượng cát vàng.
- Cát trắng (cát thủy tinh): Cát trắng ở Việt Nam dùng để sản xuất thủy
tinh có trữ lượng lớn, song loại có thành phần hóa học tốt nhất (không phải điều
chỉnh lại thành phần hóa học) có thể sản xuất được thủy tinh cao cấp là mỏ cát
trắng Vân Hải ở Miền Bắc và mỏ cát trắng ở Cam Ranh, Miền Trung.
- Đất sét phục vụ sản xuất xi măng: Đất sét là nguyên liệu cho sản xuất xi
măng chiếm khoảng 24% tổng số các nguyên liệu. Hiện nay có 64 mỏ sét được
khai thác phục vụ sản xuất xi măng. Các mỏ này có năng lực khai thác trên 7,65
triệu tấn/năm. Trong đó có 9 mỏ sét lớn phục vụ các nhà máy xi măng lò quay
với tổng nă
ng lực khai thác trên 5,76 triệu tấn/năm và 55 mỏ sét nhỏ phục vụ các

nhà máy xi măng lò đứng có tổng năng lực khai thác trên 1,35 triệu tấn/năm.
Theo nhu cầu sản xuất xi măng, các mỏ sét năm 2002 đã cung cấp đủ với khối
lượng đạt 9,313 triệu tấn sét.
- Đất sét làm gạch Ngãi nung: Gạch Ngãi nung là loại VLXD thông dụng
từ lâu đời và nhu cầu cho xây dựng các công trình công cộng và cho nhân dân
ngày càng phát triển, chỉ tính năm 2001 cả nước sản xu
ất được 8,471 tỷ viên
gạch và 467 triệu viên ngói và đã phải khai thác tổng cộng là 17,123 triệu m
3
đất
gạch ngó1.

21
- Cao lanh: Ở Việt Nam có tới 203 mỏ cao lanh lớn, nhỏ nhưng theo
thống kê hiện mới có 17 mỏ được cấp giấy phép hoạt động. Sản phẩm cao lanh
dùng làm sứ vệ sinh, gạch men sứ, sứ cách điện cung cấp cho ngành y tế và các
ngành khác.
- Sét chịu lửa: Chủ yếu được khai thác tại mỏ sét trắng Tuyên Quang và
mỏ sét trắng Trúc Thôn.
Mỏ sét trắng Tuyên Quang được khai thác từ năm 1931 và liên tục cho
đến nay. Tính đến năm 1996 mỏ đã bóc được 203.353 m
3
đất phủ và lấy được
385.897 tấn sét. Sản lượng sét hàng năm khai thác dao động từ 1217 tấn (1969)
đến 18.379 tấn (1988) đến 20.000 tấn (2000). Hệ số bóc đất dao động từ 0 ÷ 1,8
m
3
/tấn sản phẩm, trung bình 0,61 m
3
/tấn. Hiện tại, đã khai thác hết sét ở các khu

Tân Phủ, Gốc Si, Đầm Chàng, Ao Ấn, Nói Đá, Đường Hiên. Đầm Sen, Hưng
Kiều, Bắc Đầm Thắm. Trong những năm tới sẽ khai thác ở Bắc Đầm Sen, và
Nghiêm Sơn. Trữ lượng sét còn lại khoảng 730.000 tấn chất lượng có thể xấu
hơn.
Mỏ sét trắng Trúc Thôn được khai thác từ những năm 1965 đến nay để
cung cấp sét cho nhà máy gạch chịu l
ửa Cầu Đuống và khu gang thép Thái
Nguyên. Sản lượng của mỏ lên xuống thất thường: 1965 ÷ 1966 là 3.500
tấn/năm, năm 1973 chỉ đạt hơn 1.000 tấn, đến năm 1975 tăng lên 10.750 tấn sau
đã giảm dần đạt trung bình 3.200 ÷ 5.600 tấn/năm. Những năm sau này sản
lượng tăng nhanh 1.700 tấn (1993) và 16.000 tấn (1997). Tính đến 1992 mỏ đã
khai thác tổng cộng 132.445 tấn, bóc đất 373.356 m
3
. Trữ lượng còn lại hiện nay
8.338.890 tấn. Hệ số tổn thất tài nguyên của mỏ là 5%.
- Đá ốp lát: Hiện nay, sản xuất đá ốp lát của nước ta được tiến hành trên
15 tỉnh, thành phố, gồm 35 cơ sở với năng lực sản xuất đạt 1.260 ngàn m
2
.
Trong giai đoạn vừa qua, đã xuất khẩu đá ốp lát ra một số nước như: Nhật
Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Ả Rập Xêút, Canađa…, song với khối
lượng chưa nhiều do thiết bị sản xuất thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu
kỹ thuật của khách hàng.
+ Tình hìnhkhai thác than: Ở Việt Nam khai thác than là ngành sản xuất
có quy mô công nghiệp lớn nhất trong l
ĩnh vực khai thác khoáng sản và tập

22
trung chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh, ngoài ra khai thác than còn được tiến hành ở
một số tỉnh miền Bắc và miền Trung.

Trong giai đoạn 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng sản lượng khai
thác than dao động từ 7,1% đến 37%, trung bình 15% năm. Năm 2004, toàn
ngành than đã khai thác 27,3 triệu tấn than nguyên kha1. Trong khai thác than sử
dụng hai công nghệ là hầm lò và lộ thiên.
Đối với công nghệ khai thác lộ thiên, các thiết bị công nghệ
tương đối
đồng bộ và hiện đại, đạt được sản lượng cao. Hiện nay sản lượng than lộ thiên
chiếm khoảng 64% tổng sản lượng khai thác than.
Theo dự báo hiện nay, nhu cầu than thương phẩm cho nội địa và xuất
khẩu đến năm 2010 khoảng 39 ÷ 42 triệu tấn, 2015: 48 ÷ 51 triệu tấn và 2020:
53 ÷ 56 triệu tấn. Để đạt được mục tiêu và đáp ứng nhu cầu trên, ngành than
đang ti
ếp tục quy hoạch mở rộng các mỏ hiện đang khai thác và xây dựng các
mỏ mới theo hướng mở rộng tối đa biên giới các mỏ lộ thiên (cả chiều rộng lẫn
chiều sâu).
Tóm lại, bên cạnh công nghệ khai thác mỏ lộ thiên, khai thác mỏ hầm lò
là một hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản từ lòng đất thông qua hệ thống các
công trình ngầm như giếng nghiêng, giếng đứng, lò bằng, lò chợ, Nh
ững
phần trữ lượng khoáng sản phân bố nông gần mặt đất có thể khai thác bằng
phương pháp lộ thiên ngày càng cạn kiệt, trong khi nhu cầu sử dụng nguyên,
nhiên, vật liệu khoáng sản của các ngành trong nền kinh tế quốc dân thì ngày
một cao hơn, thực tế đó trở thành cơ hội để ngành khai thác mỏ hầm lò phát
triển và đóng góp. Bên cạnh những tác động tích cực như hàng năm đóng góp
vào GĐP gần hàng chụ
c ngàn tỷ đồng; tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao
động; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cũng như trình độ dân trí cho một số
cộng đồng dân cư, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa,… góp phần đẩy nhanh
tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, thì các tác động xấu của
KTHL tới môi trường cũng rất đáng kể: chiếm dụng đất đai canh tác và trồng

trọt dẫn đến thu h
ẹp thảm thực vật và làm thay đổi vi khí hậu; làm nhiễm bẩn
đất, nước ngầm, nước mặt của khu vực; xả bụi và khí độc hại vào không khí;

23
gây tổn thất tới tính đa dạng sinh học của hệ động thực vật; gây ra sự dịch động
và biến dạng đất đá xung quanh, dẫn đến những rủi ro và sự cố môi trường; nổ
khí mêtan, bục khí, bục nước mỏ gây thiệt hại người và tài sản ;
Như vậy, với những đặc điểm riêng về công nghệ khai thác, điều kiện làm
việc, khai thác khoáng s
ản theo phương thức hầm lò đã gây ra những tác động
đối với môi trường đặc trưng, khác so với các loại hình khai thác khoảng sản
khác và nó đòi hỏi phải có những giải pháp đối phó phù hợp.
Tình hình khai thác một số khoáng sản chính trong nước được giới thiệu ở
bảng 1.1.
Bảng 1.1- Sản lượng một số khoáng sản chính từ 2000-2007
Năm Than,
tr.tấn
Sắt,
ng.tấn
Titan,
ng.tấn
Đồng,
ng.tấn
Pb+Zn
ng.tấn
Bauxit
ng.tấn
Crôm
ng.tấn

Apatit
ng.tấn
ĐáXD
tr.m
3
Cát,
tr.m
3
2000 11,61 350 134,5 2,4 124 20,0 76,3 785,0 22,2 33,3
2001 13,40 500 - 1,6 161 19,7 70,3 677,0 30,9 36,9
2002 16,41 560 - 1,1 159 20,0 66,3 779,0 36,7 50,1
2003 19,31 730 354,3 1,2 213 22,0 91,0 821,0 53,2 53,2
2004 27,35 750 464,5 1,5 268 21,0 82,0 905,0 55,1 58,1
2005 34,09 950 404,9 90,0 276 25,8 5,7 1024,2 70,8 66,4
2006 38,78 1.200 437,4 804,8 283 28,6 3,4 1232,4 80,1 65,5
2007 43,19 1.540 487,0 978,0 - 28,8 2,8 1419,1 90,5 77,5
Nguồn : Niên giám thống kê Việt nam 2001-2007 và các báo cáo hàng năm TKV 2001-2007
1.3 Hiện trạng môi trường trên các mỏ hầm lò
Quá trình khai thác hầm lò xảy ra hầu hết ở mọi loại khoáng sản từ nhiều
năm nay, trước khi xuất hiện các Luật và văn bản pháp quy dưới luật về môi

24
trường. Những hậu quả để lại của khai thác hầm lò đối với môi trường nhìn
chung là nặng nề và khá trầm trọng. Dưới đây trình bày một số tình trạng cụ thể
về ô nhiễm môi trường gây ra do một số hoạt động khai thác hầm lò.
1.3.1 Hiện trạng môi trường trên các mỏ than
* Môi trường không khí
a) Bụi: ở tất cả các công đoạn sản xuất mỏ đều sinh ra bụ1.
- Khoan n
ổ mìn ở các mỏ hầm lò: Khi phá nổ 1m

3
đất đá tạo ra từ
0,0027
÷0,17kg bụ1. Ở khoảng cách gương lò khoảng 30-40m có hàm lượng bụi
từ 800
÷5000mg/m
3
, trong khi bình thường nồng độ bụi chỉ có 18,5 mg/m
3
.
- Việc tồn tại nhiều mỏ nhỏ, lộ vỉa (của các mỏ hầm lò), vận tải than bằng ô
tô qua khu vực dân cư đã gây ô nhiễm thêm về bụ1. Bụi sinh ra từ các hoạt động
quy mô nhỏ tuy ít, nhưng do nhiều cơ sở nên tổng lượng bụi và nồng độ bụi đủ
để gây tác hại và tàn phá môi trường. Theo các số liệu thống kê khai thác 1000
tấn than khai thác ở các mỏ hầm lò tạo 6
÷
10 kg bụ1.
Tổng lượng bụi sinh ra trong các công đoạn sản xuất chính (khai thác, vận
chuyển, sàng tuyển) năm 2007 với sản lượng than hầm lò chiếm 45% sản lựơng
toàn ngành, ước tính khoảnửơtên 300 tấn bụ1. Với tốc độ gia tăng sản lượng
than hàng năm trên 10%, tổng lượng bụi và nồng độ bụi chung của vùng than
Quảng Ninh cũng sẽ tăng nhanh theo thời gian và làm suy giảm chất lượng
không khí toàn vùng.
Nhữ
ng tác hại do bụi gây ra đối với môi trường vùng Quảng Ninh gồm:
- Tác hại về sức khoẻ: gây ra bệnh phổi và bệnh về đường hô hấp. Theo số
liệu thống kê, tỉnh Quảng Ninh hiện nay có khoảng 4000 người mắc bệnh phổi,
chiếm gần 50% con số toàn quốc. Tỷ lệ thợ lò bị bệnh silicosis chiếm tới 80%
tổng số công nhân ngành than bị bệnh này.
- Tác hại đến các công trình, máy móc và vật liệu: Do bụ

i có chứa các chất
hóa học, ăn mòn kim loại, làm xuống cấp chất lượng các công trình, máy móc,
nhất là trong điều kiện nước ta độ ẩm cao.

×