Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Vai trò của con người trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.33 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: VAI TRỊ CỦA CON NGƯỜI TRONG CƠNG CUỘC CƠNG
NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

GVHD:
SVTH:

Mã lớp học:

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2020


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….


……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….

Điểm: …………………………

KÝ TÊN


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................................................. 1
A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ............................................................................................................................. 1
I. Quan niệm về CNH-HĐH trên thế giới và ở Việt Nam......................................................................... 1
II. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................................................................. 3
1. Ý nghĩa trực tiếp của đề tài: .............................................................................................................. 3
2. Ý nghĩa của đề tài thơng qua q trình CNH-HĐH ở Việt Nam: ..................................................... 3
B. NỘI DUNG.............................................................................................................................................. 6
CHƯƠNG I: CON NGƯỜI VÀ CƠ SỞ ĐỀ TÀI, LÝ LUẬN, THỰC TIỄN .......................................... 6
1.Bản chất con người: ........................................................................................................................... 6
2.Cơ sở đề tài: ....................................................................................................................................... 9
3. Cơ sở lý luận triết học Mác- Lê nin ................................................................................................ 10
4. Cơ sở thực tiễn: ............................................................................................................................... 12
CHƯƠNG II: CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA HIỆN ĐẠI
HÓA ĐẤT NƯỚC .................................................................................................................................. 16
1. Khái niệm CNH – HĐH:................................................................................................................. 17
2.Những thành tựu đạt được trong quá trình CNH – HĐH đất nước: ................................................. 18
3.Nguyên nhân để Việt Nam thu được những thành tựu to lớn trong quá trình CNH - HĐH: ........... 21
4. Những mặt hạn chế, yếu kém trong quá trình CNH - HĐH: .......................................................... 22
5. Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém:.................................................................................... 26

6. Những bài học rút ra từ quá trình CNH – HĐH:............................................................................. 31
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................................................... 31
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................... 33


LỜI NÓI ĐẦU
Tại sao lại phải nghiên cứu về phạm trù con người và vấn đề về con người
trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước trong khi thế giới đã trải
qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vĩ đại và trên thế giới đã có rất nhiều,
rất nhiều nước đã trở thành những nước cơng nghiệp lớn. Phải chăng đó là vì cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá là phương thức duy nhất để phát triển nền kinh tế thế giới
và bất kỳ một quốc gia nào bỏ qua quá trình này đều sẽ trở nên quá chậm, quá lạc
hậu so với bước đi của thế giới? Và phải chăng giống như các quốc gia khác, Việt
Nam cũng khơng nằm ngồi quy luật chung đó? Nhưng quan trọng hơn cả, phải
chăng con người là chủ thể, là mấu chốt, là điểm khởi đầu cũng như là cái đích của
q trình lâu dài này?
Đúng là trên thực tế ở nhiều quốc gia cơng nghiệp hố, hiện đại hố đã tạo ra
nhiều thành tựu khoa học khơng thể phủ nhận được. Chẳng hạn việc sử dụng năng
lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời đã làm giảm sự phụ thuộc của con người vào
nguồn năng lượng khoáng sản; sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những
giúp con người giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên không tái sinh được mà
cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới có tính năng ưu việt hơn và tái sinh
được. Nhờ phát minh con người sử dụng nguồn vật liệu mới này mà con người đã
có thể thu nhỏ máy tính điện tử xuống hàng vạn lần về thể tích đồng thời tăng hiệu
năng của nó lên hàng chục vạn lần so với ba chục năm trước. Sự ra đời và xuất
hiện các loại vật liệu mới đang ngày càng trở thành nhân tố vô cùng quan trọng của
sự phát triển sức sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học cơng nghệ. Cùng với q trình
tự động hố, tiến bộ khoa học cơng nghệ cho thấy khả năng loài người sẽ tiến tới
một xã hội của cải tn ra dào dạt.
Cịn ở Việt Nam thì sao?

Cho đến nay,Việt Nam vẫn thuộc loại những nước nghèo nhất thế giới, nền
kinh tế vẫn ở tình trạng lạc hậu, cịn mang tính chất tự cấp, tự túc, đất nước chưa ra

1


khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định,
tình hình mất cân đối vẫn nghiêm trọng, bội chi ngân sách còn lớn, tốc độ tăng dân
số cao, lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày càng tăng (6,28% dân số
thành thị thất nghiệp), đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; tổng sản phẩm quốc
dân (GDP) tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới: 220USD năm 1993 và
428 USD năm 2001 thấp hơn Lào 1700USD, Bangladesh 1410USD, Thái Lan
5757USD, Malaysia 8513, Đài Loan 17495, tốc độ tăng bình quân chậm hơn nhiều
nước trong khu vực. Gắn liền với nền kinh tế đó là lối làm ăn tản mạn và tuỳ tiện
của sản xuất nhỏ. Cùng với những thuyền thống tốt đẹp mà chúng ta đang kế thừa
cũng có những truyền thống lạc hậu của người đã chết đang đè nặng lên vai người
đang sống... Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt để
đi lên và phát triển thì tất yếu phải thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
khoá VII (từ 24/11/1993 đến 1/12/1993) và Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ (20-25/1/1994) đã xác định tới đây nước ta “chuyển dần sang một thời kỳ phát
triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm tạo
thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn
nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm
quan trọng hàng đầu trong thời gian tới.”Chủ trương đó tiếp tục được hồn thiện và
có bước phát triển mới ở các Đại hội VII,VIII,IX và trong nhiều Nghị quyết quan
trọng của Trung ương. Song dựa vào đâu để đảm bảo việc thực hiện nó cho thật
hiệu quả và khơng phải trả giá q đắt thì lại khơng dễ dàng; bởi vì từ chỗ thấy
được tính tất yếu nếu không cẩn thận lại dễ sa vào duy ý chí như đã từng xảy ra
trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn, bất lợi, thiếu điều kiện rồi cam chịu

tụt hậu thì lại là một tai họa. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đã để lại cho thế
hệ tương lai một cái gánh quá nặng và sẽ có tội rất lớn đối với những ai đã hy sinh
xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc bảo vệ đất nước.
Nhưng nếu chỉ có như vậy thì tại sao lại phải đề cập đến vấn đề con người?
2


Liệu có phải con người đang giữ một vai trị gì đó trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước, và hơn thế nữa phải chăng đó là một vai trò quan trọng,
quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới này?
Trước hết có thể nói rằng xã hội loài người tồn tại và phát triển dựa vào hai
nguồn tài nguyên là: thiên nhiên và con người. Cái quý nhất trong nguồn tài
nguyên con người là trí tuệ. Theo quan niêm cổ điển, mọi nguồn tài nguyên thiên
nhiên đều có hạn và đều có thể bị khai thác cạn kiệt. Song, sự hiểu biết của con
người đã, đang và sẽ không bao giờ chịu dừng lại, nghĩa là nguồn tài ngun trí tuệ
khơng có giới hạn. Tính vơ tận của nguồn tiềm năng trí tuệ là nền tảng để con
người nhận thức tính vơ tận của thế giới vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn
tài nguyên thiên nhiên cịn vơ tận nhưng chưa được khai thác và sử dụng, phát hiện
ra những tính năng mới của những dạng tài nguyên đang sử dụng hoặc sáng tạo ra
những nguồn tài ngun mới vốn khơng có sẵn trong tự nhiên, nhằm phục vụ cho
sự phát triển của xã hội trong những điều kiện mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con
người là nguồn lực vơ tận của sự phát triển xã hội.
Đồng thời, nguồn lực phát triển của xã hội, trước hết và quan trọng hơn cả
cũng chính là con người- nguồn tiềm năng sức lao động. Con người đã làm nên
cũng chính là con người- nguồn tiềm năng sức lao động. Con người đã làm nên
lịch sử của chính mình bằng lao động được định hướng bởi trí tuệ đó. Ta đã biết
rằng, “tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt động đều tất nhiên phải thơng qua đầu
óc của họ”, tức là phải thơng qua trí tuệ của họ. Trước tiên, những nhu cầu về sinh
tồn đã thúc đẩy con người hoạt động theo bản năng như bất kỳ một động vật nào
khác. Nhưng rồi “bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con

người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình- đó là một bước tiến do
tổ chức cơ thể của con người quy định” . Sự khác biệt căn bản về mặt “tổ chức cơ
thể” giữa con người và con vật chính là bộ óc và đơi bàn tay. Bộ óc điều khiển đơi
bàn tay, nghĩa là bằng trí tuệ (bộ óc) và lao động (đôi bàn tay) con người đã tiến
hành hoạt động biến đổi tự nhiên làm nên lịch sử xã hội, đồng thời trong quá trình
3


đó đã biến đổi cả bản thân mình.
Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát minh
khoa học, những cơng nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn có sức mạnh áp đảo.
Những tư duy máy móc, trí tuệ nhân tạo... dù rộng lớn đến đâu, dù dưới hình thức
hồn hảo nhất cũng chỉ là một mảng cực nhỏ, một sự phản ánh rất tinh tế thế giới
nội tại của con người, chỉ là kết quả của quá trình phát triển khoa học kinh tế, của
hoạt động trí tuệ của con người. Mọi máy móc dù hồn thiện, dù thơng minh đến
đâu cũng chỉ là kẻ trung gian cho hoạt động của con người. Do đó con người ln
ln đã và vẫn là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động trong xã hội.
Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Mác
về vị trí vai trị khơng gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của
lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hố mà chúng ta đang từng bước thực hiện với những thành cơng bước đầu của
nó cũng ngày càng địi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức sâu sắc “những giá trị lớn
lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người”, thấy rõ vai trò của con người
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên thực tế và trong quan niệm của mỗi
chúng ta, con người ngày càng thể hiện rõ vai trò là “chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia”. Bởi vậy
để đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định hướng
XHCN và đưa sự nghiệp cách mạng lớn lao đó đến thành cơng ở một nước vẫn cịn
trong tình trạng lạc hậu như nước ta, chúng ta không thể không phát triển con
người Việt Nam, nâng cao đội ngũ những người lao động nước ta lên một tầm cao

chất lượng mới. Nhận định này đã được khẳng định trong nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cơng
cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố”. Nhận định này tiếp tục được khẳng định và
có bước phát triển mới ở Đại hội IX và nhiều Nghị quyết quan trọng của Trung
ương.
4


Một lần nữa ta có thể khẳng định tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng của
việc nghiên cứu đề tài này. Qua đó, triết học tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của
việc nghiên cứu đề tài này. Qua đó, triết học tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của
mình trong đời sống xã hội và trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành như thế nào, quy mơ và nhịp độ
của nó ra sao, điều đó một phần tuỳ thuộc vào sự đóng góp của triết học. Qua đó
nhóm đã chọn đề tài "Vai trị của con người trong q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hóa đất nước “

5


A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

I. Quan niệm về CNH-HĐH trên thế giới và ở Việt Nam
Trên thế giới, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây âu (ở các
nước Anh, Pháp, Đức...), ở Mỹ và ở Nhật. Khi đó, CNH được hiểu là quá trình
thay thế lao động thủ cơng bằng lao động sử dụng máy móc .Nhưng do tất cả mọi
khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm CNH nói riêng đều mang tính lịch sử
nghĩa là ln có sự thay đổi và phát triển cùng lịch sử của nền sản xuất xã hội, của
khoa học công nghệ .Vì vậy, hiện nay quan niệm về cơng nghiệp hố đã có sự thay

đổi so với trước rất nhiều. Ở Việt Nam do có sự kế thừa , chọn lọc những tri thức
văn minh của nhân loại và rút ra những bài học kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành
cơng nghiệp hố và thực tiễn cuộc cách mạng cơng nghiệp hoá Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới. Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ VII khoá VI và đại hội
đại biểu toàn quốc thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam xác định: “Cơng nghiệp hố là
q trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất và kinh doanh ,dịch
vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động cao ”
Khái niệm cơng nghiệp hố như vậy Đảng ta đã xác định rộng hơn những
quan điểm trước đó bao gồm tất cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và
quản lý kinh tế xã hội được sử dụng bằng các phương tiện tiên tiến hiện đại cùng
với kĩ thuật và công nghệ cao. Như vậy tư tưởng CNH khơng bó hẹp trong phạm vi
các trình độ lực lượng sản xuất đơn thuần, kĩ thuật đơn thuần để chuyển lao động
thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước,
CNH ở Việt Nam hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: CNH phải gắn liền với HĐH. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang
1


diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Một số nước phát triển đã
bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng
dụng những thành tựu khoa học và công nghệ, tiếp cận với kinh tế tri thức để hiện
đại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có khả năng nhảy vọt.
Thứ hai: CNH phải nằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. CNH
là tất yếu của các nước nhưng với mỗi nước mục tiêu và tính chất của CNH lại
khác. Ở nước ta, CNH nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ Nghĩa Xã Hội, tăng
cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thứ ba: CNH trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.

Điều này làm cho CNH trong giai đoạn hiện nay khác với CNH trong giai đoạn đổi
mới. Trong cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hố tập trung-hành chính, bao cấp,
CNH được thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh của nhà nước. Trong cơ chế kinh tế
hiện nay nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong q trình CNH. Nhưng
CNH khơng xuất phát từ chủ quan nhà nước, nó địi hỏi phải vận dụng các quy luật
khách quan mà trước hết là quy luật thị trường.
Thứ tư: CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh tồn cầu hố nền
kinh tế. Vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu
đối với nước ta hiện nay.
CNH trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chúng ta
biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ quốc tế. Cơng
nghiệp hố trong điều kiện”chiến lược” kinh tế mở cũng gây ra khơng ít những trở
ngại do những tác dụng tiêu cực của nền kinh tế thế giới, do trật tự của nền kinh tế
thế giới mà các nước tư bản phát triển thiết lập khơng có lợi cho các nước nghèo,
lạc hậu. Vì thế, CNH-HĐH phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền
kinh tế độc lập.

2


II. Ý nghĩa của đề tài
1. Ý nghĩa trực tiếp của đề tài:
Đối với quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam, đề tài có rất nhiều ý nghĩa và tác
dụng to lớn. Trong đó, một số ý nghĩa nổi bật của đề tài là:
Thứ nhất: Đề tài đã phân tích đánh giá chính xác thực trạng xây dựng CNHHĐH ở Việt Nam hiện nay. Đó là những đánh giá, phân tích về tiền đề thực hiện
CNH-HĐH ở nước ta, kết quả thành tựu cũng như những mặt hạn chế yếu kém
trong quá trình xây dựng CNH-HĐH đất nước. Thêm nữa đề tài đã làm rõ được
nguyên nhân dẫn tới thực trạng của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay . Mục đích của
việc này là nhằm hiểu rõ hơn về CNH-HĐH ở Việt Nam để từ đó có thể đưa ra
được các giải pháp làm thúc đẩy quá trình CNH-HĐH ở nước ta nhanh hơn.

Thứ hai: Với việc đề tài sử dụng quan điểm tồn diện để tìm ra các quan hệ
giữa CNH-HĐH với một số yếu tố như (lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ,
vốn lao động...). Từ đây, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về CNH-HĐH để có thể đưa
ra được các giải pháp có hiệu quả nhất cho CNH-HĐH nước ta.
Thứ ba: Đề tài đã đưa ra được một số giải pháp vĩ mô thúc đẩy quá trình
cơng nghiệp hố ở nước ta bằng cách sử dụng quan điểm phát triển để vạch ra con
đường phát triển.Tất cả các giải pháp trên đều được đặt trong điều kiện cụ thể của
đất nước ta và thế giới. Do khi đưa ra các giải pháp đề tài đã quán triệt sử dụng
quan điểm lịch sử.
Trên đây chỉ là ba ý nghĩa và tác dụng nổi bật của đề tài. Ngồi ra, đề tài
cịn một số ý nghĩa khác như: đã vận dụng được triết học Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào trong thực tiễn q trình CNH-HĐH ở Việt Nam.

2. Ý nghĩa của đề tài thông qua quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam:
Từ thập niên 60 của thế kỉ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã hiểu
được tác dụng của CNH-HĐH đối với nước ta rất to lớn. Trong đó nổi bật là:
3


CNH trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng kinh tế Xã Hội Chủ
Nghĩa. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải biến
một xã hội nông nghiệp thành một xã hội cơng nghiệp gắn với việc hình thành từng
bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới
Xã Hội Chủ Nghĩa.
Nước ta đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội với xuất phát điểm thấp, nền nơng nghiệp
lạc hậu, bình qn ruộng đất thấp, 80% dân cư sống ở nơng thơn có mức thu nhập
thấp, sức mua hạn chế. Vì vậy, quá trình CNH là quá trình tạo điều kiện vật chất kĩ
thuật cần thiết về con người và về khoa học công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng
tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống

văn hố cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.
Quá trình CNH tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực lượng sản
xuất nhờ đó nâng cao vai trò của người lao động-nhân tố trung tâm trong nền kinh
tế Xã Hội Chủ Nghĩa. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu công nghiệp hoá mang
lại là cơ sở để củng cố khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân, nông dân
và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Đặc biệt là góp
phần tăng cường quyền lực sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lí kinh tế của
nhà nước.
Sự nghiệp CNH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự nghiệp CNH đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển,
thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập
trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.

4


CNH khơng những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển
cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hố nền quốc
phịng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá kinh tế xã hội.

5


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CON NGƯỜI VÀ CƠ SỞ ĐỀ TÀI, LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
1.Bản chất con người:

Theo chủ nghĩa Mác - Lê nin, con người là khái niệm chỉ những cá nhân có
thể được điều chỉnh trong hệ thống tốt nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của
nó. Con người là sản phẩm của sự tiến bộ lâu dài từ tự nhiên và sinh vật. Do vậy
nhiều luật sinh vật cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư cách là
một người trước hết mọi người cũng phải ăn, phải uống. Điều đó giải thích vì sao
Mác cho rằng người có trước hết phải ăn, mặc định rồi mới làm chính.
Nhưng chỉ dừng lại ở một số tỉnh học của con người, thì khơng thể giải thích
được bản chất của con người. Khơng chỉ có “con người là tổng hịa các hệ thống xã
hội” mà thực hiện các điểm của Mác là một điểm toàn diện. Mác và Anghen nhiều
lần định lại điểm của những nhà triết học đi trước đó. Con người là một bộ phận
của tự nhiên, là một xã hội động, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem tự nhiên
của con người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích. Khơng cịn tự nhiên hồn tồn như ở
con vật đã được xã hội hóa. Mác: “Bản chất của con người không phải là một chủ
sở hữu cố định của cá nhân viết tay. Trong sự thực hiện của nó bản chất của con
người là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội ”con người là sự kết hợp giữa các
mặt tự nhiên và mặt xã hội, nên có nhiều lần so sánh con người với con vật, vì vậy
so sánh con người với những con vật có chức năng gần giống với con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hòa các hệ thống xã
hội” Mác hồn tồn khơng có ý kiến đóng vai trò của các yếu tố và đặc điểm sinh
học của con người, ông chỉ lập luận điểm đơn con giống như một phần của giới
hạn tự nhiên bỏ qua, không nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác định chất
lượng của con người trước hết ghi rõ cái chung, cái khơng thể thiếu và có tính chất
6


quyết định để con người trở thành một con người. Sau đó, khi nói đến “Sự hợp tác
định hướng về mặt sinh học”, Lenin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường
xuyên tác động và ảnh hưởng đến lớn đối với chất lượng và sự phát triển của con
người. Chính Lenin cũng khơng tán thành các điểm quan trọng để mọi người đều
nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự bình đẳng về sức mạnh và tài

năng thì đó là một điều khiển ngu xuẩn. Để thiết lập quá trình cho lịch sử phát triển
của bộ gen của con người là thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội,
Mác đã nói để lấy sự phát triển tồn diện của con người đo lường chung cho sự
phát triển của xã hội, Mác cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển được
sử dụng quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con
người và những công cụ lao động do con người tạo ra, sự việc phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội, tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội thông qua con
người chiếm lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng với tư cách là cơ sở
vật chất hoạt động của con người chính và xác định hệ thống giữa người với người
trong sản xuất. Sản xuất ngày càng phát triển tính chất xã hội hóa ngày càng tăng.
Việc tiến hành sản xuất bằng năng lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của
nền sản xuất do nó mang lại sẽ cần đến những người hồn tồn mới. Những người
có năng lực phát triển tồn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những
người mới, sẽ làm nên những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một
cách tồn diện năng lực phát triển của mình theo Mác "phát triển sản xuất vì sự
phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng
đồng xã hội và phát triển toàn diện là một hệ thống quá lớn để tăng thêm sản phẩm
xã hội" để sản xuất những người phát triển toàn diện hơn, Mác coi sự kết hợp chặt
chẽ giữa các nhà phát triển và phát triển con người là một trong những biện pháp
mạnh mẽ để cải tiến xã hội.
Con người không thể chỉ là chủ của hoạt động sản xuất vật chất là đầu tiên,
yếu tố đóng vai trị quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn thế nữa,
7


con người cịn đóng vai trị là chủ thể hoạt động của lịch sử. Thông qua hoạt động
sản xuất chật vật sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã hội lồi ngồi. Từ đó
quan niệm đó Mác quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có nghĩa
là sự phát triển phong phú chất lượng con người, coi như một thân mục tiêu. Bởi
vậy theo Mác nghĩa là lịch sử mục tiêu cao cả của xã hội phát triển là phát triển

toàn diện, nâng cao năng lực và giá trị con người, giải phóng con người, loại trừ
cuộc sống con người, con người được sống với đích thực cuộc sống. Và bước quan
trọng nhất trên con đường đó là giải phóng con người về mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát triển
lịch sử xã hội lồi người là vì con người, vì cuộc sống ngày càng tốt hơn cho con
người, phát triển con người tồn diện và giải phóng con người, nói theo Anghen là
người được đưa ra từ quốc vương của tất cả mọi người sáng tác của quốc vương,
người cuối cùng cũng là người tơn tại xã hội của chính mình, đồng thời cũng trở
thành chủ nhân của tự nhiên, chủ nhân bản thân. Đó là q trình mà nhân loại tự
tạo ra cho mình những điều kiện, những người có thể sử dụng chính mình để phát
triển tồn diện, tự làm và hài hòa cho mỗi người trong cộng đồng nhân loại tạo ra
cho con người năng lực làm chủ chương trình lịch sử của chính mình.
Quan niệm của hãng về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của
con người đo lường chung càng được định hướng trong bối cảnh lịch sử của xã hội
loài người. Ngày nay loài người sống trong tiền cảnh quốc tế đầy đủ các biến động,
cộng đồng thế giới có thể hiện hết sức mạnh ràng buộc đa dạng trong các định thức
phát triển của nó xã hội lồi người từ thời tiền sử đến nay bao giờ cũng là một hệ
thống tự nhiên nhất cũng là một hệ thống hết sức khỏe và chính vì sự đặc biệt đó
đã được tạo ra, nên tính khơng đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các
nước, các khu vực khác nhau. Đến lượt mình, tính khơng đồng đều của sự phát
triển lại hình thành nên một bức tranh có nhiều màu sắc về định hướng, thì mọi

8


người định hướng phát triển vẫn phải hướng tới văn bản giá trị của nó - tới sự phát
triển con người.
Xã hội bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp đó quan trọng là giai cấp đó có
phục tùng lịng dân hay không. Trải qua thời kỳ phát triển của xã hội loại người chỉ
có giai cấp vơ sản là cấp đáp ứng đầy đủ mọi quy định của cuộc sống và đó chính

là lý do tại sao nhãn lấy lại vô cấp sản xuất để nghiên cứu.Theo Mác, người vô sản
là người sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội hiện đại, nhưng lao động của họ lại
bị tha hóa, lao động từ chỗ gắn với họ nay trở nên lạ lẫm và quan trọng hơn chính
nó họ hash system, this state bất hợp lý cần phải được giải quyết. Với Mác, người
vô sản là người tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới, có sứ thần và hồn tồn
có khả năng giải phóng mình, giải phóng xã hội để xây dựng xã hội mới tốt đẹp
hơn. Theo Mác "đến xã hội cộng sản nghĩa, con người khơng có sự nghiệp, khơng
bị ràng buộc vào một nghề nghiệp nhất định. Họ có thể làm bất kỳ nghề nào nếu có
khả năng và thích thú, họ có quyền làm việc theo năng lực, hướng theo yêu cầu tuy
nhiên những ý muốn đó khơng xảy ra bởi vì cách mạng sản xuất chủ nghĩa không
diễn ra theo ý của họ. Nó khơng diễn ra đồng loạt trên tất cả các nước tư bản tiên
tiến, cịn lại nó diễn ra ở những nước xã hội chủ nghĩa là nước Nga (Liên Xô cũ)…
Một nước công nghiệp chưa phát triển, nông dân sử dụng số đơng vì thế. Vì vậy
quan niệm của ơng về con người khó có điều kiện được chứng minh.

2.Cơ sở đề tài:
Theo quan niệm cổ điển, mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều có hạn và
đều có thể bị khai thác cạn kiệt. Song, sự hiểu biết của con người đã, đang và sẽ
không bao giờ chịu dừng lại, nghĩa là nguồn tài ngun trí tuệ khơng có giới hạn.
Tính vơ tận của nguồn tiềm năng trí tuệ là nền tảng để con người nhận thức tính vô
tận của thế giới vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài nguyên thiên nhiên
9


cịn vơ tận nhưng chưa được khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính năng
mới của những dạng tài nguyên đang sử dụng hoặc sáng tạo ra những nguồn tài
ngun mới vốn khơng có sẵn trong tự nhiên, nhằm phục vụ cho sự phát triển của
xã hội trong những điều kiện mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn
lực vô tận của sự phát triển xã hội. Đồng thời, nguồn lực phát triển của xã hội,
trước hết và quan trọng hơn cả cũng chính là con người- nguồn tiềm năng sức lao

động. Con người đã làm nên lịch sử của chính mình bằng lao động được định
hướng bởi trí tuệ đó. Ta đã biết rằng, “tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt động
đều tất nhiên phải thơng qua đầu óc của họ”, tức là phải thơng qua trí tuệ của họ.
Trước tiên, những nhu cầu về sinh tồn đã thúc đẩy con người hoạt động theo bản
năng như bất kỳ một động vật nào khác. Nhưng rồi “bản thân con người bắt đầu tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình- đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định” .
Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát minh khoa
học, những cơng nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn có sức mạnh áp đảo.
Những tư duy máy móc, trí tuệ nhân tạo... dù rộng lớn đến đâu, dù dưới hình thức
hồn hảo nhất cũng chỉ là một mảng cực nhỏ, một sự phản ánh rất tinh tế thế giới
nội tại của con người, chỉ là kết quả của quá trình phát triển khoa học kinh tế, của
hoạt động trí tuệ của con người. Mọi máy móc dù hồn thiện, dù thơng minh đến
đâu cũng chỉ là kẻ trung gian cho hoạt động của con người. Do đó con người ln
ln đã và vẫn là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động trong xã hội.
3. Cơ sở lý luận triết học Mác- Lê nin
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của
thế giới từ trước đến nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài
khoa học của xã hội xưa và nay, đề tài con người là một trung tâm được các nhà
nghiên cứu đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã
10


hội học… Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và khơng ngừng
nghiên cứu về nó. Mỗi nghiên cứu lĩnh vực đó đều có ý nghĩa riêng vưói sự hiểu
biết và làm lợi cho con người.
Khi cập nhật vấn đề của các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con người là
gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn chính con
người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu vũ trụ, là

một thực thể nhỏ trong thế giới lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ. Con
người là vật cao quý nhất trong trời đất, là thể loại mn lồi. Chỉ sau thần
linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác định và phần linh hồn. Chủ
nghĩa duy tâm và tơn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy
định, chi phối mọi hoạt động của phần xác định, linh hồn con người tồn tại mãi
mãi. Chủ nghĩa, ngược lại họ cho rằng phần được xác định và chi phối phần linh
hồn, khơng có linh hồn nào là bất kỳ điều gì, và q trình nhận thức đó khơng
ngừng được phát hiện.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên
cơ sở khoa học tự nhiên được phục hồi và bắt đầu phát triển. Chủ sở hữu những
con người vận hành theo nghĩa như một cỗ máy vận hành theo một quy luật
cổ. Học nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết phục không thể biết được một mặt của
cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không của tơi, có thể cho
rằng cái tơi khơng có khả năng quá cảm giác của mình. Các nhà triết học thuộc một
chủ đề cao vai trò sáng tạo của người tính tốn, các mặt khác coi con người, các
mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm
triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Heghen đặc biệt quan
niệm con người là hiện thân của ý tưởng tuyệt đối là con người ý thức và làm điều
đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần Song Heghen cũng là
11


người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động động của đời sống tinh
thần mà phát hành theo quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá
nhân. Heghen đồng thời cũng nghiên cứu chất lượng quá các khái niệm cơ bản của
luật quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách phê bình siêu tự
nhiên, phi thường xác định trong triết học Heghen, ông quan niệm con người là sản
phẩm tự nhiên, có năng lực tự nhiên, là con người sinh học trực tiếp, phụ thuộc vào

hồn cảnh, ơng đã sử dụng thành công của khoa học tự nhiên để chứng minh mối
liên hệ không thể chia cắt tư duy với những quá trình diễn ra trong cơ thể con
người , song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng, thì phẩy lại thiết
lập trường chủ nghĩa duy tâm.
Tóm tắt lại: Các triết lý học nói trên đã đi đến các phương pháp luận xem xét
một phương pháp. Đó là kết quả của cơng việc đối hóa linh hồn thành tuyệt đối
tượng. Tự do ý thức và duy vật trực tiếp, tuyệt đối hóa phần xác định thành đối
tượng người dùng. Sinh học, tuy nhiên họ vẫn cịn nhiều chế độ, các khái niệm nói
trên đều khơng có chú thích đầy đủ đến chất lượng con người.
Sau này chủ nghĩa Mác thừa kế và khắc phục những người hạn chế đó, đồng
thời phát triển những quan niệm về con người có trong học thuyết triết học trước
đây để đi tới quan niệm về con người thực hiện, con người thực hiện cải tạo tự
nhiên và xã hội với tư cách là con người thực hiện. Con người vừa là sản phẩm của
tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ có thể cải tạo tự nhiên.
4. Cơ sở thực tiễn:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên thế
giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để lên mục tiêu "Xã hội
công bằng văn minh, dân giàu nước" cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là
12



×