Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Luận văn Thạc sĩ Đánh giá sự hài lòng của khách hàng cá nhân đối với dịch vụ tiền gửi tại các ngân hàng thương mại Việt Nam trên địa bàn TPHCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM



NGUYỄN THỊ BÍCH TUYỀN



ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN ĐỐI
VỚI DỊCH VỤ TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ





TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM



NGUYỄN THỊ BÍCH TUYỀN


ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN ĐỐI


VỚI DỊCH VỤ TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng
Mã số: 60340201


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỮU HUY NHỰT




TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Đánh giá sự hài lòng của khách hàng cá nhân đối với
dịch vụ tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam trên địa bàn TP.HCM” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


Người thực hiện luận văn


NGUYỄN THỊ BÍCH TUYỀN










MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2
PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3
Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 3
CẤU TRÚC LUẬN VĂN 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN TIỀN GỬI
CỦA KHCN TẠI CÁC NHTM VN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 5
1.1 Nguồn tiền gửi trong NHTM 5
1.1.1 Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM 5
1.1.2 Phân loại tiền gửi trong NHTM 9
1.2 Chất lượng dịch vụ 17




1.3 Sự hài lòng của khách hàng 20

1.3.1 Khái niệm về sự hài lòng của khách hàng 20
1.3.2 Phân loại sự hài lòng của khách hàng 21
1.3.3 Ý nghĩa của việc nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng 22
1.4 Thực trạng dịch vụ tiền gửi của KHCN tại các NHTM Việt Nam trên địa
bàn TP.HCM 23
1.4.1 Các sản phẩm dịch vụ tiền gửi KH cá nhân tại một số NHTM ở Việt Nam 23
1.4.2 Tình hình về huy động nguồn vốn tại một số NHTM VN trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh 24
1.4.3 Biến động lãi suất tiền gửi 27
1.5 Tóm lược một số nghiên cứu trước đây 29
1.5.1 Mô hình SERVQUAL (Parasuraman) 29
1.5.2 Ảnh hưởng của giá cả đến sự hài lòng của khách hàng 34
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
2.1 Mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng 36
2.1.1 Mô hình nghiên cứu 36
2.1.2 Các giả thuyết 37
2.1.3 Mô hình đo lường sự hài lòng của khách hàng 39 31
2.2 Thu thập dữ liệu 39
2.2.1 Dữ liệu sơ cấp 39
2.2.2 Dữ liệu thứ cấp 39




2.3 Thiết kế nghiên cứu 40
2.3.1 Nghiên cứu định tính 40
2.3.2 Nghiên cứu định luợng 43
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 48
3.1 Kiểm định mô hình nghiên cứu 48
3.1.1 Thông tin mẫu nghiên cứu 48

3.1.2 Phân tích độ tin cậy của thang đo 48
3.1.3 Phân tích nhân tố khám phá theo kết quả khảo sát 51
3.1.4 Phân tích hồi quy 54
3.2 Kết quả nghiên cứu 58
3.2.1 Giải thích phương trình hồi quy 58
3.2.2 Các nhân tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng 60
3.2.3 Đo lường sự hài lòng của khách hàng 60
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 61
4.1 Một số đề xuất nâng cao sự hài lòng của KHCN đối với dịch vụ tiền gửi tại
các NHTM VN trên địa bàn TP.HCM 61
4.1.1 Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ để mang lại giá trị cho KH 61
4.1.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả phục vụ của NHTM khu vực TP.HCM 62
4.1.3 Giải pháp về sự cảm thông 64
4.1.4 Đảm bảo tính cạnh tranh về lãi suất 65
4.1.5 Củng cố hình ảnh đẹp của NH trong lòng khách hàng 66




4.2 Một số kiến nghị của tác giả 67
4.2.1 Đối với NHNN 67
4.2.2 Đối với NHTM 70
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1 Quy mô nguồn vốn tiền gửi của KHCN tại các NHTM Việt Nam trên địa
bàn TP.HCM 26
Bảng 1.2 Mối quan hệ giữa mô hình gốc và mô hình hiệu chỉnh 31

Bảng 2.1: Thang đo các nhân tố tác động đến sự hài lòng của khách hàng 45
Bảng 3.1: Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha 50
Bảng 3.2: Kết quả phân tích nhân tố 53
Bảng 3.3: Kết quả phân tích hồi quy 56
Bảng 3.4: Bảng tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết 59
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1: Thống kê lãi suất huy động trung bình của các ngân hàng thương mại từ năm
2008 đến T7/2013 28
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu các nhân tô tác động đến sự hài lòng của KH 36
Hình 3.1: Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của KH 55
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NH: Ngân hàng
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng nhà nước
KH: Khách hàng
KHCN: Khách hàng cá nhân
TCTD: Tổ chức tín dụng
TMCP: Thương mại cổ phần
TP. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
VN: VIỆT NAM
1


LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội Việt Nam, hoạt động Ngân hàng
cũng đang ngày càng phát triển trong những năm gần đây. Trong thời kỳ hội nhập kinh
tế, bên cạnh các cơ hội trong việc mở rộng hoạt động và đẩy mạnh hợp tác quốc tế, các
ngân hàng trong nước cũng đứng trước những thách thức rất lớn đòi hỏi phải vượt qua

để có thể đứng vững và phát triển.
Trong các hoạt động ngân hàng, dịch vụ tiền gửi là một trong những hoạt động
quan trọng nhất của ngân hàng vì nó tạo ra nguồn vốn hoạt động cho ngân hàng. Bên
cạnh đó, với bản chất là một dịch vụ, sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ tiền
gửi sẽ giúp ích cho việc tạo dựng khách hàng trung thành, vốn rất cần thiết để duy trì
hoạt động thường xuyên của bất cứ ngân hàng nào. Từ sự hài lòng của mình đối với
sản phẩm hay dịch vụ của ngân hàng sẽ dẫn tới lòng trung thành của khách hàng đối
với ngân hàng. Số lượng khách hàng trung thành càng lớn sẽ giúp cho ngân hàng nâng
cao uy tín và tăng sức mạnh cạnh tranh với đối thủ trên thị trường.
Do đó, vấn đề đặt ra là các ngân hàng phải làm gì và làm thế nào để dịch vụ
tiền gửi đạt hiệu quả cao góp phần đáp ứng được nhu cầu về vốn huy động cho ngân
hàng, gây dựng niềm tin nơi khách hàng, đồng thời tạo ra lượng khách hàng trung
thành và góp phần nâng cao thương hiệu, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Qua quá
trình tìm hiểu và nhận định thực tế, tác giả nhận thấy việc nâng cao chất lượng của
dịch vụ tiền gửi để đạt được sự hài lòng của các khách hàng là một vấn đề quan trọng
mà hệ thống ngân hàng thương mại cần quan tâm và hoàn thiện hơn nữa trong thời
gian tới. Đề tài: “Đánh giá sự hài lòng của khách hàng cá nhân đối với dịch vụ tiền
gửi tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam, trên địa bàn TP.HCM” được thực hiện
nhằm mục đích nâng cao chất lượng dịch vụ tiền gửi cho các NHTM VN .

2


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
 Tìm hiểu về dịch vụ tiền gửi tại các NHTM.
 Xây dựng thang đo đánh giá sự hài lòng của KHCN về dịch vụ tiền gửi tại các
NHTM VN, trên địa bàn TP.HCM.
 Dựa trên việc phân tích đánh giá sự hài lòng của KHCN về dịch vụ tiền gửi để
đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ tiền gửi
tại các NHTM VN, trên địa bàn TP.HCM.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến dịch vụ tiền gửi tại các NHTM VN.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của KHCN đối với dịch vụ
tiền gửi tại các NHTM VN, trên địa bàn TP.HCM.
Cơ sở chọn lựa đối tượng nghiên cứu
Tác giả tiến hành nghiên cứu các đối tượng khách hàng cá nhân đang tiến hành
gửi tiền tiết kiệm tại các NHTM. Do lực lượng khách hàng cá nhân cung cấp một
lượng vốn ổn định so với các khách hàng doanh nghiệp và chiếm tỷ trọng khá lớn
trong cơ cấu huy động của các NHTM. Trong thời gian gần đây, do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam và tâm lý lo ngại về tình hình kinh tế mà các
khách hàng cá nhân có xu hướng đầu tư, tích trữ vàng và ngoại tệ. Vì vậy, làm thế
nào để nâng cao hiệu quả huy động vốn của các ngân hàng thương mại đối với các
khách hàng cá nhân càng trở lên cấp thiết hơn nữa.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Các KHCN đang gửi tiền tiết kiệm tại các NHTM trên địa bàn TP. Hồ Chí
Minh.
3


Thời gian: Nghiên cứu thực trạng về dịch vụ tiền gửi của KHCN tại các NHTM
VN – trên địa bàn TPHCM giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2012.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện thông qua 2 giai đoạn chính : (1) nghiên cứu bộ
được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng. Nghiên cứu định tính được tiến hành bằng cách thảo luận và trao đổi với lãnh
đạo/ nhân viên Ngân hàng với nội dung tập trung về vấn đề nghiên cứu sự hài lòng của
khách hàng, từ đó xây dựng ra thang đo nháp, nghiên cứu định lượng được thực hiện
tiếp theo sẽ thực hiện phỏng vấn khoảng 140 khách hàng theo cách lấy mẫu thuận tiện
nhằm phát hiện những sai sót các bảng câu hỏi và kiểm tra thang đo; (2) Giai đoạn 2 là
nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng tiến

hành ngay khi bảng câu hỏi được chỉnh sửa từ kết quả nghiên cứu sơ bộ (xem thêm
Phụ lục 1), nghiên cứu này nhằm thu thập, phân tích dữ liệu khảo sát, cũng như ước
lượng và kiểm định mô hình nghiên cứu.
Bảng câu hỏi do đối tượng tự trả lời là công cụ chính để thu thập dữ liệu. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu là những khách hàng cá nhân đang sử dụng dịch vụ tiền
gửi thuộc các NHTM (Techcombank, ACB, Eximbank, Vietinbank, Vietcombank …)
trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh, khu vực cạnh tranh gay gắt nhất hiện nay trên
cả nước về dịch vụ này. Do hạn chế về kinh phí nên đề tài sử dụng phương pháp chọn
mẫu phân tầng với kích cỡ mẫu nghiên cứu khoảng 495 khách hàng sử dụng dịch vụ
(xem mẫu nghiên cứu được phân tích trong Chương 2).
Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Sự hài lòng của khách hàng là yếu tố sống còn của ngân hàng, muốn tồn tại và
phát triển thì các ngân hàng thương mại bắt buộc phải không ngừng nâng cao mức độ
hài lòng của khách hàng đối với chất lượng dịch vụ hay sản phẩm mà ngân hàng cung
4


cấp. Chất lượng này phải được đánh giá bởi chính khách hàng chứ không phải thuần
túy bởi ngân hàng. Muốn vậy ngân hàng phải thường xuyên đo lường mức độ hài lòng
của khách hàng cũng như lý do mà khách hàng chọn giao dịch tại ngân hàng mình. Vì
thế, thang đo về Sự hài lòng của khách hàng sẽ giúp các ngân hàng thương mại xác
định các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng của khách hàng một cách đầy đủ và
chính xác hơn. Từ đó ngân hàng sẽ có những cách cải thiện thích hợp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của ngân hàng và giúp cho khách hàng luôn cảm thấy hài lòng mỗi
khi tìm đến ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở phục vụ cho việc triển khai các sản phẩm, và dịch
vụ mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng.Với việc phân tích các yếu tố liên quan đến
mức độ hài lòng của khách hàng, các NHTM sẽ hiểu rõ hơn về nhu cầu của khách hàng
cá nhân trên địa bàn TP. HCM phục vụ cho công tác nâng cao chất lượng của dịch vụ
tiền gửi của ngân hàng.

CẤU TRÚC LUẬN VĂN
- Chương 1: Cơ sở lý luận, thực trạng về nguồn tiền gởi của KHCN tại các
NHTM VN và các nghiên cứu trước đây- Nghiên cứu trình bày cơ
sở lý thuyết liên
quan đến các khái niệm nghiên cứu như : Nguồn tiền gửi trong NHTM, chất lượng
dịch vụ, giá
cả, sự hài lòng của khách hàng, thực trạng về nguồn tiền gửi của KHCN
tại các NHTM VN, mô hình nghiên cứu.
- Chương 2: Thiết kế nghiên cứu – Xây dựng mô hình phục vụ cho việc nghiên cứu
và đặt các giá thiết nghiên cứu, t
rình bày quy trình nghiên cứu.

- Chương 3: Kết quả nghiên cứu - Trình bày thông tin về mẫu khảo sát,
kiểm
định mô hình và đo lường các khái niệm nghiên cứu, phân tích đánh giá các
kết quả
có được.
- Chương 4: Giải pháp và kiến nghị- Đưa
ra các giải pháp ứng dụng thực tiễn.

5


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN TIỀN GỬI CỦA
KHCN TẠI CÁC NHTM VN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
1.1 Nguồn tiền gửi trong NHTM
1.1.1 Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của tiền gửi trong NHTM
Khái niệm
Thuở sơ khai (thế kỉ XVI - XVII), những nghiệp vụ đầu tiên mà các ngân hàng thực

hiện là lưu giữ bảo đảm các vật có giá (như tài sản bằng vàng, bạc) bởi vì trong giai đoạn
này công chúng rất lo ngại về tình trạng mất mát tài sản do an ninh hoặc chiến tranh.
Những nhà buôn cảm thấy an toàn khi để tài sản của họ ở ngân hàng hơn là mang theo bên
mình trên những chuyến đi trên biển. Người chủ bảo quản phải đảm bảo trả lại chính
những đồng tiền mà họ được chuyển giao để bảo quản. Tất nhiên trong những điều kiện
như vậy, người bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhân
bảo quản đó, và không thể thu lợi nhuận để có thể trả lợi tức cho người gửi tiền. Dần dần
xã hội phát triển đã tạo điều kiện mà người gửi tiền không yêu cầu phải trả lại chính những
đồng tiền mà họ gửi, mà chỉ yêu cầu trả lại tổng số tiền mà họ gửi. Thời hạn bảo quản cũng
kéo dài thêm. Chỉ khi đó mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền vay mượn đó để cấp tín
dụng thu lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Nếu như trước đó việc cấp tín dụng dựa vào
vốn tự có, thì bây giờ còn có thể sử dụng vốn vay mượn, đồng thời phải chú ý tới những
điều kiện gửi tiền.Thông thường người ta xem tiền gửi là các số tiền do khách hàng gửi
vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Hiểu như thế chưa trọn nghĩa :
 Đối với người gửi tiền, ý nghĩa tiền gửi phụ thuộc vào mục đích gửi của họ. Có thể
dễ dàng nhận ra hai trường hợp sau: Thứ nhất là khách hàng mở tài khoản để hưởng các lợi
ích từ các công cụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp cho họ. Thứ hai là khách hàng gửi
tiền vào để hưởng lãi như gửi vào tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản định kì. Nhưng đổi
lại, họ không thể sử dụng các công cụ thanh toán của ngân hàng như séc chng hạn.
6


 Đối với ngân hàng, cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng
đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan
trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng – một qu sinh lợi được gửi tại ngân
hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức
lãi suất tương đối cao. Như vậy các loại tiền gửi đã tạo thành nguồn vốn cung cấp cho các
nghiệp vụ sinh lợi trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với NHTM, có hai
nguồn tiền gửi chủ yếu là : tiền gửi của doanh nhân và tiền gửi của dân cư.
Qua những điều trình bày ở trên, người ta nhận thấy có khó khăn trong việc định

nghĩa “tiền gửi”. ở các nước phát triển, người ta định nghĩa “tiền gửi” trong một bản luật:
“Được coi là tiền gửi, tiền mà ngân hàng nhận được của khách hàng bất luận dưới danh từ
nào, dù phải trả lãi hay không trả lãi, với quyền sử dụng tiền đó cho hoạt động kinh doanh
của mình và với bổn phận làm nghiệp vụ ngân qu cho người ký gửi, nhất là phải trả trong
giới hạn số tiền nhận được, tất cả những lệnh phải trả tiền của người tiền gửi bằng séc,
lệnh chuyển khoản, thư tín dụng… hay bất cứ bằng cách nào khác; cũng thâu nhập vào
khoản tiền gửi mọi số tiền mà ngân hàng thu hộ cho người gửi”. “Tiền gửi là số tiền của
khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không
hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”. Tiền gửi của khách hàng là nguồn
tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của NH.
Như vậy, các khái niệm về tiền gửi theo quy định pháp lý nêu trên có mối liên
quan mật thiết với tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Người gửi tiền có thể lựa chọn
các loại hình tiền gửi theo mục đích của họ và được hưởng các dịch vụ do ngân hàng cung
cấp, được hưởng lãi suất. Đồng thời có nghĩa vụ để ngân hàng sử dụng các số tiền gửi đó
cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào ngày đáo
hạn (đối với tài khoản có kì hạn ) hoặc theo yêu cầu của khách hàng (đối với tài khoản
không kì hạn). Ngày nay, khách hàng có nhiều cách gửi tiền và có thể làm cho tài sản bằng
tiền sinh ra lãi theo các dự đoán và tính toán của chính họ.
Đặc điểm
7


Tiền gửi phải được thanh toán khi có sự yêu cầu của khách hàng, ngay cả khi đó
là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn. Hoạt động nhận tiền gửi được nhìn nhận như là một
nghiệp vụ kinh doanh của NHTM, với nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng
thông qua mở cho khách hàng một tài khoản như tài khoản gửi định kì (tiền gửi có kỳ hạn),
tài khoản tiền gửi hoạt kỳ (tiền gửi không kỳ hạn) và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Giao
dịch nhận tiền gửi của NH được hiểu là cam kết song phương giữa NHTM với khách hàng
gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi. Giai đoạn đầu, nó chỉ đơn

thuần là một hợp đồng dịch vụ gửi giữ tài sản, theo đó NH đóng vai trò là bên nhận gửi giữ
để được nhận thù lao. Về sau, do nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế, giữa NH và
khách hàng có thêm thoả thuận NH có thể sử dụng chính số tiền này để đầu tư nhằm mục
đích sinh lợi, với điều kiện là phải hoàn trả cho người sử dụng tòan bộ số vốn đã sử dụng
kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tuỳ thuộc vào thời gian mà NH giữ khoản tiền đó.
Giao dịch nhận tiền gửi đã được nhìn nhận là hành vi vay tiền từ công chúng với cam kết
đảm bảo an toàn cho số tiền gửi đó cùng với nghĩa vụ hoàn trả cả lãi và gốc. Việc NH giữ
các khoản tiền gửi này cho khách hàng không đơn thuần là một nghiệp vụ giữ hộ tài sản
hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận thù lao (như giai đoạn khởi thuỷ) mà quan
trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn - nghiệp vụ đi vay của NHTM từ nền kinh tế. Do
đó khi người gửi tiền yêu cầu thanh toán thì NH buộc phải thực hiện nghĩa vụ như đã cam
kết trong hợp đồng.
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác.Thông thường chiếm hơn 50%
tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng.“Tiền gửi là nền tảng
cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên Bảng
cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là
cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự
phát triển trong ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao
hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này.
Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ
ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ
8


của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số
nhân tiền tệ. Chính vì thế nên chi phí tiền gửi cao hơn trả lãi cho tiền gửi. Khi huy động
tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm
bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Hiện nay, hầu hết
các nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong việc

định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng.
Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định
trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả
lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện
nay, sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịch vụ tài chính càng làm cho
vấn đề nêu trên trở nên phức tạp hơn bởi vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi
tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay.
1.1.1.2 Vai trò của tiền gửi trong NHTM
Các khách hàng doanh nghiệp thông qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung
ứng các dịch vụ về ngân qu, thu chi tài vụ một cách nhanh chóng và an toàn. Những
nghiệp vụ này nếu tự khách hàng đứng ra đảm trách sẽ tốn rất nhiều công sức và thời gian.
Về phía ngân hàng, qua nghiệp vụ này, cũng thu hút được một số lượng tiền gửi của khách
hàng trên tài khoản và một lệ phí nhất định.
Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi tiền tại
ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một số séc để thuận tiện chi trả, còn
được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh lời. Trong nền
kinh tế thị trường, một công dân muốn tích lu vốn trước hết có hai khả năng lựa chọn:
hoặc giữ đồng tiền tích lu được của mình trong két sắt, hoặc mua cổ phần (của các công
ty cổ phần) hay mua trái phiếu (của nhà nước và của công ty). Cả hai khả năng này đều có
rủi ro hoặc ít khả năng thanh toán. Do đó, họ phải có cách lựa chọn thứ ba: gửi tiền vào
ngân hàng để vừa giữ được vốn tích lũy của mình tương đối an toàn, vừa thu được một
khoản lợi tức nhất định.
Đối với các NHTM, tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của
Ngân hàng, là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng
9


với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính cho các khoản cho vay của
NHTM, là nguồn gốc xâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng. Khi huy động
tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm

bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Khả năng huy
động tiền gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan trọng đánh giá tính hiệu
quả trong quản lý ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn thu được một khoản lệ phí nhất
định.
1.1.2 Phân loại tiền gửi trong Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Tiền gửi phi giao dịch
Tiền gửi có kì hạn
Các tài khoản này chủ yếu được tượng trưng bằng chứng chỉ tiền gửi (certificates of
deposits – CDs) và được ghi rõ cả thời gian đến hạn và số lượng. Việc rút tiền trước sẽ bị
phạt tiền và có thể vượt quá tiền lãi được hưởng, tính đến ngày rút tiền.
Là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng mà có sự thỏa thuận về thời gian rút
tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, về nguyên tắc, khách hàng gửi tiền chỉ được
rút tiền ra, khi đến hạn đã thỏa thuận. Thực ra, các loại tiền gửi định kỳ này không phải là
những tiền gửi theo nghĩa của pháp lý, mà nó có dạng như một khoản tiền vay của ngân
hàng nhưng không thể hiện bằng một phiếu khoán. Nó là một ngoại lệ của quy tắc khả
dụng, bởi vì ngân hàng chỉ phải hoàn lại số tiền tiền gửi vào ngày đáo hạn ghi trên hợp
đồng. Tiền gửi có kỳ hạn có những đặc điểm sau:
Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các loại tiền gửi có
kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian càng lâu,
lãi suất sẽ càng lớn bởi vì ngân hàng hoàn toàn có thể dùng tiền gửi này đem đầu tư vào
những dịch vụ hoặc sản xuất có tính lâu dài hơn, lợi tức cao và ổn định hơn; Lãi suất mà
ngân hàng trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường là cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn.
Lý do ở đây là, ngân hàng hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay
với thời hạn ổn định và sẽ kiếm được nhiều ợi nhuận hơn. Vì thế tiền thù lao nó trả cho
khách hàng cũng phải cao hơn để kích thích sự gửi tiền nhiều nữa.
10


Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, những người giàu có và các doanh nghiệp được
cung cấp tài khoản gửi kì hạn xác định ( thường kéo dài 30,60,90 hay 180 ngày). Gần đây,

tiền gửi kì hạn được phát hành với lãi suất thay đổi định kì ( thường là 90 ngày ). Tiền gửi
loại này có kì hạn tối thiểu là 7 ngày và không được rút trước thời hạn. Tiền gửi kì hạn này
rất đa dạng về chủng loại, từ chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng ( Negotiable CDs)
tới tiền gửi giáng sinh, tiền gửi cho đi nghỉ… Chứng chỉ tiền gửi (CDs) được phân thành 2
loại : loại có thể chuyển nhượng ( có thể được trao đổi trước khi mãn hạn) - chứng chỉ có
mệnh giá trên 100.000USD thường được các doanh nghiệp và người giàu mua bán và loại
không thể chuyển nhượng ( không thể được mua bán trước ngày mãn hạn) thường được cá
nhân mua ( theo Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S. Rose). Tên gọi "có kỳ hạn" có
nghĩa là khoản tiền được gửi sẽ có thời gian gửi tối thiểu theo thỏa thuận giữa ngân hàng
và thân chủ, và không được rút ra trước hạn kỳ đã định nói trên. Nếu vì lý do đặc biệt phải
rút tiền ra trước hạn kỳ, NHTM có một trong ba cách xử lý: 1) Từ chối. Họ đã từng có
quyền làm như vậy trước đây, bởi vì việc gửi tiền của khách hàng là một hợp đồng cho vay
với thời hạn đã thống nhất. Khi khách hàng đòi lại trước thời hạn, điều đó sẽ gây thiệt hại
cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, thông thường ngân hàng áp dụng hai
cách mềm dẻo hơn, là 2) yêu cầu khách hàng phải báo trước, ít nhất một khoảng thời gian
nào đó về ý định rút tiền và 3) với những yêu cầu rút tiền đột xuất như vậy, khoản lãi suất
mà ngân hàng trả cho tiền gửi của khách hàng sẽ rất thấp, do khách hàng phải chịu lãi suất
phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay do áp lực của cạnh tranh, ngân hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn với
điều kiện hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, hoặc ngân hàng có thể cho vay bằng cách
mở một tài khoản đặc biệt cho việc này trong giới hạn số dư tài khoản tiền gửi định kỳ của
khách hàng.
Khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán), tiền gửi định kỳ là tiền tạm
thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân. Vì vậy mục đích gửi tiền vào ngân
hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Tiền gửi có kỳ hạn thường phụ thuộc vào ba thông số
chính: 1) Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp, 2) lãi suất của các loại hình đầu tư khác
như trái phiếu, cổ phiếu và 3) thu nhập của nhân dân.
11



Tiền gửi có kỳ hạn thường dưới các dạng:
a) Các chứng chỉ tiền gửi (Certificate of depoits – CD).
b) Chứng thư tiết kiệm (savings certificates).
c) Trái phiếu tiết kiệm
d) Ngoài ra còn có : Tài khoản hưu trí cá nhân ( Individual Retirement Account _
IRA ra đời 1986) và tiền gửi hưu trí có tên “Keogh plan” ra đời năm 1962. Ưu điểm mạnh
nhất của loại tài khoản này đối với ngân hàng là tính ổn định cao, ngân hàng có thể nhận
được những khoản vốn có kì hạn kéo dài vài năm.
Tiền gửi tiết kiệm
Được lập ra để thu hút vốn của những người muốn dành riêng một khoản tiền cho
những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính được dự tính trong tương lai. Lãi suất áp
dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch. Trong khi chi phí trả lãi
cao, chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiết kiệm nói chung thấp.
Một khoản ký thác dưới hình thức tiết kiệm rất đa dạng và phổ biến trong nền
kinh tế được NHTM huy động là các khoản tiền tiết kiệm trong xã hội, loại ký thác này có
dặc điểm: người gửi tham gia gửi tiền vào ngân hàng rất dông, nhưng số tiền gửi từng lần
thường ít, về số lượng tuyệt đối lại rất lớn, chiếm tỷ trọng rất quan trọng trong cơ cấu vốn
ký thác huy động được. Thông thường có 2 loại : Có kì hạn và không có kì hạn. Hình thức
chủ yếu gồm :
a) Tiết kiệm lập sổ ( pass-book savings) : được cung cấp cho khách hàng là gia
đình với giá trị nhỏ ( số dư mở tài khoản tiết kiệm tối thiểu là 5 USD) và có đặc quyền rút
vốn không bị hạn chế. Mặc dù theo luật, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng thông báo
trước về những lệnh rút tiền từ tài khoản tiết kiệm thấp và đồng tiền gửi loại này nói chung
có xu hướng ổn định, ít nhạy cảm với những thay đổi trong lãi suất. Doanh nghiệp, cá
nhân, các tổ chức phi lợi nhuận và các cơ quan Chính phủ cũng có thể sử dụng tài khoản
tiết kiệm nhưng giới hạn quy mô tiền gửi tối đa là 150.000 USD.
12


b) Tiết kiệm thông báo ( statement savings deposits ): trong đó thông qua việc

truy cập trên máy vi tính, khách hàng sẽ nhận được các bản thống kê thể hiện số tiền gửi,
lệnh rút tiền, lãi và số dư tài khoản hàng tháng.
Nguồn vốn từ loại tiết kiệm không kỳ hạn có lãi suất thấp, làm cho lãi suất đầu
vào của ngân hàng rất thấp và rất có lợi khi cho vay.Việc điều hành các tài khoản này, tại
phần lớn các nước được qui định như sau: Các sổ tiết kiệm chỉ được mở cho các thể nhân
và chỉ mở một sổ cho mỗi người. Người gửi tiền, khi mở sổ tiết kiệm, phải cam đoan chưa
mở một tài khoản tiết kiệm nào ở một ngân hàng khác.
Các nghiệp vụ cho phép thực hiện được hạn chế tối đa: chỉ có thể gửi tiền mặt và
chỉ có chủ tài khoản mới được rút tiền, không cấp lập sec.
Các nghiệp vụ thực hiện phải chẵn số, nghĩa là phải là bội số của l00đ hay l000đ
chng hạn.
1.1.2.2 Tiền gửi giao dịch
Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là
nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân
hàng phải thanh toán ngay lập tức các lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ba,
được chỉ rõ là người thụ hưởng. Tiền gửi giao dịch bao gồm tiền gửi giao dịch không
hưởng lãi thông thường và tiền gửi giao dịch hưởng lãi.
Tiền gửi giao dịch không hưởng lãi
Kể từ khi đạo luật Glass – Steagall được thông qua năm 1933, các ngân hàng M
không được phép chi trả lãi đối với các tài khoản phát séc thông thường. Quốc hội M lúc
đó lo ngại rằng chi trả lãi cho tiền gửi giao dịch sẽ gây nguy hiểm cho sự an toàn của ngân
hàng - một luận điểm mà sau này các nhà nghiên cứu thấy rằng không có cơ sở vững chắc.
Tuy nhiên tiền gửi giao dịch là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân
hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi giao dịch có thể huy động. Đồng thời kỳ hạn
tiềm năng của tiền gửi giao dịch là ngắn nhất bởi vì nó có thể rút ra mà không cần báo
13


trước. Phần lớn tiền gửi giao dịch không ảnh hưởng lãi do các hãng kinh doanh nắm giữ.
Tuy nhiên ngày nay rất nhiều khách hàng đã chuyển sang các loại hình tiền gửi phát séc có

hưởng lãi khác.
Tiền gửi giao dịch hưởng lãi (chủ yếu là các loại tiền gửi không kì hạn)
Là các loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc khả dụng, nghĩa là người gửi có quyền rút
tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sẽ sắp xếp loại tiền gửi này vào nhóm tiền gửi
không kỳ hạn, nghĩa là các khoản gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi
tiền vào sáng nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều cùng ngày. Nếu không
có nhu cầu sử dụng, anh ta có thể một thời gian sau mới rút ra. Tính bất định về thời gian
gửi, cùng với địa điểm có thể rút ra bất cư lúc nào đã làm cho loại tiền gửi này có tên gọi
theo tiếng Anh là tiền gửi theo yêu cầu.Tiền gửi không kỳ hạn vào mỗi thời điểm trong các
tài khoản không kỳ hạn của các NHTM tạo khả năng có thể viết séc để chi tiền hoặc
chuyển nhượng khi cần. Vì vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền trong tài khoản
séc (checking accounts). Khách hàng không có ý định để dành và cũng không chú trọng
đến tiền lãi. Khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền tệ này bằng một hình thức tiền tệ
khác và thích thanh toán bằng séc hơn là bằng tiền mặt. Khả năng tiện lợi của tiền gửi
không kỳ hạn trong thanh toán phụ thuộc vào tổ chức và hoạt động của NHTM đã phát
hành ra nó. Nếu gửi tiền vào tài khoản này ở một NHTM có chi nhánh ở khắp nơi trên lãnh
thổ kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, thì séc do chủ tài khoản viết ra có hiệu lực
thanh toán và được chấp nhận nhanh chng kém gì tiền mặt. Đó là lý do để tiền gửi không
kỳ hạn được xem là loại hình gần tiền mặt nhất trong tất cả các loại tiền của NHTM. Khả
năng chuyển đổi từ nó sang tiền mặt là nhanh nhất vào bất cứ lúc nào và vì thế ở các nước
phát triển, người ta xem nó như là một loại tiền mạnh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng mà chúng
ta gửi tiền vào có quá ít chi nhánh hoặc không quan hệ tốt với các ngân hàng khác, séc của
nó do chúng ta viết ra được chấp nhận trong thanh toán ở vùng này, nhưng chưa chắc đã
được chấp nhận ở các vùng khác. Có lẽ vì lý do này mà ở các nước mới phát triển, tiền séc
vẫn chưa được xem là tiền mạnh.
Tiền gửi loại này có thể phát xuất từ khách hàng là một thương nhân hay từ một
công dân bình thường. Việc phân biệt giữa các tài khoản vãng lai (current account) mở
14



cho thương nhân và các tài khoản sec (checking account) mở cho công dân rất cần thiết
cho ngân hàng không những về mặt pháp lý mà cả về mặt k thuật. Khoản tiền khách hàng
gửi vào thực chất là một khoản khách hàng cho ngân hàng vay. Ngân hàng sẽ phải trả lãi
cho khách hàng hàng tháng mặc dù rất thấp. Do đó, đối với ngân hàng nó là một khoản nợ,
khoản nợ này sẽ được trả theo nhu cầu của người gửi. Xã hội càng phát triển càng có tính
đa dạng. Và vì thế, ở các nước phát triển, sự tồn tại nhiều loại tiền gửi không kỳ hạn để
thỏa mãn tất cả những nhu cầu đa dạng của xã hội, của cá nhân là điều tất nhiên. ở các
nước này, tiền gửi không kỳ hạn bao gồm:
a) Tiền gửi dùng séc (đã được trình bày ở trên) (checking deposits).
b) Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng (ordinary deposits) thực hiện
qua máy rút tiền (cash dispensers) máy nhận rút và chuyển tiền tự động (automatic teller
machine máy ATM).
c) Tài khoản ATS (automatic transfer service account) tài khoản phối hợp tài
khoản tiết kiệm và tài khoản séc ở M.
d) Tiền gửi có thông tri (deposits at notice), tiền gửi hẹn rút (deposits at call) hay
tiền gửi có báo trước : là loại tiền gửi không có qui định một kỳ hạn nào, nhưng các bên có
thỏa thuận việc thông báo trước (từ 8 đến 5 ngày)
Có nhiều ngân hàng đã dung hợp hai lối tiền gửi có kỳ hạn và báo trước. Khách
hàng lúc gửi tiền ấn định một kỳ hạn, nhưng gặp khi cần tiền có thể rút tiền trước kỳ hạn
miễn là báo trước mấy ngày hoặc một tuần, tùy theo số tiền lớn hay nhỏ.
e) Tài khoản NOW – negotiable order of withdrawal – tài khoản lệnh rút tiền có
thể thương lượng : ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỉ 20, sự kết hợp giữa tiền gửi
giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm. Đây là tài khoản giao dịch được hưởng lãi,
do đó nó cho phép Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do
đòi hỏi này ít khi được thực hiện nên NOW được sử dụng như là một tài khoản phát séc để
chi trả cho việc mua hàng hóa và dịch vụ .Từ năm 1981, NOW được chấp nhận rộng rãi
trên toàn nước M theo Luật về Phi quản lý hoá.Các tổ chức nhận tiền gửi (Depository
Institutions Deregulation Act of 1980). Tuy nhiên loại tài khoản này chỉ có thể được nắm
15



giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận (nonprofit institutions). Khi NOW được chấp
nhận trên toàn nước M, chính phủ M cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ chuyển
vốn tự động, trong đó khách hàng uỷ quyền trước (preauthorize) cho ngân hàng trong việc
chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản séc đền bù đắp thấu chi (overdraft). Kết
quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu
được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
f) Tài khoản MMDA và tài khoản Super NOW : Việc thông qua đạo luật về các tổ
chức nhận tiền gửi Garn-St Germain năm 1982, hai loại hình tài khoản giao dịch hưởng lãi
quan trọng đã ra đời. Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm phi ngân hàng có thể đưa ra một
loại hình tiền gửi mới để cạnh tranh với tài khoản đầu tư chứng khoán có lãi suất cao hơn,
được cung cấp bởi các qu trên thị trường tiền tệ và được bảo đảm bằng khoản danh mục
đầu tư chứng khoán có chất lượng cao. Kết quả là đưa tới sự ra đời của tài khoản tiền gửi
trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản Super NOW.
MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần hay vài
tháng và Ngân hàng có thể trả lãi suất ở mức đủ lớn để thu hút và nắm giữ tiền gửi của
khách hàng. Có tới sáu hối phiếu uỷ quyền trước được phép thực hiện trong một tháng
nhưng số lượng séc phát hành chỉ được giới hạn là 3 lần. Đối với lệnh rút tiền cá nhân thì
không có hạn chế (mặc dù ngân hàng có quyền đặt mức tối đa cho quy mô tiền rút và cho
số lượng lệnh rút tiền cá nhân). Không như NOW, MMDA có thể được nắm giữ bởi cả
doanh nghiệp và cá nhân.
Super NOW (SNOW) ra đời gần như cùng thời gian với MMDA. nhưng tài khoản
này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Không có quy định
nào hạn chế số lượng séc người gửi tiền có thể phát hành. Tuy nhiên, Ngân hàng áp dụng
một mức lãi đối với SNOW thấp hơn cả với MMDA bởi vì SNOW có thể được phát séc
thường xuyên hơn. Do dó, các nhà quản lý trung ương xếp MMDA vào nhóm tiền gửi tiết
kiệm. Tuy vậy, chúng ta xếp tài khoản loại này vào phần tài khoản giao dịch vì chúng có
đặc quyền phát séc (theo quản trị ngân hàng thương mại của Peter S.Rose)
g) Tiền gửi đặc biệt

×