Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phép biện chứng duy vật trong nguyên lý kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.41 KB, 9 trang )

Phép biện chứng duy vật trong nguyên lý kế toán
Triết học được gọi là khoa học của các khoa học, trong triết học phép biện
chứng duy vật nói riêng, triết học Mác-xít nói chung có vị trí hết sức quan trọng
trong khoa học và cuộc sống. Những tri thức của triết học đang là công cụ tư duy
sắc bén để con người nhận thức và cải tạo thế giới, đang được vận dụng hàng ngày
vào các lĩnh vực hoạt động của con người. Trong bài viết này, tác giả muốn trao đổi
về cách vận dụng phép biện chứng duy vật trong nghiên cứu môn học nguyên lý kế
toán.
Nguyên lý kế toán ra đời gắn liền với quá trình tái sản xuất, nó là tất yếu
khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội. Lịch sử hình thành nguyên lý kế toán
vận hành theo quá trình của nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng. ban đầu, kế toán được hình thành từ những quan sát, đo lường của con người
đối với kết quả lao động của họ. Sản xuất xã hội phát triển kéo theo sự phát triển
của kế toán, ở hình thành kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa kế toán được phát triển
thành một khoa học.
Ngày nay, khoa học kế toán được hiểu là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân
tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời
gian lao động.
Phương pháp biện chứng của triết học khẳng định rằng mọi sự vật và hiện
tượng luôn có mối quan hệ với nhau trong trạng thái vận động biến đổi để phát triển
mà nguồn gốc của nó là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Điều này được thể hiện rõ
trong từng nội dung của nguyên lý kế toán. Cụ thể:
Thứ nhất, vận dụng hai nguyên lý của triết học là mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển để nghiên cứu về nguyên lý kế toán chúng ta thấy rằng, các nội dung cơ
bản như khái niệm, bản chất, tài khoản hay chứng từ, tính giá hoặc báo cáo kế
toán…đều có mối liên hệ rất chặt chẽ, mật thiết với nhau. Do vậy, khi nghiên cứu,
ta phải đặt các nội dung này trong mối liên hệ sâu chuỗi giữa chúng thể hiện qua
chu kỳ kế toán được hình thành trên cơ sở biên chứng của quá trình nhận thức.
Chẳng hạn, khi tìm hiểu về cách phân loại kế toán theo nguyên tác ghi nhận
thông tin, kế toán được chia thành: kế toán dồn tích và kế toán trên cơ sở tiền. nếu
chúng ta chỉ dừng lại ở đây, nghĩa là ta đã cô lập mọi sự vật và hiện tượng, nên ta


không nhìn nhận được bản chất của hai loại hình kế toán này. Do đó, chúng ta cần
đặt nó trong mối liên hệ với các nội dung khác. Cụ thể, với cách phân loại này, theo
các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chun (GAAP), khi ghi nhận doanh thu hoặc
chi phí thì đối tượng kế toán là các khoản phải thu của khách hàng hay phải trả
người bán sẽ chỉ tồn tại trong kế toán dồn tích mà không tồn tại trong kế toán tiền.
Sự xuất hiện của đối tượng kế toán này sẽ là cơ sở để xác định tài khoản kế toán. Vì
tài khoản kế toán là phương tiện để phân loại và tổng hợp các thông tin về nghiệp
vụ kinh tế phát sinh liên quan đến từng đối tượng kế toán. Việc ghi chép trên tài
khoản kế toán phải xuất phát từ các bằng chứng khách quan. Tổng hợp đầy đủ các
chứng từ kế toán là cơ sở để tính giá tài sản, ghi sổ kế toán. Sau đó, tiếp tục các mối
liên hệ rất logic của tính giá ta xác định giá trị ghi vào từng định khoản, quá trình
này phải tuân thủ các nguyên tắc của GAAP, nguyên tắc giá gốc. Do đó, trong kế
toán dồn tích, chứng từ để ghi nhận vào tài khoản doanh thu là các bằng chứng
khách quan chứng tỏ việc b án hàng và chuyển giao quyền sở hữu còn trong kế toán
tiền thì phải là phiếu thu tiền mặt hoặc giấy báo có ngân hàng.
Như vậy, các nội dung của nguyên lý kế toán được xâu chuỗi với nhau, xuất
phát từ cách phân loại kế toán ảnh hưởng bởi nguyên tắc kế toán, đối tượng kế toán
là cơ sở để xác định tài khoản, chứng từ kế toán phục vụ cho việc tính giá và ghi sổ
kế toán và cung cấp thông tin qua các báo cáo kế toán. Báo cáo kế toán là sản phẩm
cuối cùng của chu trình kế toán, là bức tranh phản ánh một cách tổng quát tình hình
tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sự logic của các nội dung
trên là biểu hiện một nguyên lý quan trọng của triết học- nguyên lý về mối liên hệ.
Nguyên lý về sự phát triển trong triết học khẳng định mọi sự vật, hiện tượng
luôn vận động biến đổi, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc ở những cấp độ cao
dần. Điều này được thể hiện rõ nét trong chương về đối tượng kế toán. Trong quá
trình hoạt động của đơn vị tài sản và nguồn vốn không đứng im mà nó không ngừng
vận động, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác trong quá trình tái sản xuất, kết
thúc một chu kỳ nó lại được bắt đầu bởi một chu kỳ với sự gia tăng về quy mô, số
lượng giúp doanh nghiệp không những tồn tại mà còn phát triển mạnh. Bởi vậy, kết
hợp nguyên lý về sự phát triển và các cặp phạm trù cơ bản khi nghiên cứu về đối

tượng của kế toán (phạm trù cái chung) người ta phải nghiên cứu cả trạng thái tĩnh
và trạng thái động, đó là tài sản, nguồn hình thành tài sản và sự vận động của tài sản
trong đơn vị. Sau đó, đói với từng tài khoản cụ thể (phạm trù cái riêng) người ta
cũng nghiên cứu về tình hình hiện có (đứng im) và sự biến động vận động) của từng
đối tượng kế toán cụ thể trong kỳ. Các cặp phạm trù cơ bản trong triết học đã được
sử dụng để xây dựng các nội dung của kế toán.
Thứ hai, sự chi phối của 3 quy luật triết học đến nguyên lý kế toán. Để xây
dựng kết cấu của tài khoản, người ta dựa vào quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập. Các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy luôn có sự tồn tại của các
mặt đối lập, như: Nắng-Mưa; Ngày-Đêm; giàu-nghèo; yêu-ghét; sống-chết;…Trong
nguyên lý kế toán các mối quan hệ về kinh tế và kế toán cũng không nằm ngoài quy
luật này, thể hiện qua các hoạt động: Thu-chi (tiền); nhập-xuất (hàng tồn kho); vay-
trả (khoản vay)…Mặc dù cá đối tượng kế toán cụ thể được phản ánh trên những tài
khoản khác nhau, có nội dung kinh tế, mục đích sử dụng, yêu cầu quản lý và tên gọi
khác nhau nhưng xét về mặt vận động thì bất kỳ đối tượng kế toán nào cũng vận
động theo hai mặt đối lập. Do đó, tài khoản kế toán được kết cấu theo kiểu hai bên
chữ T để phản ánh hai mặt vận động của cùng một đối tượng kế toán đó là bên Nợ
và bên Có.
Quy luật mâu thuẫn này một lần nữa được thể hiện trong kế toán là tài sản-
nguồn vốn; doanh thu- chi phí, đó là những mặt đối lập về đối tượng kế toán (phạm
trù cái chung). Xuất phát từ quy luật này mà các nhà khoa học về kế toán đã xây
dựng nên quy ước ghi chép trên mỗi tài khoản (phạm trù cái riêng). Đó là:
- Tài khoản Tài sản: quy ước tăng ghi bên Nợ, giảm ghi bên Có, số dư bên
Nợ
- Tài khoản Nguồn vốn: quy ước tăng ghi bên Có, giảm ghi bên Nợ, số dư
bên Có.
- Tài khoản Chi phí: quy ước tăng ghi bên Nợ, giảm ghi bên Có, không có số
dư cuối kỳ.
- TK Doanh thu: quy ước tăng ghi bên Có, giảm ghi bên Nợ, không có số dư
cuối kỳ.

Những mặt đối lập này tạo nên mâu thuẫn, nó vừa thống nhất, vừa chuyển
hóa lẫn nhau làm cho đối tượng kế toán luôn vận động, biến đổi. Trong kế toán, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí được thông qua các
mối quan hệ đối ứng cơ bản, đó là:
- Tài sản tăng, tài sản khác giảm;
- Nguồn vốn tăng, nguồn vốn khác giảm;
- Tài sản tăng, nguồn vốn tăng;
- Nguồn vốn tăng, nguồn vốn khác giảm.
Biểu hiện về sự chuyển hóa giữa các đối tượng kế toán trong thực tế tại các
đơn vị là các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Ví dụ: Mua nguyên vật liệu đã thanh toán
bằng tiền mặt, đối tượng kế toán là tiền mặt chuyển sang đối tượng kế toán là
nguyên vật liệu.
Quy luật lượng chất được vận dụng trong công thức tính giá thành sản phẩm:
Giá thành sản
xuất
= Chi phí sản
xuất dở dang
đầu kỳ
+ Chi phí sản
xuất phát sinh
trong kỳ
- Chi phí sản xuất dở dang
cuối kỳ
Quá trình tích lũy về lượng thể hiện ở quá trình tập hợp chi phí sản xuất
trong kỳ bao gồm tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp và chi phí sản xuất chung. Khi sản phẩm chưa hoàn thành thì quá trình tích lũy
về lượng không ngừng tăng lên nhưng chưa hình thành chất mới. Vì vậy, giá trị của
sản phẩm đang được kế toán tập hợp trên tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở
dang. Khi sản phẩm hoàn thành, chi phí đã tập hợp được tạo thành một chất mới đó
là thành phẩm, người kế toán có thể chuyển đổi từ đối tượng kế toán sản phẩm dở

dang sang đối tượng kế toán thành phẩm.
Qua nghiên cứu về phép biện chứng duy vật thể hiện ở một số nội dung quan
trọng trong nguyên lý kế toán, một lần nữa chúng ta có thể khẳng định không chỉ
nguyên lý kế toán mà bất kỳ một môn học nào đều có mối liên hệ với các khoa học
khác.
THS. Bùi Thị Ngọc-Khoa Kế toán trường ĐH LĐ-XH
(Bích La sưu tầm)
Quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp theo
quy định hiện hành đối với việc hạch toán kế toán
Do sự áp dụng Chuẩn mực kế toán số 17- Thuế thu nhập doanh nghiệp, Thông tư
số 60/2007/TT-BTC ban hành ngày 14/06/2007 của Bộ Tài chính và Thông tư số
134/2007/TT-BTC ban hành ngày 23/11/2007, nên việc xác định và hạch toán kế toán thuế
Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) hiện nay đã có những điểm mới khác biệt so với trước
đây. Trong quá trình quyết toán thuế TNDN một trong những công việc mà các doanh
nghiệp phải làm đó là xác định phần chênh lệch tạm thời giữa kế toán và thuế nhằm xác
định Chi phí thuế thu nhập hoãn lại hay Thu nhập thuế thu nhập hoãn lại để xác định Chi
phí thuế TNDN hiện hành và xác định kết quả của doanh nghiệp
Nhằm làm rõ phương pháp hạch toán kế toán theo quy định hiện hành về thuế
TNDN, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu các bài viết liên quan.
Nội dung bài viết này tập trung vào Hồ sơ quyết toán thuế TNDN và cách xác định
các khoản chênh lệch tạm thời làm tăng tổng lợi nhuận trước thuế TNDN trong quá trình
quyết toán thuế TNDN.
Nội dung bộ hồ sơ quyết toán thuế TNDN
Khai quyết toán thuế TNDN bao gồm khai quyết toán thuế TNDN năm hoặc khai
quyết toán thuế TNDN đến thời điểm chấm dứt hoạt động kinh doanh, chấm dứt hợp động,
chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp, tổ chức lại doanh nghiệp.
- Tờ khai quyết toán thuế TNDN theo mẫu số 03/TNDN, ban hành kèm theo Thông
tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính (sau đây gọi tắt là TT số
60/2007/TT-BTC)
- Báo cáo tài chính năm hoặc Báo cáo tài chính đến thời điểm chấm dứt hoạt động

kinh doanh, chấm dứt hợp đông, chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp, tổ chức lại
doanh nghiệp.
- Một hoặc một số phụ lục kèm theo tờ khai (Tùy theo thực tế phát sinh):
+ Phụ lục kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo mẫu số 03-1A/TNDN, 03-1B/TNDN
hoặc 03-1C/TNDN, ban hành kèm theo TT số 60/2007/TT-BTC
+ Phụ lục chuyển lỗ theo mẫu số 03-2/TNDN ban hành kèm theo TT số 60/2007/TT-BTC
+ Phụ lục thuế TNDN đối với hoạt động chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất
theo mẫu số 03-3/TNDN ban hành kèm theo TT số 60/2007/TT-BTC
+ Phụ lục về ưu đãi thuế TNDN theo các mẫu ban hành kèm theo TT số 60/2007/TT-BTC
+ Phụ lục số thuế TNDN đã nộp ở nước ngoài được trừ trong kỳ tính thuế theo mẫu số
03-5/TNDN ban hành kèm theo TT số 60/2007/TT-BTC
Xác định phần chênh lệch tạm thời giữa kế toán và thuế
1. Điều chỉnh tăng tổng lợi nhuận trước thuế TNDN (Mã số B1)
Chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ các điều chỉnh về doanh thu hoặc chi phí được ghi nhận theo
chế độ kế toán, nhưng không phù hợp với quy định của Luật thuế TNDN, làm tăng tổng lợi
nhuận trước thuế của cơ sở kinh doanh. Chỉ tiêu này được xác định bằng tổng các khoản
điều chỉnh được thể hiện chi tiết trong các chỉ tiêu từ mã số B2 đến mã số B16, cụ thể như
sau:
Mã số B1=Mã số B2 + Mã số B3 +…+ Mã số B16.
Trong đó:
1.1. Các khoản điều chỉnh tăng doanh thu (mã số B2)
Chỉ tiêu này phản ánh tất cả các khoản điều chỉnh dẫn đến tăng doanh thu tính thuế
do sự khác biệt giữa các quy định về kế toán và thuế bao gồm các khoản được xác định là
doanh thu để tính thuế TNDN theo quy định của Luật thuế TNDN nhưng không được ghi
nhận là doanh thu trong kỳ theo quy định của chuẩn mực kế toán về doanh thu. Chỉ tiêu
này cũng phản ánh các khoản giảm trừ doanh thu được chấp nhận theo chế độ kế toán,
nhưng không được chấp nhận theo quy định của Luật thuế.
Các trường hợp điển hình dẫn đến tăng doanh thu tính thu nhập chịu thuế gồm:
(1) Các trường hợp được xác định là doanh thu tính thuế TNDN trong năm nhưng chưa đủ
điều kiện để ghi nhận doanh thu theo chế độ kế toán.

Ví dụ 1:
Công ty A sản xuất ô tô đã ký hợp đồng bán 03 chiếc ô tô với giá trị 300triệu đồng/
chiếc. Công ty đã xuất hóa đơn trong năm 2007 nhưng tới ngày kết thúc năm tài chính
(31/12/2007) xe vẫn chưa được chuyển giao cho người mua. Giá thành sản xuất của 03
chiếc xe này là 250 triệu đồng/chiếc.
Theo Kế toán Theo Thuế
Nợ TK 111, 112, 131…900 tr
Có TK 131 – Khách hàng trả trước tiền hàng
900 tr
Do chưa đủ điều kiện ghi nhận doanh thu,
như chưa chuyển giao quyền sở hữu.
Nợ TK 111, 112, 113…990 tr
Có TK 511 900tr
Có TK 3331 90tr
Đồng thời:
Nợ TK 632/Có TK 156 750tr
Do vậy, công ty A phải điều chỉnh tăng doanh thu chịu thuế TNDN và ghi doanh
thu bán 03 chiếc xe là 900 triệu đồng vào chỉ tiêu mã số B2 của Tờ khai quyết toán thuế
TNDN năm 2007
(2) Trường hợp cho thuê tài sản, có nhận trước tiền cho thuê của nhiều năm:
Ví dụ 2:
Công ty B hoạt động trong lĩnh vực cho thuê văn phòng, cho công ty X thuê 500m2
diện tích văn phòng với giá là 4 triệu đồng/m2/năm từ tháng 1/1/2007 đến 31/12/2011. Chi
phí xây dựng phân bổ cho mỗi m2 văn phòng cho thuê là 2,5 triệu đồng. Công ty X trả tiền
trước cho 5 năm.
(3) Các khoản hàng hóa dịch vụ được trao đổi không được xác định là doanh thu nhưng là
doanh thu để tính thu nhập chịu thuế theo quy định của luật thuế TNDN.
(4) Các khoản được giảm trừ doanh thu bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ hoặc doanh thu
hoạt động tài chính theo chuẩn mực kế toán, nhưng không được loại trừ khỏi doanh thu để
tính thu nhập chịu thuế.

Theo kế toán Theo thuế
Nợ TK 111, 112, 131… 11.000tr Cách 1: Giống kt
Có TK 511 2.000tr Nợ TK 111, 112, 131… 2.000tr
Có TK 3387 8.000tr Có TK 511 8.000tr
Có TK 3331 1.000tr Có TK 3387 1.000tr
Có TK 3331

×