Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Khóa luận tốt nghiệp thực trạng thu thuế và các kiến nghị cải cách hệ thống thuế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.37 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC
----------------  ----------------

TIỂU LUẬN:

THỰC TRẠNG THU THUẾ VÀ CÁC
KIẾN NGHỊ CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ
Ở VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
NHÓM HỌC VIÊN

: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
: NGUYỄN THẾ MINH
THÁI VÕ SƠN
VŨ THANH TÙNG
HỒ THỊ XUÂN HIỀN

MỤC LỤC

Trang

1. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM.............................................................1
1.1

NIÊN
KHOÁ 2007-2009
Cơ cấu hệ thống thuế ở Việt
Nam......................................................................................1



1.2

Nhận xét hệ thống thuế ở Việt Nam...................................................................................2

1.2.1 Nhận xét về chính sách thuế ..............................................................................................2
1.2.1.1 Ưu điểm............................................................................................................................2
1.2.1.2 Bất cập, hạn chế...............................................................................................................3
1.2.2 Nhận xét về tổ chức bộ máy thu thuế ................................................................................8
1.2.3 Nhận xét về công cụ quản lý thu thuế .............................................................................10
2. CÁC KIẾN NGHỊ CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM...................................10
2.1

Điều kiện kinh tế cho việc kiến nghị................................................................................10

2.1.1 Môi trường kinh tế trong nước ........................................................................................10
2.1.2 Môi trường kinh tế quốc tế ..............................................................................................11
2.1.2.1

Các cam kết cắt giảm thuế khi đã gia nhập WTO.......................................................11

2.1.2.2

Các cam kết cắt giảm thuế của khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Hàn Quốc.............11

2.1.2.3 Xu hướng cải giảm thuế TNDN để tăng sức cạnh tranh của các nền kinh tế trong
khu vực...........................................................................................................................................
12
2.2


Quan điểm, mục tiêu cải cách...........................................................................................12

2.3

Các kiến nghị....................................................................................................................13

2.3.1 Cải cách hệ thống chính sách thuế....................................................................................13
2.3.2 Cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt..........................................................................................13
2.3.3 Thuế tài nguyên................................................................................................................13
2.3.4 Thuế nhà đất.....................................................................................................................13
2.3.5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất.......................................................................................14
2.3.6 Thuế sử dụng đất nông nghiệp.........................................................................................14
2.3.7 Thuế xuất nhập khẩu.........................................................................................................14
2.3.8 Thuế giá trị gia tăng..........................................................................................................14
2.3.9 Thuế thu nhập cá nhân......................................................................................................16
2.3.10 Thuế TNDN...................................................................................................................16
3. KẾT LUẬN..........................................................................................................................17

Lời mở đầu
Cùng với các ngành tài chính, ngân hàng..., ngành thuế Việt Nam luôn được đánh
giá là một trong những lĩnh vực trọng yếu, có tầm quan trọng hàng đầu trong hệ thống
kinh tế nước nhà. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã luôn theo dõi, quan tâm và chỉ đạo


sát sao cơng cuộc xây dựng, phát triển và hồn thiện hệ thống thuế trong suốt nhiều năm
qua
Với nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, ngành thuế nước ta đã những
bước phát triển, những chuyển hướng tích cực đáng ghi nhận. Cùng với việc đổi mới
chính sách kinh tế, hệ thống luật pháp, thể chế, cải cách hệ thống thuế trong thời gian qua
đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, điều

chỉnh vĩ mô các hoạt động sản xuất và tiêu dùng cũng như thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn cịn những tồn
tại, những bất cập đã và đang phát sinh, tiếp diễn …
Sau gần hai thập kỷ cải cách, cơ cấu kinh tế và điều kiện kinh tế - xã hội Việt
Nam đã có những chuyển biến quan trọng hướng đến một giai đoạn mới của quá trình
phát triển; quan hệ hợp tác quốc tế cũng bước vào giai đoạn hội nhập sâu, rộng hơn vào
nền kinh tế thế giới. Hệ thống thuế là một trong những thực thể bị chi phối nhiều nhất khi
Việt Nam gia nhập WTO. Dựa trên một số nguyên tắc bắt buộc phải tuân thủ khi gia
nhập WTO và dựa vào các chuyển động của công tác thuế trong thời gian gần đây cho
chúng ta nhận định rằng hệ thống thuế cần phải tiếp tục cải cách, cải cách mạnh mẽ hơn
nữa để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai
đoạn mới.
Ngày 06/12/2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 201/QĐ-TTg phê
duyệt chương trình cải cách thuế đến năm 2010. Đây có thể coi là nội dung chủ đạo của
chương trình cải cách thuế bước 3 cho đến năm 2010.
Trên cơ sở những nhận định trên, chúng em quyết định thực hiện đề tài “Thực
trạng hệ thống thuế & các kiến nghị cải cách hệ thống thuế ở VN” với mong muốn có
thêm những đóng góp, những cái nhìn thiết thực về hệ thống thuế nước ta
Tuy đã hết sức cố gắng, nhưng do trình độ còn hạn chế phần nào, nên chắc chắn
trong quá trình làm khơng thể tránh được khỏi những sai sót, mong thầy chỉ bảo và
hướng dẫn để đề tài được hoàn thiện hơn
Chúng em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến PGS, TS Nguyễn Ngọc Hùng,
người thầy đã tận tình giảng dạy chúng em trong suốt thời gian qua. Tuy rằng chỉ được
học với thầy trong một thời gian ngắn, nhưng chúng em đã thật sự cảm nhận thêm được
những cái hay, những cái mới về Tài chính cơng.
Xin chân thành cám ơn !
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 11/2008
Nhóm thực hiện đề tài
1. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM
1.1


Cơ cấu hệ thống thuế ở Việt Nam




Các sắc thuế hiện hành ở Việt Nam

Stt

Sắc thuế

1

Thuế sử dụng đất nông
nghiệp

2

Ngày ban hành

Hiệu lực từ  ngày

10.7.1993

1.1.1994

Thuế nhà, đất

23.11.2003


1.7.2004

3

Thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao

23.07.2004

01.07.2004

4

Thuế chuyển quyền sử dụng
đất

22.6.1994

1.7.1994

5

Thuế tài nguyên

16.4.1998

1.6.1998

6


Thuế giá trị gia tăng

09.04.2007

04.06.2007

7

Thuế thu nhập doanh nghiệp

14.02.2007

01.01.2007

8

Thuế tiêu thụ đặc biệt

29.11.2005

01.01.2006

9

Thuế xuất khẩu, nhập khẩu

15.12.2005

01.01.2006


 

2000

2002

2003

2004

2005

2006

TỔNG THU

100.0

100.0

100.0

100.0

100.0

100.0

Thu trong nước (Không kể thu từ

dầu thô)

50.95

51.29

51.67

54.77

52.49

52.03

Thu từ doanh nghiệp Nhà nước

21.7

20.24

18.88

16.85

17.12

16.58

Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi


5.22

5.87

6.53

7.91

8.36

9.25

Thu từ khu vực cơng, thương
nghiệp, dịch vụ ngồi quốc
doanh

6.39

6.27

6.8

6.95

7.42

7.9



Thuế sử dụng đất nông nghiệp

1.96

0.62

0.1

0.07

0.06

0.04

Thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao

2.02

1.89

1.94

1.84

1.85

1.85

Lệ phí trước bạ


1.03

1.07

1.19

1.37

1.23

1.2

Thu xổ số kiến thiết

2.17

2.45

2.4

2.39

2.32

2.2

Thu phí xăng dầu

2.41


2.42

2.1

1.88

1.73

1.42

Thu phí, lệ phí

2.99

2.44

2.15

2.19

1.84

1.78

Các khoản thu về nhà đất

3.11

4.43


6.93

9.15

7.78

7.35

Các khoản thu khác

1.95

3.59

2.65

4.18

2.79

2.45

Thu từ dầu thô

25.93

21.4

24.15


25.43

29.16

29.82

Thu từ hải quan

20.89

25.49

22.23

18.29

16.7

15.32

Thuế xuất. nhập khẩu. thuế tiêu
thụ đặc biệt hàng nhập khẩu;
Thu chênh lệch giá hàng nhập
khẩu

14.95

17.83


14.12

11.34

10.36

9.4

Thuế giá trị gia tăng hàng nhập
khẩu

5.94

7.66

8.1

6.94

6.33

5.92

2.23

1.82

1.95

1.51


1.66

2.83

Thu viện trợ khơng hồn lại

1.2

Nhận xét hệ thống thuế ở Việt Nam

1.2.1 Nhận xét về chính sách thuế
1.2.1.1 Ưu điểm
Chính sách thuế đã bắt đầu phát huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất đã tạo ra mơi trường bình đẳng về pháp luật
cho sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Chính sách thuế từng bước tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ nộp thuế giữa các
đối tượng khác nhau, góp phần thúc đẩy đầu tư vốn, cải tiến công nghệ, tăng năng suất
lao động, giảm giá thành …


Thuế thu nhập cá nhân


Luật Thuế TNCN vừa được ban hành đã đảm bảo được nguyên tắc công bằng và
khả năng nộp thuế, thể hiện ở chỗ: Người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn,
người có thu nhập như nhau nhưng có hồn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi
cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong
một chính sách thuế; người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế.
Ngồi ra, đối tượng nộp thuế có bổ sung thêm cá nhân có thu nhập chịu thuế từ đầu

tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế, quà tặng.
Thu nhập chịu thuế được mở rộng đối với các khoản như: thu nhập từ đầu tư vốn;
thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản trong đó có chuyển
nhượng quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất ở; chuyển nhượng quyền thuê đất,
thuế mặt nước; một số khoản thu nhập từ thừa kế, quà tặng; thu nhập từ trúng thưởng
trong các hình thức cá cược, casino.


Thuế xuất, nhập khẩu và thuế GTGT

Chính sách thuế đã góp phần khuyến khích xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu khơng phải
chịu thuế giá trị gia tăng, đồng thời được hoàn lại toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở
đầu vào.


Thuế sử dụng đất nông nghiệp (thuế SDĐNN)

Nghị quyết của Quốc hội về miễn, giảm thuế SDĐNN từ năm 2003 đến năm 2010
là một chủ trương lớn được đa số cử tri cả nước tán thành. Thực sự, với người nông dân
mức sống của họ thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước. Chủ trương của
Đảng và Nhà nước về miễn, giảm thuế SDĐNN lần này là Nhà nước đầu tư trực tiếp
phần thuế cho hộ nông dân nhằm giúp họ có điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, ổn định
cuộc sống.
Ngồi ra, việc miễn giảm thuế cho họ cịn mang một ý nghĩa xã hội rất lớn, góp
phần đẩy nhanh tốc độ xóa đói giảm nghèo, nâng cao phần nào đời sống nông thôn, hạn
chế tốc độ phân cấp giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn hiện nay.
Mặt khác, số thuế từ SDĐNN chiếm tỷ trọng không lớn so với tổng thu ngân sách
và Chính phủ cũng đã có lộ trình điều chỉnh, giảm dần từ vài năm trước, nên khơng ảnh
hưởng gì lớn đến việc cân đối ngân sách của các địa phương.
Theo nội dung của Nghị quyết, các đối tượng được miễn thuế SDĐNN bao gồm:

 Hộ nơng dân sử dụng diện tích trong hạn mức quy định tại Luật Đất đai, kể cả hộ nông
dân đó được cho, tặng, thừa kế, nhận chuyển nhượng đất để sản xuất nơng nghiệp, mà
tổng diện tích của hộ đó chưa vượt hạn điền.
 Hộ nơng trường xã viên, xã viên HTXNN nhận đất giao khoán của doanh nghiệp, HTX
để sản xuất nông nghiệp.
 Hộ nông dân đưa ruộng đất vào thành lập các HTXNN theo Luật HTX.
 Toàn bộ diện tích đất sản xuất nơng nghiệp của hộ được xác định là hộ nghèo theo quy
định chuẩn hộ nghèo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và tổ chức, cá nhân có


đất sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 của Chính
phủ.
Các đối tượng được giảm thuế bao gồm:
 Đất của các tổ chức, doanh nghiệp đang quản lý và trực tiếp sản xuất chưa thực hiện
việc giao khốn cho các hộ nơng trường viên.
 Đất của các tổ chức, tổ chức kinh tế-xã hội, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị
lực lượng vũ trang đang sử dụng đất hoặc đấu thầu giao đất cho các tổ chức, cá nhân
khác sản xuất và thu lại bằng tiền hoặc hiện vật.
 Đất của hộ gia đình có sản xuất nơng nghiệp nhưng khơng phải là hộ nơng dân.
 Diện tích đất sản xuất nông nghiệp vượt hạn điền của các hộ nông dân và các hộ khác.
 Các hộ được giảm thuế nêu trên, nếu trong năm sản xuất gặp thiên tai gây thiệt hại mùa
màng cũng sẽ được xem xét giảm thuế do thiên tai.
1.2.1.2 Bất cập, hạn chế


Thuế GTGT

Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế GTGT hiện hành còn bộc lộ một số
hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong tình hình mới.

Một là, về diện hàng hố, dịch vụ khơng chịu thuế GTGT:
Luật thuế GTGT hiện hành quy định 28 nhóm hàng hố, dịch vụ khơng chịu thuế
GTGT. Quy định này là phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy
nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT sẽ khơng
cịn  phù hợp do khơng đảm bảo tính liên hồn trong việc khấu trừ thuế đầu vào, đầu ra
của doanh nghiệp. Do đó, cần rà sốt để chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo
tính liên hồn của thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh. Bên
cạnh đó cũng cần  bổ sung cụ thể hố các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong
Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn
mua, bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch
chuyển nhượng vốn để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Hai là, về thuế suất thuế GTGT
Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT, ngồi thuế suất 0%, cịn có 3  mức thuế
suất: 5%, 10 % và 20%.  Từ ngày 1 tháng 4 năm 2004; áp dụng Luật sửa đổi bổ sung: bỏ
thuế suất 20%, chỉ cịn 2 thuế 5% và 10%. Trong đó 5 % là mức thuế suất ưu đãi, được
áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu
cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước những khó khăn
của nền kinh tế, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng
nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá,


dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải nộp thuế mà cịn được hồn thuế từ
ngân sách Nhà nước, do đó, cần thiết rà sốt lại diện áp dụng mức thuế suất 5% để phù
hợp với thực tiễn.
Mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5% và 10% chưa rõ
ràng: vừa theo tên hàng hố, dịch vụ, vừa theo cơng dụng hàng hố, dịch vụ, vừa theo
tính chất của hàng hố, dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất,
nảy sinh vướng mắc trong q trình thực hiện.

Ví dụ: sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là
tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí khơng
thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
Ba là, về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế
Luật thuế GTGT hiện hành quy định căn cứ khấu trừ, hồn thuế GTGT đầu vào là
hố đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản lý thuế thời gian qua cho thấy quy
định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng khấu trừ khống hoặc hồn thuế
khống thơng qua việc sử dụng hố đơn ghi chép không trung thực với thực tế giao dịch
và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu trừ, làm giảm số thuế
GTGT phải nộp hoặc tăng số thuế GTGT được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất
bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu
tư. Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua,
bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế GTGT của Nhà nước như một
số đối tượng đã lợi dụng sự thơng thống của Luật Doanh nghiệp và quy định về điều
kiện được khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để thành lập doanh nghiệp nhằm mục
đích mua, bán hố đơn kiếm lời bất chính
Bốn là, về hình thức văn bản.
Thuế GTGT được thể hiện tại 3 văn bản Luật khác nhau là Luật thuế GTGT năm
1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế GTGT năm 2005. Mặt
khác, năm 2006, Luật Quản lý thuế (đã được Quốc hội thơng qua, có hiệu lực từ
01/7/2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế như đăng ký, kê khai, nộp thuế, xử
lý vi phạm để thay thế cho các quy định về quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh thuế đã
được ban hành trước đây, trong đó có Luật thuế GTGT. Với nhiều văn bản Luật cùng quy
định về thuế GTGT nên chưa tạo thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật.


Thuế xuất, nhập khẩu

Cách thức áp mã số thuế tuỳ tiện, miễn, giảm thuế vô lối cho doanh nghiệp này mà

không cho doanh nghiệp khác... không chỉ làm nhà nước thất thu lớn mà còn làm méo mó
mơi trường kinh doanh.
Điều nguy hiểm là những chính sách hướng dẫn không rõ ràng, không nhất quán từ
cấp bộ cho tới cấp tổng cục xuống các cục, chi cục hải quan sẽ tạo ra những kẽ hở lớn
cho cán bộ, công chức ngành này nhũng nhiễu.


Việc áp dụng giá tối thiểu tuy dễ thực hiện, đảm bảo chống gian lận về giá, nhưng
lại không phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều trường hợp không chính xác, mang tính áp
đặt của Nhà nước nên có tình trạng lạm thu hoặc thất thu.
Luật hiện hành chỉ quy định hình thức thu thuế theo tỷ lệ (ví dụ thu 30% giá trị/kg
táo) chưa quy định hình thức thu thuế theo mức thu tuyệt đối (ví dụ thu 5.000 đ/kg táo).
Hình thức thu thuế theo tỷ lệ tuy có ưu điểm là dễ áp dụng, nhưng trong trường hợp đối
tượng nộp thuế khai thấp giá trị tính thuế, nhưng cơ quan hải quan khơng có đủ cơ sở để
xác định chính xác trị giá nhập khẩu mà người mua phải thanh toán cho người bán


Thuế chuyển quyền sử dụng đất

Thuế chuyển quyền sử dụng đất là 4% đối với đất ở, đất xây dựng cơng trình và 2%
đối với đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối Thuế
chuyển quyền sử dụng đất hiện nay quy định là quá cao, khiến người dân chấp nhận mua
bán trao tay, không qua đăng ký, làm cho Nhà nước thất thu thuế và không quản lý được
việc sử dụng nhà đất.
Ví dụ: một hộ gia đình mua 1 ngơi nhà có diện tích đất 50 m2, với giá trung bình
hiện nay ở Hà Nội khoảng 30 triệu đồng/m2, chủ nhân phải đóng thuế CQSDĐ là 60 triệu
đồng.
Trong thực tế hiện nay, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cá nhân với
nhau, đa số là thông qua hợp đồng chuyển nhượng được các cơ quan có thẩm quyền xác
nhận, hình thức trao tiền qua tay mà khơng hề sử dụng đến tờ hóa đơn, nên đã xảy ra

trường hợp là giá đất chuyển nhượng thực tế ghi trên hợp đồng chuyển nhượng có thể cao
hơn hoặc thấp hơn giá đất mà UBND tỉnh quy định tại thời điểm trước bạ. Do vậy, trong
trường hợp này thì cơ quan thuế tính thu theo giá thực tế ghi trên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất hay là giá UBND tỉnh quy định.
Từ thực tế này dẫn đến việc gia tăng và tồn tại chủ yếu hoạt động mua bán “trao
tay” hoặc lập hai hợp đồng mua bán, trong đó có một hợp đồng giả giảm giá bán để trốn
thuế. Cịn đối với khu vực đất nơng thơn lại diễn ra tình trạng mua bán bằng giấy viết tay,
khơng qua giao dịch để tránh nộp thuế.
Chính sách ban hành hiện nay chưa nhất quán, cùng một thời điểm thu như nhau,
cùng một diện tích đất, vị trí đất cũng như nhau mà căn cứ để tính thu khác nhau là khơng
phù hợp với thực tế.
Ví dụ: Người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có sử dụng hóa đơn, giá thực
tế ghi trên hóa đơn cao hơn giá UBND tỉnh quy định, thì tính lệ phí trước bạ là giá ghi
trên hóa đơn, cịn người chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải nộp thuế chuyển quyền
sử dụng đất theo giá đất UBND tỉnh quy định.
Thuế chuyển quyền sử dụng đất mang tính “cào bằng”, bất kỳ trường hợp sang
nhượng nào, dù có thu lợi nhuận hay khơng cũng đều phải đóng thuế chuyển quyền sử
dụng đất.


Đối với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản vừa phải nộp thuế chuyển quyền sử
dụng đất, lại vừa nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (thu nhập từ chuyển nhượng).


Thuế sử dụng đất nông nghiệp

Đối tượng được miễn thuế sử dụng tồn bộ diện tích đất nơng nghiệp là các hộ
nghèo (căn cứ quy định chuẩn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); và tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân có đất sản xuất nơng nghiệp tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc chương
trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng xa.

Nhưng thực tế cho thấy, lợi dụng quan điểm vì người nghèo này của Nhà nước, mà
một số nơi đã trục lợi. Thực tế người dân nghèo khơng được miễn giảm gì cả, mà số tiền
thuế miễn giảm cũng chẳng được đưa vào ngân sách mà lại chảy vào túi một số kẻ chức
trách. Đây là thực tế đau lòng mà Đảng, Nhà nước ta đang ra sức loại bỏ
Chúng ta vẫn phải duy trì một bộ máy thu thuế cồng kềnh, quan liêu, trong khi tiền
thu được chỉ chiếm 0.04% ngân sách năm 2006.


Thuế nhà, đất:
Cơng thức tính thuế nhà, đất:
Thuế nhà, đất = Diện tích đất x Mức thuế sử dụng đất nơng nghiệp x Bội số
thuế sử dụng đất nông nghiệp x Hệ số phân bổ theo tầng

Thuế nhà đất vẫn được tính dựa trên cơ sở là thuế đất nông nghiệp để nhân lên từ 1
đến 32 lần tùy theo vị trí là một điều bất hợp lý và thiếu sức thuyết phục. Điều này đã dẫn
đến việc có rất nhiều cá nhân và tổ chức ở các đô thị phản đối. Họ cho rằng họ ở “trên
phố” và không làm ruộng vậy thì khơng có lý do gì để lấy thuế đất nông nghiệp rồi nhân
lên 32 lần để đánh thuế.
Khi thực hiện chuyển từ đánh thuế theo hiện vật sang đánh thuế theo thị trường thì
chúng ta lại khơng có cơ sở để xác định giá trị tài sản.
Đối với nhà đất mà người bán có nhu cầu thay đổi chỗ ở và người mua có nhu cầu
mua để sử dụng thì người mua và người bán thường tự thỏa thuận ghi giá trị mua bán trên
hợp đồng chính thức (hợp đồng qua công chứng) thấp hơn giá trị thực để trốn thuế (mặc
dù Nhà nước có quy định là giá trị hợp đồng thấp hơn giá trị quy định để tính thuế thì thu
theo giá nhà nước, ngược lại thì thu theo giá trị hợp đồng).
Đối với nhà, đất mà nhà đầu tư thứ cấp kinh doanh (giao dịch thứ cấp, có yếu tố đầu
cơ) thường giao dịch qua tay với nhau, họ chỉ cần xác nhận giao dịch hoặc chuyển tên
qua chủ đầu tư, giá trị giao dịch là do hai bên mua bán thỏa thuận, Nhà nước không quản
lý được giá trị giao dịch để thu thuế.
Chưa có một hệ thống chuyên sâu về định giá tài sản, do đó khơng định giá đúng

giá trị nhà, đất dẫn đến việc thu thuế chưa đảm bảo được sự công bằng cho mọi người
dân.
Hạng đất và mức thuế chênh lệch giữa các hạng đất không được xác định rõ ràng dễ
dẫn đến tiêu cực trong đóng thuế và thu thuế bởi đa số người dân khơng biết đất mình


đang sử dụng thuộc hạng đất nào; chỉ biết được số thuế phải đóng theo thơng báo mà
“ơng phường, xã” đưa tới.
Hiện nay, việc thu thuế, nộp thuế nhà, đất được thực hiện căn cứ vào Pháp lệnh về
thuế nhà, đất được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 31/7/1992 và Pháp lệnh sửa đổi,
bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất được Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 19/5/1994. Tuy tên gọi là pháp lệnh về thuế nhà, đất nhưng thực ra chỉ
qui định thuế đất, cịn thuế nhà thì chưa thu.


Thuế tiêu thụ đặc biệt

Đối tượng không thuộc diện chịu thuế TTĐB quá rộng. Điều đáng lưu ý là qua thực
tế thi hành Luật Thuế TTĐB đã phát sinh việc lợi dụng các quy định này để trốn thuế. Ví
dụ: máy bay, du thuyền…
Mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt còn thấp, chưa đủ tác dụng điều tiết, hạn chế
tiêu dùng đối với hầu hết các mặt hàng, dịch vụ thuộc diện xa xỉ, như: rượu, bia, ô tô, mô
tô phân khối lớn, máy bay, du thuyền, kinh doanh vũ trường, massage, karaoke, casino,
sân golf...


Thuế thu nhập cá nhân

Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có
hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2009. Từ lúc ban hành đến hiệu lực hơn 1 năm nên có

thể nói mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng là chưa hợp
lý. Bởi mức lương tối thiểu đã được tăng và những ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng
kinh tế trong thời gian gần đây cho thấy mức giảm trừ chưa phù hợp.
Trong giai đoạn chứng khoán thế giới và trong nước gặp nhiều biến động, đầu tư
chứng khốn vẫn cịn tương đối mới mẻ tại Việt Nam việc đánh thuế thu nhập cá nhân
vào lĩnh vực này là quá sớm.


Thuế tài nguyên

Thuế tài nguyên vẫn chưa đạt được mục tiêu yêu cầu đặt ra là góp phần hạn chế
việc khai thác tài nguyên nguyên khai quá mức, khuyến khích đầu tư chế biến quặng tinh
nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên.
Có thể ngân sách nhà nước cũng đang chịu thất thoát nhiều từ các loại thuế ưu đãi
khác dành cho các doanh nghiệp khai khoáng. Nghiên cứu của viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương (CIEM) gần đây cho biết, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
doanh nghiệp FDI thuộc lĩnh vực khai khoáng là 279,6 tỉ đồng năm 2001, 1.569 tỉ đồng
năm 2004 và 700 tỉ đồng năm 2006. Điều này đồng nghĩa với việc ngân sách thất thu một
khoản tương đương
Nếu cộng thêm thuế và phí bảo vệ mơi trường, giá bán của các loại khống sản sẽ bị
đẩy lên mức cao hơn khá nhiều. Tuy nhiên, nếu so sánh với mức thuế tài nguyên của
Trung Quốc, thì mức thuế mới này vẫn cịn thấp hơn.
Thuế tài nguyên của Việt Nam hiện đang thấp hơn nhiều nước trên thế giới. Thuế
khai thác vàng của Việt Nam ở mức từ 2 – 6%, thấp hơn nhiều so với Úc là 2 – 15%; thuế


khai thác than dao động từ 1 – 3%, thấp hơn so với mức 7,5% ở Úc, 13,5% ở Indonesia
và 4% ở Nga.



Thuế thu nhập doanh nghiệp

Hệ thống thuế nước ta dành rất nhiều chính sách ưu đãi thuế nhằm thu hút đầu tư.
Tuy nhiên, những bất cập trong miễn giảm thuế đã vơ tình tạo ra những kẻ hở cho một số
doanh nghiệp lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu thuế cho Nhà nước.
Chẳng hạn một số địa phương được “đặc cách” ưu đãi quá nhiều, trong khi thật sự
những địa bàn đó khơng cịn q khó khăn. Có thể kể đến là Long An, Phú Thọ, Bình
Phước, Trà Vinh …Qui định ưu đãi liên tục được duy trì suốt từ những năm 1999 đến
nay. Trong khi thực sự nhiều huyện, xã ở các địa bàn này đã phát triển nhanh và thay đổi
rất nhiều. Chính điều này đã gây ra tình trạng nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách
thành lập trụ sở ở các tỉnh này để lấy ưu đãi miễn giảm thuế trong nhiều năm trong khi
thực sự họ chỉ hoạt động ở các thành phố lớn
Ngồi ra cịn có thể kể đến những qui định ưu đãi khơng kín kẽ như ưu đãi đầu tư
mở rộng, thành lập mới, ưu đãi về ngành nghề đã khiến cho các văn bản pháp luật ưu đãi
của Việt Nam trở nên hỗn tạp, tạo ra kẽ hở cho nhiều doanh nghiệp lợi dụng
1.2.2 Nhận xét về tổ chức bộ máy thu thuế


Về hệ thống quản lý thu thuế
Hiện nay hệ thống quản lý thuế của nước ta được tổ chức như sau:


Ở Trung ương có Tổng cục thuế thuộc Bộ tài chính. Bộ máy giúp việc cơ
quan Tổng cục gồm các phòng chức năng và các phòng nghiệp vụ.



Ở  các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Cục thuế. Các Cục thuế
chịu sự chỉ đạo song trùng của Tổng cục thuế và Ủy ban nhân dân cùng cấp.




Ở cấp quận, huyện và cấp tương đương có Chi cục thuế thuộc Cục thuế. Chi
cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Cục thuế và Ủy ban nhân dân cùng
cấp.



Ở phường, xã có đội thuế xã, phường.

Tổng cục thuế, Cục thuế, Chi cục thuế là tổ chức trong hệ thống hành chính nhà
nước, có tư cách pháp nhân cơng quyền, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại Kho
bạc nhà nước. Kinh phí hoạt động của hệ thống quản lý thuế do ngân sách nhà nước đài
thọ và được tổng hợp vào dự toán chi của Bộ tài chính.
Ngành thuế đã hình thành hệ thống quản lý thuế thống nhất từ trung ương đến địa
phương để quản lý thuế.
Tuy nhiên, quá trình cải cách thuế chỉ mới tập trung nhiều đến khía cạnh chính sách
mà chưa có sự quan tâm thích đáng đến việc cải cách hành chính thuế ngay từ đầu. Điều
này đã dẫn đến năng lực quản lý hành chính thuế thấp, hiệu quả chưa cao, làm xuất hiện
nhiều tồn tại trong công tác hành thu.


Chương trình tổng rà sốt, sửa đổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đặc biệt chú
trọng vào những lĩnh vực có nhiều bức xúc, liên quan trực tiếp tới người dân và doanh
nghiệp vẫn đang trong quá trình chỉnh sửa hoàn thiện.
Việc hỗ trợ giải đáp các vướng mắc, đối chiếu chéo số liệu giữa cục thuế và các
doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.


Những vướng mắc trong thực thi mơ hình quản lý thuế mới:


Theo Cục Thuế TP.HCM, trong công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, các
chi cục thuế trực thuộc đã cố gắng ưu tiên bố trí cán bộ thuế có năng lực, phong cách ứng
xử văn minh làm việc tại bộ phận "một cửa", nhưng hầu hết đều gặp khó khăn trong bố
trí nhân sự, do thiếu biên chế. Hơn nữa, tâm lý một số cán bộ thuế khơng thích làm việc ở
bộ phận "một cửa", do phải chịu áp lực cơng việc và địi hỏi phải có chun mơn, trách
nhiệm cao.
Cơng tác xây dựng quy chế, quy trình "một cửa" và quy trình tuyên truyền hỗ trợ
người nộp thuế chưa được Tổng cục Thuế ban hành kịp thời, nên trong quá trình triển
khai thực hiện, các cơ quan quản lý thuế ở địa phương vẫn cịn nhiều lúng túng.
Hiện chưa có quy trình cụ thể hướng dẫn công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định
của Luật Quản lý thuế nên quy trình này vẫn đang thực hiện theo Quyết định 1166/QĐTCT ngày 30/5/2005 của Tổng cục Thuế, trong đó có nhiều điểm chưa phù hợp với quy
định của Luật. Hiện tại, các phòng thanh tra thuế của Cục Thuế vừa thực hiện nhiệm vụ
thanh tra theo Quyết định 728/QĐ-TCT của Tổng cục Thuế, vừa phải thực hiện công tác
kiểm tra, mà lẽ ra nhiệm vụ này là của Phòng Kiểm tra thuế. Do đó, chức năng kiểm tra
thuế bị chồng chéo, trong khi chức năng thanh tra thuế khơng có điều kiện phát huy vai
trò của một đơn vị thanh tra.
Các trường hợp được hưởng chính sách gia hạn nộp thuế theo quy định giữa Luật,
nghị định và thông tư không thống nhất, không rõ ràng. Cụ thể, Điều 49, Luật Quản lý
thuế nêu 2 trường hợp được gia hạn nộp thuế, trong khi đó tại khoản 1, Điều 24, Nghị
định 85/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ và tại mục VI, phần C, Thơng tư 60/TTBTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính lại quy định có 4 trường hợp được gia hạn. Cục
Thuế TP.HCM cũng đề nghị phải nêu rõ thế nào là trường hợp "khó khăn khách quan đặc
biệt", để được gia hạn nộp thuế như quy định trong Thông tư 60/TT-BTC.
Hiện chưa có quy chế chỉ đạo, phối hợp thống nhất giữa các bộ, ngành trong công
tác thu hồi nợ thuế; hỗ trợ cơ quan thuế trong việc cưỡng chế để thu hồi nợ, cũng như
chưa có quy trình cưỡng chế nợ đọng thuế; hay để cưỡng chế, cơ quan thuế phải tiến
hành nhiều thủ tục qua các bước rất phức tạp và không tiết kiệm. Cục Thuế TP.HCM cho
rằng, Luật Quản lý thuế quy định có 7 biện pháp cưỡng chế, nhưng tại các nghị định và
thơng tư, thì lại hướng dẫn khác, gây khó khăn cho cán bộ thuế.
1.2.3 Nhận xét về công cụ quản lý thu thuế

Việc chuẩn hóa dữ liệu, số liệu của doanh nghiệp để xác lập đưa vào hệ thống phục
vụ phân tích, truy cập… chưa được xây dựng thống nhất;


Các phần mềm ứng dụng còn lỗi; ứng dụng QHS (phần mềm theo dõi nhận, trả hồ
sơ thuế) chưa hoàn toàn phù hợp, nên phần lớn các chi cục thuế phải sử dụng phần mềm
tự viết, hoặc phải chạy song song cả hai phần mềm, rất khó khăn cho vận hành và kết nối
thông tin. Việc ứng dụng tin học hỗ trợ quá trình theo dõi nhận và trả hồ sơ chưa kết xuất
theo yêu cầu, điều này gây khó khăn cho bộ phận "một cửa" khi theo dõi, đánh giá việc
thi hành của bộ phận khác.
2. CÁC KIẾN NGHỊ CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM
2.1

Điều kiện kinh tế cho việc kiến nghị

2.1.1 Môi trường kinh tế trong nước
Cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những khó
khăn nhất định. Cơ cấu kinh tế nơng nghiệp vẫn cịn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; đối
với khu vực tư nhân mặc dù sự đóng vào GDP ngày càng tăng, song phần lớn là những
cơ sở kinh doanh nhỏ và ẩn nấp nhiều hoạt động phi chính thức, khơng ổn định; tỷ lệ tiền
lương còn chiếm trong tổng thu nhập quốc gia nhỏ. Tất cả những đặc điểm này làm giảm
đi khả năng xây dựng một hệ thống thuế dựa vào những loại thuế hiện đại như thuế thu
nhập và ở chừng mực nhất định là thuế VAT.  
Hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu quả công
tác quản lý thuế. Sự trỗi dậy của khu vực tư nhân trong phát triển kinh tế là đáng ghi
nhận, nhưng do quy mô hoạt động của khu vực này còn nhỏ và phân tán cho nên những
yêu cầu về báo cáo thống kê không được thiết lập một cách có hệ thống. Hơn nữa do
những hạn chế về tài chính, các cơ quan thuế và thống kê có gặp phải nhiều khó khăn
trong việc tổng hợp và đưa ra những số liệu thống kê một cách chi tiết và đáng tin cậy.
Thiếu số liệu tin cậy và cung cấp không kịp thời làm cho những người ra quyết định

chính sách gặp phải nhiều khó khăn trong việc đánh giá sự ảnh hưởng tiềm năng của
những thay đổi cơ bản đến hệ thống thuế hiện hành . 
Nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với cả những khó khăn của biến động kinh tế
thế giới và những hạn chế nội tại trong nước. Những chính sách thắt chặt tiền tệ một mặt
góp phần hạn chế lạm phát nhưng cũng khó khăn cho phát triển sản xuất kinh doanh và
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường tài chính tiền tệ cũng bộc lộ những yếu kém cố
hữu và đang chịu ảnh hưởng gia tăng từ thị trường tài chính quốc tế.
Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất
lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ. Trong khi đó, tình hình chi ngân sách có
những bất cập, cụ thể là việc xác định các công trình trọng điểm và xếp thứ tự ưu tiên các
dự án chưa được đánh giá đúng mức, dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn vốn hoặc chậm
phát huy hiệu quả nguồn vốn, lãng phí về vật chất, lãng phí về đất đai khi bị thu hồi, lãng
phí về trang thiết bị đã được lắp đặt, không phát huy được hiệu quả xã hội, nhất là các
cơng trình có liên quan đến các hoạt động của đời sống xã hội.
Khung thuế suất với nhóm khống sản kim loại hiện hành cịn thấp. Trong khi
đó, giá cả thị trường các khống sản kim loại đã tăng đột biến khiến các tổ chức, các nhân
khai thác tràn lan, vượt quá mức cho phép, làm suy thối nguồn tài ngun và gây ơ


nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khoảng 40 doanh nghiệp FDI trong nghiên cứu của viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) thừa nhận rằng, họ không quan tâm đến
môi trường. Tới 80% doanh nghiệp FDI không đầu tư trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi
trường, 60 – 81% doanh nghiệp không chịu chi cho hoạt động bảo vệ mơi trường hàng
năm.
Có 3.000 doanh nghiệp trên cả nước “tranh nhau” tham gia khai thác khoáng sản,
than đá, dầu thơ vì những nguồn lợi khổng lồ. Tình trạng “tranh nhau” có từ khi Trung
ương phân cấp cấp phép khai thác mỏ cho địa phương. Hậu quả là tài nguyên cạn kiệt,
mơi trường suy thối, thất thu thuế,…
2.1.2 Mơi trường kinh tế quốc tế
2.1.2.1 Các cam kết cắt giảm thuế khi đã gia nhập WTO

Hơn hai năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) chưa đủ dài để đánh
giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của hội nhập đối với nền kinh tế Việt Nam. Tác động
của hội nhập trong nhiều nội dung cịn mang định tính. Theo báo cáo mới đây của Chính
phủ về tác động hội nhập đối với nền kinh tế sau gia nhập WTO, tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu năm 2007, đầu năm 2008 là khá cao, song chưa có sự bứt phá so với các năm
trước và như kỳ vọng. Trong khi đó, nhập khẩu gia tăng mạnh dẫn đến nhập siêu lớn.
Các cam kết khi gia nhập WTO phải thực hiện đặc biệt là mở cửa thị trường. Cắt
giảm thuế mức bình qn tồn biểu từ 17,4% xuống cịn 13,4% thực hiện trong vịng 5-7
năm. Thuế bình qn nơng sản giảm từ 23,7% xuống cịn 20,9% trong vịng 5 năm. Thuế
bình qn cơng nghiệp giảm từ 16,8% xuống cịn 12,7% trong 5-7 năm. Khoảng 1/3 biểu
thuế phải cắt giảm, chủ yếu các dịng thuế có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu
như nông sản, xi măng, sắt, thép, ôtô…vẫn giữ được mức bảo hộ nhất định. Một số mặt
hàng cắt giảm lớn nhất là dệt may, thủy sản, gỗ và giấy.
2.1.2.2 Các cam kết cắt giảm thuế của khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Hàn Quốc
Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc có hiệu lực từ đầu tháng 6/2007,
theo đó nước này sẽ miễn thuế cho gần 8.000 dịng thuế từ Đơng Nam Á. ASEAN cũng
sẽ giảm thuế cịn 0-5% cho 45% danh mục hàng hóa có xuất xứ từ Hàn Quốc.
Vào năm 2015, Việt Nam sẽ cắt giảm hầu hết danh mục thuế quan AKFTA xuống
cịn 0-5%. Một năm sau sẽ miễn thuế hồn tồn, trừ vài dòng thuế linh hoạt.
Tổng kim ngạch thương mại 2 chiều giữa Việt Nam – Hàn Quốc trong 9 tháng đầu
năm 2008 đạt 4,59 tỷ USD, tăng 33% so cùng kỳ.
2.1.2.3 Xu hướng cải giảm thuế TNDN để tăng sức cạnh tranh của các nền kinh tế
trong khu vực.
Thuế chỉ xếp thứ 4 trong trong 5 yếu tố cơ bản để thu hút đầu tư (đứng sau cơ sở hạ
tầng, thủ tục hành chính và chất lượng lao động) do vậy các nền kinh tế trên thế giới đều
tìm cách tăng sức cạnh tranh bằng cách giảm thuế.
Mức thuế suất TNDN trung bình của các nước trên thế giới hiện vào khoảng 27%.
Như vậy, so với các nước trên thế giới thì mức thuế 25% của Việt Nam khơng hấp dẫn



hơn, trong khi cả 2 trong 5 yếu tố quan trọng thu hút đầu tư nước ngoài là cơ sở hạ tầng
và nguồn nhân lực được Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho là những thách thức trong
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Hàn Quốc vừa hạ thuế TNDN cao nhất từ 25% xuống 20% (Hàn Quốc có 2 mức
thuế TNDN là 13% và 20%). Cịn trước đó, Singapore đã hạ thuế TNDN từ 20% xuống
19% và Trung Quốc đã hạ thuế TNDN từ 33% xuống 25% (thuế TNDN của Trung Quốc
cũng có hiệu lực từ ngày 1/1/2009).
2.2

Quan điểm, mục tiêu cải cách

Chính sách thuế, phí và lệ phí (sau đây gọi chung là chính sách thuế) phải là công
cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, động viên được các
nguồn lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất; khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới
công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền
vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà nước, đảm
bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích luỹ phục vụ
sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo tỷ lệ động viên về thuế vào
ngân sách nhà nước bình quân hàng năm đạt từ 20% - 21% GDP.
Chính sách thuế phải thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm được yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có
thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
Chính sách thuế phải tạo môi trường pháp lý bình đẳng, cơng bằng. áp dụng hệ
thống thuế thống nhất không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai; tách
chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế.
Nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc

phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững
mạnh.
2.3

Các kiến nghị

2.3.1 Cải cách hệ thống chính sách thuế:
Ban hành mới các sắc thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân
biệt đối xử; thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất.
Việc ban hành và thực hiện các sắc thuế mới trên đây phải chú ý đến đối tượng,
mức độ và thời điểm áp dụng cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước,
đảm bảo ổn định sản xuất, thị trường và đời sống nhân dân.


Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế hiện hành; tăng dần tỷ trọng các nguồn thu
trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng diện thuế trực
thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng số thu về thuế.
2.3.2 Cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt, việc sửa đổi cần tập trung vào mở rộng phạm vi áp dụng; áp
dụng mức thuế suất hợp lý và phù hợp với lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một
số nhóm mặt hàng, đồng thời nghiên cứu việc áp dụng thuế tuyệt đối để đảm bảo tính đơn
giản và hữu hiệu trong việc chống gian lận thương mai và trốn thuế.
Bổ sung đối tượng vào diện chịu thuế và tăng thuế suất thuế TTĐB đối với hầu hết
các mặt hàng, dịch vụ thuộc diện xa xỉ, như: rượu, bia, ô tô, mô tô phân khối lớn, máy
bay, du thuyền, kinh doanh vũ trường, massage, karaoke, casino, sân golf...
2.3.3 Thuế tài nguyên
Điều chỉnh nâng khung thuế suất sẽ chủ yếu đối với tài ngun khống sản kim loại
có giá trị kinh tế cao và không tái tạo được nhằm góp phần hạn chế việc khai thác tài
nguyên nguyên khai quá mức, khuyến khích đầu tư chế biến quặng tinh nhằm bảo vệ
nguồn tài nguyên.

Việc nâng thuế suất thuế tài ngun và phí bảo vệ mơi truờng trong hoạt động khai
thác khống sản có tác dụng hạn chế việc khai thác tràn lan, tăng thu cho ngân sách địa
phương để có nguồn kinh phí cho việc cải tạo mơi trường, sửa chữa hạ tầng quanh khu
vực khai thác. Đồng thời buộc các doanh nghiệp phải tính tốn khai thác tiết kiệm, hiệu
quả để giảm chi phí và tập trung đầu tư vào chế biến sâu, qua đó góp phần bảo vệ tài
nguyên và nâng cao giá trị tài nguyên.
2.3.4 Thuế nhà đất:
Quy định về thuế và cách tính thuế rất rõ ràng dễ hiểu. Người dân, người sử dụng
đất và cơ quan thuế dễ dàng tính ngay được mức thuế phải đóng hàng năm. Quy định rõ
ràng sẽ hạn chế được những tiêu cực nếu có từ nhân viên thu thuế.
Qui định đất đang sử dụng ở vị trí thuận lợi sẽ có giá cao hơn và do đó mức thuế sử
dụng đất cũng sẽ cao hơn những nơi khác có vị trí khơng thuận lợi. Sự cơng bằng này
cũng được thể hiện ngay trong quá trình giải toả đền bù, đơ thị hố.
Xây dựng hệ thống chun về định giá tài sản bởi chỉ khi nào định giá đúng thì
chúng ta mới đánh thuế đúng được và mới đảm bảo được sự công bằng cho mọi người
dân.
Xây dựng luật thuế nhà, tách thuế nhà ra khỏi thuế nhà, đất.
2.3.5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất
Khắc phục tình trạng cào bằng trong việc nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, qui
định những trường hợp có thu nhập từ việc sang nhượng mới nộp thuế thu nhập và thu
nhập càng cao thì nộp thuế càng nhiều theo phương thức lũy tiến.


 Giá đất tính thuế chuyển quyền sử dụng đất: qui định giá đất tính thuế chuyển
quyền sử dụng đất là giá thực tế ghi trên hóa đơn hoặc hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, nhưng không được thấp hơn giá đất do UBND tỉnh quy định áp dụng tại thời
điểm chuyển quyền sử dụng đất.
Từ thực tế này dẫn đến việc gia tăng và tồn tại chủ yếu hoạt động mua bán “trao
tay” hoặc lập hai hợp đồng mua bán, trong đó có một hợp đồng giả giảm giá bán để trốn
thuế. Cịn đối với khu vực đất nơng thơn lại diễn ra tình trạng mua bán bằng giấy viết tay,

không qua giao dịch để tránh nộp thuế.
Ban hành chính sách thuế đồng bộ, nhất quán, tránh cùng một thời điểm thu như
nhau, cùng một diện tích đất, vị trí đất cũng như nhau mà căn cứ để tính thu khác nhau
2.3.6 Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Với mục tiêu nâng cao dần cuộc sống người dân nghèo chuyên canh nơng nghiệp,
Nhà nước ta có lẽ nên tăng cường kiểm tra giám sát, quản lý chặt, không để xảy ra tình
trạng bớt xén của người dân như thực trạng ở một số địa phương hiện nay.
Tiến tới bỏ hẳn thuế sử dụng đất nông nghiệp do số tiền thu thuế không cao trong
khi kinh tế khu vực nông thôn còn kém phát triển hơn thành thị.
2.3.7 Thuế xuất nhập khẩu
Tăng cường công tác quản lý mã số thuế, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
thật gắt gao, chặt chẽ. Cần có chế tài mạnh tay hơn nữa đối với những cán bộ hải quan,
những đối tượng thông đồng gây thất thu thuế lớn cho nhà nước như vậy
Kiện toàn hệ thống văn bản pháp lý nhất quán từ cấp bộ cho tới cấp tổng cục xuống
các cục, chi cục hải quan
2.3.8 Thuế giá trị gia tăng
Bỏ chế độ khấu trừ khống thuế GTGT : xuất phát từ mục đích hỗ trợ bà con nơng
dân tiêu thụ nơng sản thực phẩm và đẩy mạnh xuất khẩu, chính phủ quy định đối với các
trường hợp thu mua hàng nông sản của người trực tiếp sản xuất bán ra khơng có hố đơn
nhưng có bảng kê thì được khấu trừ thuế GTGT theo tỷ lệ 1% - 2%; thực chất đó là
khoản trợ giá của nhà nước đối với các mặt hàng nông sản của nông dân nhưng thực tế
các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu không mua trực tiếp hàng nông sản của nông dân
mà thu mua qua thương lái cịn bảng kê chỉ là hình thức do đó người nơng dân khơng
được hưởng lợi gì từ chính sách khấu trừ thuế của Nhà nước. Vì vầy cần phải bãi bỏ chế
độ khấu trừ khống thuế GTGT.
Về diện hàng hoá, dịch vụ khơng chịu thuế GTGT: để đảm bảo tính liên hoàn
trong việc khấu trừ thuế đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp, cần rà soát số hàng hoá, dịch
vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT để chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm
đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh
doanh. Bên cạnh đó cũng cần  bổ sung cụ thể hố các dịch vụ tài chính mới chưa được

quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,
quyền chọn mua, bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao


dịch chuyển nhượng vốn để đảm bảo cơ sở pháp lý trong q trình thực hiện và phù hợp
với thơng lệ quốc tế.
Về thuế suất thuế GTGT: áp dụng một mức thuế suất ngoài thuế suất 0% áp dụng
đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu để đảm bảo cơng bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản
trong việc áp dụng thuế. Rà soát lại diện áp dụng mức thuế suất 5% để phù hợp với thực
tiễn. Phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5% và 10%: vừa theo tên hàng hố, dịch
vụ, vừa theo cơng dụng hàng hố, dịch vụ, vừa theo tính chất của hàng hố, dịch vụ, phân
định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
Tiến dần đến việc áp dụng thống nhất một mức thuế suất khoảng 10% cho tất cả
hàng hóa, dịch vụ trừ hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%. Lộ trình
áp dụng thuế suất cần thiết phải được thực hiện công khai cho mọi người nộp thuế được
biết để có đủ thời gian chuẩn bị nhằm thay đổi chiến lược phát triển kinh doanh phù hợp
chính sách thuế suất mới.
Về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế :
Cải cách lớn về cơ chế quản lý tiền tệ. Bắt buộc các quan hệ mua bán, trao đổi hàng
hóa, dịch vụ phải thanh toán bằng chuyển khoản, hạn chế đến mức thấp nhất hình thức
thanh tốn bằng tiền mặt như hiện nay
Nhằm quản lý chặt chẽ việc hoàn thuế, cần thiết phải thu hẹp đối tượng hoàn thuế,
chỉ nên áp dụng cơ chế này cho các đối tượng: Các cơ sở kinh doanh hàng xuất khẩu
được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%; cơ sở có đầu tư tài sản cố định phục vụ sản xuất
kinh doanh phát sinh số thuế GTGT đầu vào của tài sản lớn. Đồng thời, qui định rõ hơn
và chặt chẽ hơn điều kiện hoàn thuế, thời gian xem xét hoàn thuế phù hợp hơn.
Áp dụng thống nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ. Các cơ sở
kinh doanh thuộc diện nộp thuế GTGT bắt buộc phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế
toán, hóa đơn, chứng từ. 
Chỉ áp dụng khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào có

hóa đơn GTGT và thuế GTGT nộp ở khâu nhập khẩu dùng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT.
Về hình thức, văn bản thuế GTGT:
Cải cách việc ban hành văn bản, qui định về quản lý thuế trong Luật thuế GTGT,
tránh trùng lắp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật. Bên cạnh, cần
sớm sửa đổi Bộ luật hình sự theo hướng tăng mức hình phạt đối với tội danh trốn thuế
hoặc giả mạo chứng từ để chiếm đoạt tiền ngân sách nhà nước, bổ sung một số chế tài xử
lý hình sự cịn thiếu đối với các tội danh mới phát sinh, nhất là tội mua bán hóa đơn, in
hóa đơn giả.
Cải cách về qui trình nghiệp vụ và thủ tục hành thu là nội dung cốt yếu nhất, đồng
thời nó cịn là một u cầu bức xúc trong tình hình hiện nay, nhằm hạn chế thất thu thuế
ở mức thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách nhà nước và từ đó
nâng cao trình độ quản lý thuế của Việt Nam ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu


vực. Đổi mới công tác quản lý thuế cần tập trung các vấn đề chủ yếu sau: Thực hiện tốt
công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế, thường xuyên và đẩy mạnh công tác
thanh tra, kiểm tra về thuế, đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hầu
hết các khâu quản lý thuế, tăng cường cơng tác quản lý hóa đơn nhằm ngăn chặn các
hành vi vi phạm qui định về quản lý, sử dụng hóa đơn và ngày càng nâng cao quyền hạn,
trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế... 
2.3.9 Thuế thu nhập cá nhân:


Khấu trừ thuế tại nguồn:
Khấu trừ tại nguồn là một giải pháp để thực thi hiệu quả luật thuế thu nhập cá nhân.

Chìa khố của sự thành công trong việc quản lý và thu thuế TNCN là công tác khấu
trừ tại nguồn. Do vậy, ở một số nơi như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, cơ quan quản
lý thuế sẽ xử phạt rất nặng đối với những đơn vị nào không thực hiện khấu trừ tại nguồn

khi chi trả thu nhập cho người lao động…


Thanh toán, chi trả khơng dùng tiền mặt

 Để Luật Thuế TNCN (có hiệu lực thi hành vào năm 2009) thực sự đi vào cuộc
sống thì phải nhanh chóng xây dựng chế độ thanh tốn khơng dùng tiền mặt trong tất cả
các loại giao dịch của nền kinh tế xã hội.
Đó là việc xây dựng cơ sở dữ liệu đối tượng nộp thuế theo cơ chế thanh toán qua
ngân hàng cho các loại thu nhập chịu thuế. Trong đó cần có sự hỗ trợ của hệ thống tài
chính - ngân hàng nhà nước cũng như ngân hàng thương mại trong việc kiểm soát mã tài
khoản của từng cá nhân, đồng thời sớm xây dựng thí điểm chương trình quản lý thuế
TNCN bằng máy vi tính, thơng qua hệ thống cơ sở dữ liệu, phần mềm trợ giúp.
Có như thế, mọi thu nhập chịu thuế của đối tượng nộp mới nằm trong “tầm ngắm”
của cơ quan thuế, khi đó các nguồn thu nhập sẽ nhanh chóng được điều tiết và chống thất
thu cho ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, các vấn đề về quản lý TNCN từ tiền lương, tiền công của người lao động
cũng cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ từ các cơ quan chức năng, trong đó đặc biệt là việc
xử lý hoặc truy tố hình sự thật nghiêm khắc đối với hành vi trốn thuế, không khấu trừ
thuế tại nguồn, không đăng ký kê khai thuế…
2.3.10 Thuế TNDN
Đề nghị giảm thuế suất thuế TNDN xuống 20% hoặc tối đa là 22% nhằm nâng cao
sức cạnh tranh của môi trường đầu tư, động viên DN sản xuất - kinh doanh, khuyến khích
cá nhân và hộ gia đình đang kinh doanh và nộp thuế thu nhập cá nhân chuyển sang thành
lập DN. Điều này cũng phù hợp với chủ trương của Chính phủ là tăng số lượng DN từ
300.000 hiện nay lên 500.000 vào năm 2010 và 5 triệu DN vào năm 2020
“Có thể nói, mọi yếu tố thu hút đầu tư của Trung Quốc đều hơn Việt Nam (trừ thuế
TNDN), bây giờ Trung Quốc hạ thuế xuống bằng mức thuế mà chúng ta dự kiến thì phải
cân nhắc lại mức thuế 25%, bởi chúng ta phải cạnh tranh trực diện với Trung Quốc trong
thu hút đầu tư nước ngoài cũng như cạnh tranh trên thị trường hàng hóa”, Viện trưởng




×