Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

ảnh hưởng phật giáo qua quá trình hội nhập văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.69 KB, 34 trang )

Đặt vấn đề
Trong thời đại tân tiến ngày nay, hình như chúng ta có thể thụ hưởng tất
cả mọi điều chúng ta muốn nếu chúng ta siêng năng làm việc và có tiền. Tiền
bạc chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều tiện nghi văn minh, có thể giúp
chúng ta thâu ngắn giờ làm việc và tìm thấy nhiều thú vui trong cuộc sống hàng
ngày. Tuy nhiên đồng thời, chúng ta thấy rằng những tiện nghi tân tiến đó
không giải quyết được những vấn đề thiết yếu cho đời sống chúng ta. Một số
đông người đang đau khổ vì những lo nghĩ vật chất cũng như tinh thần đã làm
lay chuyển căn bản cuộc sống của họ. Ðời sống chúng ta còn luôn bị đe dọa
không dứt bởi những làn sóng bất an và sợ hãi. Người hôm qua chúng ta gặp có
thể bị tai nạn và chết hôm nay. Và ngày mai, một trận thế chiến khác biết đâu
lại chẳng xảy ra để tận diệt toàn thể chúng ta.
Mọi lý thuyết Thần Học về những quyền lực siêu nhân của họ tìm thấy
qua sự chữa lành bệnh nhân và các phép lạ không dể dàng chứng thực trong đời
sống hằng ngày của chúng ta. Do đó, chúng trở nên càng khó hiểu và thực hành.
Nhiều người đã không thỏa mãn nên khao khát đi tìm một vài giải đáp chân
chính cho những vấn đề thắc mắc trong cuộc, có thể thỏa mãn cả hai mặt tinh
thần và tình cảm của họ; nhưng họ đã không tìm thấy điều đó trong các tôn giáo
cổ truyền và đành bỏ chúng để hy vọng tìm câu giải đáp trong những thế giới ăn
chơi dục vọng. Tuy nhiên, họ đã thất bại không tìm ra ý nghĩa cuộc sống qua
những cảnh giới hoan lạc nói trên và tinh thần họ trở nên những kẻ cuồng loạn
không còn có thể đương đầu với mọi vấn đề sự sống khách quan của họ nữa.
Ðức Phật đã giác ngộ sâu xa rằng tất cả chúng sanh hữu tình đều có
chung ý muốn ham sống và sự thể hiện nó trong những hoàn cảnh riêng của mỗi
người. Mọi người đều gắn liền với thực tại và họ chỉ có thể sống còn nhờ nương
vào sự sống của những kẻ khác. Cho nên cuối cùng, đức Phật tin tưởng rằng
1
1
con đường duy nhất chúng ta có thể áp dụng mà không làm hại lẫn nhau là thực
hiện sự đồng nhất căn bản của mọi cuộc sống. Thế giới chúng ta không gì khác
hơn ngoài sự thể hiện tánh đồng nhất của cuộc sống trong đó mọi chúng sanh,


hữu tình cũng như vô tình đều mật thiết tương quan sinh tồn.
Khi một vị đệ tử của đức Phật hỏi: “Ngài có phải là Thượng Ðế không?”. Ðức
Phật trả lời: “Không”. “Là một bậc Thánh?”. “Không”. “Vậy Như Lai là người
thế nào?”. Ðức Phật đáp: “Ta là người đã giác ngộ”. Câu trả lời của đức Phật đã
trở thành danh hiệu của Ngài, bởi đây là điều đức Phật đã thuyết bày.
Cho nên chúng ta là những vị Phật sẽ thành, và đức Phật với chúng sanh
đều có tương quan liên hệ, nghĩa là trong Phật có chúng sanh và trong chúng
sanh có Phật. Ðây không phải là một cảnh giới huyền bí hay ảo tưởng riêng
dành cho những kẻ siêu phàm mới có thể đạt được, mà là một cuộc sống thông
thường chúng ta có thể thực hiện trong đời sống hằng ngày. Giáo lý đức Phật
không phải tìm thấy bởi sự suy luận hay tranh biện mà do ở kinh nghiệm trực
tiếp được xây dựng trên chân lý của những luật nhân qủa. Ðức Phật dạy: “Giáo
lý của Như Lai không gì khác ngoài lời dạy cuộc sống là khổ đau và phương
pháp diệt trừ đau khổ”. Lời dạy của Ðức Phật do đó rất thực dụng và khoa học
cùng luôn luôn liên hệ đến những vấn đề sự sống và năng lực phát triển tinh
thần của chúng ta.
Khi đức Phật sắp nhập diệt, Ngài đã truyền dạy cho đức A Nan một trong
những đại đệ tử của Ngài như sau: “Này A Nan! Ngươi hãy tự làm ngọn đuốc
cho chính ngươi. Ngươi hãy quay về nương tựa nơi chính ngươi. Ðừng tìm nơi
nương tượng nào khác ở ngoài. Hãy nắm vững chân lý làm ngọn đèn soi sáng
cho ngươi. Hãy nắm vững chân lý làm nơi nương tựa cho ngươi. Hãy tinh tấn
để tự giải thoát” Trải qua hơn 2.500 năm. Phật giáo dù đã được phát triển thành
nhiều hệ thống tư tưởng và học thuyết nhưng không ngoài cứu cánh là khai thị
2
2
cho chúng sanh nhận thức được “Bản Thể Ðồng Nhất Của Sự Sống” qua đức
tính bình đẳng Từ Bi và Trí Tuệ của đức Phật.
Phật giáo đã trở thành 1 tôn giáo không thể thiếu đối với người dân Việt
Nam.Vì vậy chúng ta cần không ngừng nghiên cứu và phát triển Phật giáo hơn
nữa,để Phật giáo trở thành quốc giáo của Việt Nam .

3
3
PHẦN NỘI DUNG
1. Tổng quan về Phật giáo Việt Nam
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả,
giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt
Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua
hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
1.1. Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu:
Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ các hải
cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam lợi dụng được
luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở
khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán
bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương
nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn
và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông
Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ
chân giao lưu của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240
trước Tây lịch, Mahoda-con vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam
(2). Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có
mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ
trước công nguyên 2879-258). Đó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái
vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung
lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo
một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một
4
4
nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết
đến Đạo Phật (3). Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các
tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu trước Tây lịch.

Một bài nghiên cứu của Ngô Đăng Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng
viết: "Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi
có bảo tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch,
Đạo Phật đã được trực tiếp truyền vào nước ta" (4Qua nhiều tài liệu lịch sử và
dựa vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử có thể cho chúng ta một kết luận
chắn chắc rằng Đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt Nam chứ không
thông qua Trung Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cứ
liệu lịch sử chứng minh rằng Đạo Phật đồng thời được truyền vào Việt Nam
qua con đường Đồng Cỏ.
1.2. Phật Giáo du nhập qua con đường Đồng Cỏ:
Con đường Đồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đường bộ còn gọi là con
đường tơ lụa (6) con đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc
Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu
qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng
phương tiện lạc đà. Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng
và các triền sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. Cuốn Lịch
sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát
từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông
Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền
cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông
Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông
Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do
5
5
những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ
vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt
Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Đồng Cỏ có liên quan đến
sự giao lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà
lịch sử còn để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật Giáo

Việt Nam thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại
hội kết tập kinh điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi
nhiều phái đoàn Như Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước
thuộc vùng viễn đông, trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona
được phái đến Suvana -Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về
vùng Kim Địa nhưng ý kiến trong quyển lịch sử Phật Giáo Thế Giới (7) thì cho
rằng vùng Kim Địa này là bán đảo Đông Dương từ Miến Điện kéo dài đến Việt
Nam. Vấn đề này được sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "sử liệu
Phật Giáo Miến Điện chép rằng hai vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến
Miến Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao
tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài
liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua
Asoka, và học giả đó xác định thành Nê Lê chính là Đồ Sơn hiện nay (cách Hải
Phòng khoảng 12km)".
Nói chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng Phật
Giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng những phương
tiện hòa bình và vì thế không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt lệ nào
rơi vì sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam.
2. Những giá trị của học thuyết Phật giáo:
6
6
2.1. Đặc điểm của Phật giáo:
Thứ nhất, đặc điểm của Phật giáo là 'In như sự thật': Lý thuyết, phương pháp,
kết quả đều hợp lý, đều như thật. Phật giáo không chen chủ quan của mình vào
trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận
sau sự suy nghiệm chung thực ấy. Cho nên đạo Phật cũng gọi là Đạo Như Thật.
Đặc điểm thứ hai là 'tôn trọng sự sống'. Không sát sanh, ăn chay, là những điều
tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất cả. Hết thảy
cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy Đạo Phật đặc biệt chú trọngvà
nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn

trọng sự sống.
Đặc điểm thứ ba của đạo Phật là chỉ thừa nhận sự 'tương quan sinh tồn'. Đạo
Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không phải biệt lập. Phật tử
không thấy, không tạo nên một đối phương. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo
một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối.
Đặc điểm thứ tư của đạo Phật là xác nhận 'người là trung tâm điểm của xã hội
loài người'. Đạo Phật không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả đều do
người phát sinh và đều phát sinh vì người. Kết luận này thực tế ở đâu cũng rõ
rệt cả.
Đặc điểm thứ năm của đạo Phật chú trọng 'đối trị tâm bịnh con người trước hết'.
Lý do rất dễ hiểu. Con người là trung tâm điểm của xã hội loài người, xã hội ấy
tiến hóa hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động con người chi phối; mà hoạt
động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy xã hội phản ánh trung
thành của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải
tạo con người, cải tạo tâm bịnh của con người.
7
7
Đặc điểm thứ sáu, mục đích đạo Phật là 'đào luyện con người thành bi, trí,
dũng'. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt
lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ
thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ trở thành gian xảo và
mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư
cách tiến hóa, trí là trí thức tiến hóa, dũng năng lực tiến hóa. Con người như thế
là con người mới, căn bẳn của xã hội mới.
Đặc điểm thứ bảy của đạo Phật là 'kiến thiết một xã hội mới' mà căn bản là con
người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, trở lại vấn đề, là phải chiến
thắng chính mình trước hết.
Đặc điểm thứ tám của đạo Phật là 'tiến lên vô thượng giác'. Đào luyện một con
người mới, kiến thiết một xã hội mới rồi, không phải mục đích của đạo Phật
cứu cánh ở đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người lên chóp đỉnh của sự

tiến hóa là địa vị vô thượng giác, địa vị vô minh toàn diệt, trí tuệ toàn giác, địa
vị Phật đà.
Đặc điểm thứ chín của đạo Phật là đạo Phật dạy phải 'tự lực giải thoát'. Đấy là
một tinh thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo con đường
sáng cho chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình mà soi
đường, phải tự động cặp chân năng lực của mình mà đi.
Đặc điểm thứ mười của đạo Phật là 'hiện chứng thể nghiệm'. Đức Phật chỉ
hướng dẫn chúng ta, chứ chân lý không phải là thứ đem quay phim cho người
thấy được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai dạy khôn cho
ai. Cho nên đối với chân lý tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể
nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi, mà còn
8
8
đặc biệt chú ý đến sự hiện chứng. Đối với chân lý chưa hiện chứng, chúng ta
chỉ nói học, không nói biết. Tinh thần tu chứng đạo Phật l
2.2.Nhân sinh quan Phật giáo:
2.2.1. Thuyết luân hồi là gì?
Phật giáo chủ trương “thuyết luân hồi”, hễ chúng sinh nào chưa được
giác ngộ đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ sống chết. Do đó, con người
mới phải trải qua hàng ngàn, hàng vạn cuộc đời. Thậm chí có người kiếp trước
chỉ là động vật như trâu, bò, lợn, chó, rắn rết nhưng chúng ta chưa được giác
ngộ thực sự, chưa hiểu điều đó một cách trí tuệ nên không biết đó thôi.
Mọi người đều biết “không sát sinh” là giới cấm của Phật giáo. Phật giáo
chủ trương mọi chúng sinh trong thế gian này đều phải bình đẳng, chính vì vậy
con người cần phóng sinh những động vật nhỏ, yếu; không được đang tâm chà
đạp chúng.
2.2.2. Phật giáo phủ định thuyết định mệnh
Thế nào là thuyết định mệnh? Nói giản đơn là con người sinh ra ở đời
lành, dữ, phúc, hoạ đều là do định sẵn từ trước không thể nào thay đổi được.
Những người tin vào thuyết định mệnh cho rằng tất cả đều do trời xếp đặt kể cả

việc sống và chết. Người đã có số thì dù có cố gắng đến đâu cũng không thể
thay đổi được số mệnh của mình. Ví dụ số đã không nghèo thì dù có tiêu pha
hoang phí đến đâu cũng không thể nghèo đi. Hoặc người hay làm điều ác thì số
đã giàu có phong lưu cũng không vì thế mà gặp nghiệp chướng.
9
9
Phật giáo kịch liệt bác bỏ học thuyết định mệnh đó và khẳng định: “Hễ
cố gắng phần nào vất vả thì được phần thu hoạch đó” hay “gắng sức thì không
phí công!”
Phật giáo cho rằng tiền đồ và định mệnh của một cá nhân tốt hay xấu đều
do việc làm hiện nay của mình quyết định. Nói khác đi là tiền đồ của mình
nằm trong tay mình. Ðây là một quan niệm hết sức tiến bộ vì nó thể hiện được
một thế giới quan khoa học nhìn nhận thế giới và hành vi của con người.
2.2.3. Thuyết “Nhân quả”
Học thuyết “Nhân quả” của Phật giáo, đó là một giáo lý có tinh thần đặc
sắc và tinh hoa. Theo Phật giáo thì “làm lành được lành, làm ác bị ác báo, nếu
không chịu quả báo là do thời gian chưa đến mà thôi". Điều đó chứng tỏ
những người ăn ở hiền lành mà chịu cuộc sống bất hạnh không phải là việc
nhân quả báo ứng sai mà vì người này trước kia đã từng làm nhiều việc ác mà
đến đời này phải chịu quả ác đó. Phật giáo còn cho rằng việc báo ứng nhân quả
có khi đời này làm thì đời này sẽ báo ứng, có khi phải đến đời sau hoặc sau
nhiều đời mới có báo ứng. Người xưa đã từng nói: “Thiện ác cuối cùng tất sẽ
báo ứng, đạo trời vốn luân hồi, không tin thì ngẩng đầu lên xem, trời xanh
đâu có buông tha ai?”
2.2.4. Quan niệm của Phật giáo về hạnh phúc thật sự của loài người
Con người muốn được an lạc thực sự đại khái phải thoả mãn được các
yêu cầu sau đây:
_Tâm thần thanh thản, không phiền não.
10
10

_Ðối với những khổ đau trước mắt thì tuỳ cảnh ngộ mà giải quyết ổn
thoả, không oán trời trách người.
_Ðối với các vấn đề vũ trụ, nhân sinh được giải đáp hợp lý.
_Ðối với tương lai (đời sau) có đáp án thoả đáng.
_Tiền đồ, vận mạng, cuộc đời, thành bại, vui khổ của mình không được
do người khác thao túng.
2.2.5. Thế giới vĩ mô và vi mô của Phật giáo
a) Vũ trụ quan của Phật giáo.
Phật giáo cho rằng 1000 thái dương hệ hợp thành 1000 tiểu thế giới 1000
tiểu thế giới hợp thành 1000 trung thế giới và 1000 trung thế giới hợp thành
1000 đại thế giới gọi là một quốc độ Phật (nơi mà Phật giáo hoá). Như vậy là
một quốc độ Phật có bao nhiêu thái dương hệ? Có tất cả là 1000
3
bằng
1.000.000.000 thái dương hệ, tương đương với một tinh vân thiên văn học
Thế thì trong vũ trụ cuối cùng có bao nhiêu quốc độ Phật? Kinh A di đà
nói rõ: “Từ Tây phương vượt qua 10 vạn triệu triệu quốc độ Phật có thế giới
gọi là cực lạc!” nghĩa là từ trái đất ta ở Cực lạc Tây Phương có đến 10 vạn ức
Phật độ. Cho nên Đức Phật Thích Ca nói: “10 phương hư không là vô cùng tận,
thế giới là mênh mông không bờ bến” (10 phương hư không đồng nghĩa với chữ
“Thái không” mà ta thường nói). Ðiều này nói với chúng ta rằng, trong hư
không có vô vàn hành tinh không kể xiết, hư không là mênh mông, không bờ
bến.
11
11
Nếu không phải là một bậc “tiên tri, tiên giác” có một trí tuệ vĩ đại uyên
bác như vậy thì không sao miêu tả được bộ mặt thật về vũ trụ vĩ đại, thần bí,
bao la mênh mông như thế.
b) Trong một bán ước có 8 vạn 4 ngàn chúng sinh
Khi đức Phật thuyết pháp. Người đã báo rất rõ cho chúng ta biết rằng:

“Chúng sinh trong vũ trụ là không thể đếm được, là không thể tưởng tượng
được”. Ngoài trái đất chúng ta ở có chúng sinh ra vô vàn hành tinh trong vũ trụ,
cũng có chúng sinh mà chúng ta không thấy được. Đức Phật chỉ một bát nước
trên bàn nói: “Trong bát nước này có 8 vạn 4000 chúng sinh” (có nghĩa là số
lượng rất nhiều).
Cách đây 2500 năm, Thích Ca Mâu Ni không hề dùng kính hiển vi quan
sát mà nói được ra một sự thực phù hợp với khoa học hiện đại, thực đáng để
chúng ta khâm phục.
2.2.6. Ngũ phúc là gì?
Ngũ Phúc, danh từ này nguyên ở trong thiên “Hồng Phạm” của Kinh
Thư. Bây giờ đã trở thành từ ngữ mà mọi gia đình đều biết. Hầu như ai ai đểu
quen thuộc thành ngữ “ngũ phúc lâm môn”. Nhưng rất ít người bìết cái mà ngũ
phúc là chỉ 5 loạì ngũ phúc nào. Còn nói về nguyên lý của ngũ phúc lâm môn,
người hiểu nó lại càng ít.
Phúc thứ nhất là “trường thọ”, phúc thứ hai là “phú quý”, phúc thứ ba là
“khang ninh”, phúc thứ tư là “hiếu đức”, phúc thứ năm là “thiện chung”.
Trường thọ là không bị chết non, phúc thọ là lâu dài.
12
12
Phú quý là tiền của rất nhiều, địa vị tôn quý.
Khang ninh là thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên lành.
Hiếu đức là tính lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh.
Thiện chung là có thể tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung
không gặp tai họa, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương
vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian.
1.3. Đạo đức Phật giáo:
1.3. 1 .CÁC NÉT KHÁI QUÁT VỀ CƠ SỞ ÐẠO ÐỨC PHẬT GIÁO
1.31.1 Phật giáo đặt trọng tâm vào con người:
Trên con đường giải thoát khổ đau, Phật giáo dạy con người quay trở về nương
tựa mình trong hiện tại và tại đây. Ðức Phật dạy:

"Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp”
"Ngươi là hòn đảo là nơi nương tựa của chính ngươi"
Giáo lý nhân quả nghiệp báo xác định rõ con người là chủ nhân của nghiệp và
là kẻ thừa tự của nghiệp. Thế nên, địa bàn chính để đoạn trừ khổ đau là chính
mỗi người trong hiện tại và tại đây. Nếu khổ đau phát sinh từ đó, thì cũng từ đó
phát sinh sự dập tắt khổ đau, hay phát sinh hạnh phúc.
1.3.1.2 Tính thiết thực hiện tại của sự đoạn khổ sinh lạc:
Ðức Phật đã nhiều lần xác định Ngài ra đời chỉ vì lợi ích, an lạc cho Chư thiên
và loài người chỉ vì lòng thương tưởng cuộc đời. Giáo lý nền tảng của Phật giáo
13
13
là Tứ đế chỉ đưa ra vấn đề khổ đau và con đường giải quyết khổ đau. Câu
chuyện nắm lá Simsàpa và câu chuyện mũi tên độc là các ảnh dụ nhấn mạnh
vào tinh thần thực tế và thực tiễn khẩn thiết loại bỏ khổ đau khỏi con người và
cuộc đời.
1.3.1.3 Tinh thần Bi, Trí, Dũng:
Trên đường loại bỏ khổ đau, chánh kiến (hay trí tuệ, bao gồm chánh tư duy)
luôn luôn dẫn đầu các pháp hành. Hành giả trước nhất cần nhận rõ thực trạng
khổ đau và các nguyên nhân gây khổ đau để nhận ra con đường loại bỏ chúng.
Thiếu nó thì hành giả sẽ đi chệch hướng giải thoát.
1.3.1.4 Mục tiêu là hạnh phúc, giải thoát ngay tại đời này:
Ðức Phật chỉ dạy khổ và con đường đoạn tận khổ có nghĩa là chỉ nói đến hạnh
phúc và sống đời sống tâm thức hạnh phúc ngay trong hiện tại, tại đây, ở trên
đời này.
Mỗi bước đi của bố thí, trì giới, thiền định và trí tuệ là mỗi bước đi ra khỏi các
tác nhân gây rối loạn tâm lý, và đi vào an lạc, hạnh phúc của tâm giải thoát và
tuệ giải thoát.
1.3.1.5 Nhận thức cơ bản của nền đạo đức Phật giáo:
Giáo lý Duyên khởi và Ngũ uẩn xác định con người là một tập hợp thể của 5
yếu tố: sắc uẩn (vật lý), thọ, tưởng, hành, thức (tâm lý). Không có một ngã thể

là tự ngã, linh hồn hay tiểu ngã nào có mặt ở đó. Sắc uẩn thì bao gồm tự thân
vật lý, thân tha nhân và thế giới vật lý; thọ uẩn thì bao gồm các cảm thọ thiền
định và các cảm thọ từ các căn xúc tiếp với các trần. Tưởng uẩn, thức uẩn và
hành uẩn cùng tồn tại bất khả ly với hai uẩn kia. Như thế, con người hiện hữu
14
14
gắn liền với tha nhân và thế giới. Con người chỉ ổn định khi nào thể hiện được
sự hòa điệu của 5 uẩn ở bên trong và thể hiện hòa điệu với gia đình, xã hội và
thiên nhiên ở bên ngoài.
1.3.1.6 Phật giáo và vấn đề cội nguồn của đạo đức và các chuẩn mức đạo
đức:
Phật giáo không nêu lên vấn đề cội nguồn của mọi hiện hữu, gồm cả cội nguồn
của đạo đức, bởi vì mọi hiện hữu đều duyên sinh, vô tự tính. Nhưng ở mặt
tương đối, Phật giáo ghi nhận có khổ đau do ái, thủ, vô minh gây ra. Vấn đề
thiết thực ở đây là dập tắt mọi nguyên nhân khổ đau ở từng cá thể. Do vậy,
chuẩn mức đạo đức chỉ có thể do các cá thể thể nghiệm và đặt ra, dựa vào hiệu
quả đoạn diệt tham, sân, si. Không thể thiết lập các chuẩn mức đạo đức dựa vào
sự tướng biểu hiện bên ngoài của các hành động, bởi cùng một hành động có
thể do nhiều động cơ thiện, bất thiện tác động khác nhau nên có giá trị đạo đức
khác nhau.
Con đường đạo đức Phật giáo vì thế là con đường tự giác, tự chứng và tự
nguyện. Dù vậy, trước qui luật nhân quả quá mành rành, con người vẫn phải
nghiêm chỉnh hướng dẫn đời sống nội tâm của mình.
1.1.1.7 Kinh nghiệm hạnh phúc - Kinh nghiệm đạo đức:
Dù cho các triết gia, các nhà đạo đức có kinh nghiệm khác nhau về hạnh phúc
và về thế nào để được hạnh phúc, thì tất cả các điểm khác biệt đó vẫn có một
điểm chung cùng rằng: hạnh phúc là một cảm thọ có điều kiện. Ðã là cảm thọ
có điều kiện thì dưới cái nhìn Phật giáo nó là vô thường. Và do vì có mặt lòng
tham trước mà vô thường đem lại khổ đau.
15

15
Cảm thọ hạnh phúc càng mạnh thì thời gian cảm nhận càng nhanh sau đó là một
khoảng trống tâm lý lớn lao, hoặc là đối mặt với một cảm thọ tiếp theo hẳn là
khổ đau - (cảm thọ kém hơn là khổ đau).
Ngay cả khi con người đang ở trong hạnh phúc, thì nỗi lo sợ vô thường xảy đến
cũng đủ gây đau nhức cho tâm thức con người.
3. Hạn chế của Phật giáo:
3.1. Vấn đề luân hồi
Theo Đức Phật chỉ có một hiện thực trường tồn, tự tồn tự tại là cõi niết bàn. Tất
cả những thứ khác, ngay cả vũ trụ là vô thường. Nó có sinh và có tử nhưng
không phải chỉ một lần mà vô số lần. Theo vũ trụ học Phật giáo, là một bản sao
của vũ trụ học Ấn Độ giáo, vũ trụ hiện tại mà ta đang sống là một kiếp trong vô
số chu kỳ của sinh (Nổ Lớn hay Big Bang) và tử (Sập Lớn hay Big Crunch) và
đầu thai (Nổ Lớn hay Big Bang) lập đi lập lại miên viễn. Mô hình vũ trụ này,
theo danh từ khoa học, là mô hình vũ trụ giao động.
Hiện tại, khoa học chấp nhận một mô hình là vũ trụ được bắt đầu với vụ Nổ
Lớn tại một thời điểm xác định trong quá khứ. Trước đó, vũ trụ bốn chiều (cao,
rộng, sâu, và thời gian) không tồn tại. Vũ trụ sẽ chết tại một thời điểm trong
tương lai. Hình thức chết như thế nào thì vẫn còn đang trong vòng tranh cãi; nó
tùy thuộc vào trọng khối của toàn thể vũ trụ. Nếu trọng khối lớn hơn một giá trị
tối thiểu, vũ trụ sẽ chết trong vụ Sập Lớn. Ngược lại, nó sẽ chết trong một Đông
Cứng Lớn (Big Chill) [10] vì nhiệt độ của nó sẽ giảm tới không độ tuyệt đối (0
độ Kelvin). Do đó đời sống của vũ trụ là hữu hạn cũng như của con người chứ
không có luân hồi miên viễn như lời Phật dạy. Thực tế không thể chối cãi này
đã đưa thuyết vũ trụ giao động vào quá khứ cùng với những triết lý liên đới.
16
16
3.2.Vấn đề Trời
Sau khi Hoàng tử Tất-Đạt-Đa Gô-ta-ma đã giác ngộ, một tì kheo đến hỏi người
về một Đấng Tạo Hóa, người không trả lời. Người chỉ so sánh nhân loại như

một người bị trúng tên độc. Trước tiên người ấy phải chữa lành vết thương
trước đã chứ không nên hỏi ai đã bắn mũi tên này, tên làm bằng chất liệu gì,
vân vân. Người nói rằng trước khi tìm ra được câu trả lời, nạn nhân chắc hẳn bị
trúng độc chết . Như vậy, Phật Thích Ca không dạy có cũng không dạy không
có một Đấng Tạo Hóa (Trời). Vấn đề ở đây không phải là có hay không có một
Trời mà là Đức Phật không biết có hay không. Thật không may nhiều người lợi
dụng sự không biết của Phật Thích Ca để lôi kéo người khác chối bỏ Trời. Lý
luận của họ đi từ chỗ không biết về Trời, đến thấy Trời không cần thiết và vì
không cần thiết nên hoàn toàn chối bỏ Ngài.
Ngược lại, thực tế chứng tỏ người Việt không bao giờ quên được Trời. Gần hai
ngàn năm ảnh hưởng . Phật giáo không thể xóa được một chữ nhỏ “Trời” trên
môi miệng của người Việt
Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày
Lưới Trời lồng lộng bao la,
Thưa mà chẳng lọt, chẳng qua mảy nào.
Không nên dối gạt mọi người, Dối người có thể, dối Trời được đâu.
Người biết rõ mạng Trời cao rộng, Thấy lợi to chẳng động lòng tham.
3.3.Lời hứa của Trời
Lời hứa của Phật rằng cõi Niết Bàn:
Giải thoát chúng ta khỏi những giới hạn của con người và cho phép chúng ta
phá ra ngoài cái vỏ của sự ngộ nhận. Trong Niết bàn, đời sống thẩm thấu hết
không gian, đi xuyên qua ba phạm trù của sự tồn tại và bao phủ cả mười hướng.
Trong Niết Bàn, đời sống kéo dài từ cổ đại tới hiện tại không thay đổi và đời
sống luôn luôn mới.
17
17
và:
Người nào thành Phật, thấu rõ sự thật, người ấy có đầu óc tràn đầy trí tuệ sáng
suốt., rõ ràng đã bị thực tế của vũ trụ và thâm tâm của người Việt phủ nhận.
Có ít nhất hai lý do khiến chúng ta đi đến kết luận là Niết Bàn (và Đức Phật)

không phải là chân lý: đó là sau khi nhập Niết Bàn, Đức Phật vẫn không biết về
Trời và tiên đoán thiếu chính xác về vận mạng vũ trụ. Do sự bất kiến này, dân
tộc Việt cần phải đánh giá lại con đường giải thoát mà lâu nay mình vẫn yên trí
là đúng. Thực tế cho biết mọi người, ngay cả Phật tổ, phải đi qua cái chết một
lần. Mỗi giây trôi qua bạn đi gần vào cái chết một chút. Ngày hôm nay bạn có
sự bình an của Chúa ban cho để đối diện với cái chết không?
4. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống người Việt:
4.1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng triết học và đạo lý:
4.1.1.Về tư tưởng:
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế
và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo,
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại.
Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không
những các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả
những hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo
luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần được
phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là
những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên ví như phân bón và nước là tăng
thượng duyên cho hạt lúa. Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện
18
18
làm đối tượng nhận thức, thứ tư là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục
không gián đoạn, cần thiết cho sự phát sinh trưởng thành và tồn tại.
4.1.2.Về đạo lý:
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Đều
này ta thấy rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trải (1380-1442), một
nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng
đạo lý Từ Bi và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại thành công

và rất nổi tiếng trong lịch sử nước Việt. Ông nói điều đó trong Bình Ngô Đại
Cáo rằng:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Tinh thần thương người như thể thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ
rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam như “lá lành đùm lá rách”
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt.
4.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
4.2.1.Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền
thống:
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng
bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Biểu tượng chùa Tứ
19
19
Pháp (17) thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên
Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là tiền
Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị
thành hoàng thổ địa và vị anh hùng dân tộc.
4.2.2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác:
Đó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo
Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc
tính dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưởng
truyền thống của dân tộc Việt.
4.2.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật
Giáo:
Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc
gia Phật Giáo láng giềng. Chẳng hạn như Thái Lan, Tích Lan, Lào, Campuchia
chỉ có Phật Giáo Nam Tông, ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ

thuần tuý chỉ có Phật Giáo Bắc Tông. Nhưng ở Việt Nam thì lại dung hòa và
điều hợp cả Nam Tông và Bắc Tông. Chính vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật
Giáo cộng với tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt Nam mới có được kết
quả như vậy.
4.2.4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xã
hội:
Phật giáo tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có chủ
trương nhập thế, tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh,
Lê, Lý, Trần. Trong các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều
20
20
được mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng
của quốc gia. Trong đó đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh đã có công xây dựng triều
đại nhà Lý khi đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế độ tàn bạo của Lê
Long Đỉnh, ông vua Ngọa Triều còn có biệt danh kẻ róc mía trên đầu sư. Thời
nhà Trần có các thiền sư Đa Bảo, thiền sư Viên Thông điều được các vua tin
dùng trong bàn bạc quốc sự như những cố vấn triều đình.
4.2. 5. Ảnh hưởng Phật Giáo trong đời sống người bình dân và giới trí thức
Việt Nam:
Nhìn chung không khó khăn gì khi ta phăng tìm dấu ấn Phật Giáo trong quan
niệm dân gian và ta có thể phát hiện rằng nếu không có sự hiện diện của Phật
Giáo ở Việt Nam thì ta sẽ mất đi hơn một nữa di tích và danh lam thắng cảnh
mà hiện nay ta tự hào, sẽ không có chùa Hương rộn ràng, nhộn nhịp sầm uất
trong ngày trẩy hội đầu xuân, không có chùa Tây Phương vời vợi, không có
chùa Yên Tử mây mù, không có chùa Keo bề thế, không có chùa Thiên Mụ soi
mình trên dòng sông Hương.Và cũng không có những chuyện dân gian đầy tính
nhân bản như truyện Từ Thức, truyện Tấm Cám, truyện Quan Âm Thị Kính….
Sẽ không có những lễ hội tưng bừng như hội Lim, hội Chùa Hương…. và trong
tâm tư truyền thống cũng vắng tư tưởng bố thí vị tha, lòng hưởng thiện và niềm
tin vững chắc vào một tương lai sáng sủa, vắng tinh thần lạc quan ngây thơ của

người dân Việt.
Quả thật vậy, Đạo Phật đã có mặt ảnh hưởng khắp mọi giai tầng trong ở xã hội
Việt Nam, không những trong giới bình dân mà còn ở trong giới trí thức nữa.
4.3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua gốc độ nhân văn và xã hội
4.3.1.Ảnh hưởng Phât giáo qua ngôn ngữ:
21
21
Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có nhiều
từ ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả
những người ít học. Tuy nhiên không phải ai cũng biết những từ ngữ này được
phát xuất từ Phật Giáo, chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ
lòng thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá". Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ
chuyên môn của Phật Giáo.
Còn nghiều từ ngữ khác như từ bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối đã được người dân
Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự
ảnh hưởng phật giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu
vào những ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam nữa.
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau.
4.3.2. Ảnh hưởng phật giáo qua ca dao và thơ ca
Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, được
lưu truyền từ đời này sang đời khác. Không ai biết rõ xuất xứ cũa những lời ca
hát đó ở đâu, chỉ biết rằng nó thường được thể hiện dưới hình thức câu hát ru
em, những câu hò đối đáp giữa các chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay để kết
thúc mỗi câu chuyện cổ tích mà các cụ già kể cho con cháu nghe mang tính chất
khuyên răng dạy bảo. Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm
nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo lý của phật giáo cũng thường được ông
cha ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để
nhắc nhở, khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui
phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam:

22
22
Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt
Dù ai đi đâu về đâu
Hể trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu
Dù cho cha mẹ đánh treo
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm
Ngang qua các câu ca dao của Việt Nam về hình ảnh của ngôi chùa, về quan
niệm hiếu hạnh, quan niệm nhân quả, ta thấy sự ảnh hưởng của phật giáo đã ăn
sâu vào đời sống của dân tộc Việt Nam. Sự ảnh hưởng sâu sắc đó không thể
hiện qua ca dao bình dân mà còn chiếm nhiều trong loại hình thơ ca, văn vần,
văn xuôi, nói chung là văn chương bác học trong nền văn học Việt Nam.
4.3.3. Ảnh hưởng phật giáo qua các tác phẩm văn học:
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà văn
chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng nhiều hay ít của
phật giáo. Ở đây chúng ta không đề cập đến dòng văn học chính thống của phật
giáo, tức là tác phẩm do các thiền sư sáng tác trong quá trình tu tập của mình,
mà chỉ nói đến các thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của triết lý phật giáo
mà thôi. Cái ảnh hưởng đó có ngay từ khi phật giáo du nhập vào nước Việt,
nghĩa là khi chữ Hán còn thịnh hành, nhưng để thấy rõ ràng hơn, ta chỉ đề cập
23
23
đến sự ảnh hưởng của phật giáo trong thơ văn từ khi người Việt Nam đã viết
chữ Nôm, chữ Việt thành thạo nghĩa là bắt đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau
Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du (2765-1820) ta có được một
án văn bất hủ là Truyện Kiều, là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát dựa
theo tác phẩm Kim Vân Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc),
gồm 3254 câu thơ. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo,

trong đó ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo
lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp
báo. Điều đó có lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận mình là một phật tử và
từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần.
Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật Giáo như trên
ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên
diễn đàn tư tưởng của Việt Nam. Không chỉ ảnh hưởng trên mặt văn chương
xuất bản mà Phật Giáo còn có mặt trong nhiều phong tục tập quán ở Việt Nam.
4.3.4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục, tập quán :
Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn
hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo.Thông
thường người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không phải phật tử cũng theo tục
lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm
mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và 30, nếu tháng
thiếu thì ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng sáu ngày là những ngày mùng
8,14, 15, 23, 29 và 30.Ăn chay và thờ Phật luôn luôn đi đôi với nhau.
24
24
b.Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa:
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc vọng,
tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên có
thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng
với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để
các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối,
người tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa
đổi thân tâm.
c.Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi :
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Thông thường
các nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần tự như sau : (1) Nghi thức nhập

liệm người chết; (2) lễ phát tang; (3) lễ tiến linh (cúng cơm); (4) khóa lễ kỳ siêu
cho hương linh; (5) lễ cáo Triều Tổ (cáo tổ tiên ông Bà trước giờ di quan); (6)
lễ di quan và hạ huyệt; (7) Đưa lư hương, long vị, hình vong về nhà hoặc chùa;
(8) lễ an sàng; (9) cúng thất (tụng kinh cầu siêu và cúng cơm cho hương linh
trong bảy tuần gồm 49 ngày, mỗi tuần cúng một lần); (10) lễ tiểu tường (giáp
năm, sau ngày hương linh mất một năm); (11) lễ đại tường (lễ xã tang, sau ngày
hương linh qua đời hai năm).
d.Các phong tục tạp quán khác.
-Tập tục đốt vàng mã:
Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật giáo
Trung Quốc. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật
dụng, tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để
25
25

×