Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận cao học môn chính trị học nâng cao vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị ở việt nam hiện nay (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.32 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU......................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................4
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VẤN ĐỀ KIỂM SỐT QUYỀN
LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM.................................................4
1.1. Khái niệm quyền lực chính trị...................................................................4
1.2. Cấu trúc của quyền lực chính trị...............................................................4
1.3. Đặc điểm và chức năng của quyền lực chính trị.......................................5
Chương 2. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN
NHÂN HẠN CHẾ........................................................................8
2.1. Tình hình kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay.................8
2.2. Thực trạng vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay. . .9
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VẤN ĐỀ KIỂM
SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 12
C. KẾT LUẬN...............................................................................................17
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................18


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh quyền lực diễn ra sự phân tán mạnh mẽ như hiện
nay, các chủ thể quyền lực chính trị đang đứng trước thách thức lớn, đó
là khoảng cách giữa quyền lực thực sự của các chủ thể đang nắm giữ và
sự kỳ vọng của người dân đối với các chủ thể, như đảng chính trị, nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là nguồn gốc của những áp lực
khó khăn nhất mà bất kỳ chủ thể quyền lực chính trị nào phải đối phó.
Người dân có xu hướng tin vào chân lý, vào tính chính đáng của người
cầm quyền hơn là tin vào lý tưởng sáo rỗng và sự phục tùng sức mạnh,
chân lý trở thành thước đo cho sức mạnh cầm quyền của các chủ thể


quyền lực. Moisés Naím nhận định trong tác phẩm Sự suy tàn của
quyền lực thì nơi nào quyền lực là quan trọng, nơi đó quyền lực đang
suy tàn. Quả đúng như vậy, sự lớn mạnh của các tác nhân phi nhà nước
đã và đang làm lung lay “tính chính đáng” và sức mạnh của các lực
lượng cầm quyền. Dưới những tác động khác nhau, nhiều chủ thể
quyền lực chính trị đã khơng giữ được vị trí của mình, ngay cả những
quốc gia có chế độ chính trị đã tồn tại lâu dài, duy trì nền chính trị dựa
trên trật tự nhà nước, mà điển hình là nhiều quốc gia Ả rập đã sụp đổ
một cách dễ dàng trong “Mùa xuân Ả rập”.
Đi tìm nguyên nhân của sự thất bại, sự sụp đổ của các nhà nước,
người ta có quyền gán ghép cho nó những ngun nhân như nghèo tài
ngun, dân số đơng, khoa học - kỹ thuật kém phát triển, thậm chí có
thể là sự “thoả hiệp”. Nguyên nhân dẫn đến thất bại của nhà nước là từ
các vấn đề di dân, ảnh hưởng của chiến tranh, vị trí địa lý khơng thuận
lợi, sự chèn ép của các nước lớn… Trong khi đó, bản chất thất bại của
các chủ thể quyền lực chính trị lại xuất phát từ việc tổ chức, thực thi
quyền lực được cụ thể hóa thành thể chế nhưng chưa phù hợp với sự
phát triển của thực tiễn.
1


Từ những yêu cầu thực tiễn đề ra, chúng ta phải tìm hiểu kiểm
sốt quyền lực chính trị trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng,
phù hợp với xu thế phát triển trong xã hội cách mạng 4.0. Ở đây, tôi chỉ
nghiên cứu trong phạm vi ở Việt Nam. Đó là lý do tơi chọn đề tài
“Nâng cao vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận về vấn đề kiểm

sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ vấn đề lý luận về vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở
Việt Nam hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng về vấn đề kiểm sốt quyền lực
chính trị ở Việt Nam; tìm ra những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp các giải pháp nâng cao vấn đề kiểm sốt
quyền lực chính trị ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nâng cao vấn đề kiểm sốt
quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt
Nam.
- Về khơng gian: vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt
Nam
- Về thời gian: vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam
từ năm 2015 đến nay.
2


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường
lối của Đảng, Nhà nước về vấn đề kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt
Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu và có sự phối
hợp giữa chúng khi nghiên cứu, đó là các phương pháp cơ bản sau đây:
Phương pháp phân tích;
Phương pháp lịch sử, so sánh;
Phương pháp tổng hợp;
Phương pháp khảo cứu tài liệu…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
- Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả cho vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị
Viêt Nam ngày càng hồn thiện, cơng khai, minh bạch.
- Bổ sung kinh nghiệm thực tiễn cho việc kiểm sốt quyền lực
chính trị ở Việt Nam ngày càng chặt chẽ hơn.
5.2. Thực tiễn của đề tài
- Kết quả của đề tài đóng góp cho việc giải quyết những vấn đề
thực tiễn bức xúc đang xảy ra đối với vấn đề kiểm sốt quyền lực chính
trị ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
6. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận ngoài mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thi có
ba phần: Phần mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần mở đầu gồm: Lý do chọn đề tài; mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu; đối tượng và phạm vi nghiên cứu; cơ sở lý luận và phương

3


pháp nghiên cứu; Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài; kết cấu của
tiểu luận.
Phần nội dung gồm ba phần, cụ thể:
Chương 1. Những vấn đề chung về vấn đề kiểm sốt quyền lực

chính trị ở Việt Nam;
Chương 2. Đánh giá vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay – thực trạng và nguyên nhân hạn chế;
Chương 3. Phương pháp và giải pháp nhằm nâng cao vấn đề
kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay.
B. NỘI DUNG
Chương1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VẤN ĐỀ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp
và tồn tại những mâu thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội, thể hiện
tập trung ở nhà nước. Giai cấp nắm quyền lực chính trị thơng thường
cũng là giai cấp nắm quyền lực kinh tế. Quyền lực chính trị chính là
biểu hiện tập trung của quyển lực kinh tế. Quyền lực chính trị có thể
thuộc về một chính đảng của một giai cấp, một liên minh nhiều đảng
phái hoặc thuộc về nhân dân, khi lí tưởng của giai cấp, của chính đảng
phù hợp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc như ở Việt
Nam hiện nay, thể hiện tập trung ở quyền lực nhà nước được thực hiện
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Như vây, “Quyền lực chính trị là quyền quyết định, định đoạt
những vấn đề, cơng việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động
để bảo đảm sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một

4


chính đảng, tập đồn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo;

định đoạt, điều khiển bộ máy nhà nước; xây dựng, phát triển kinh tế xã hội trong một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế - ngoại giao
với các nhà nước khác và tổ chức quốc tế khu vực và thế giới, bảo đảm
chiều hướng phát triển quốc gia phù hợp với lí tưởng giai cấp” ( Theo
từ điển Bách khoa Việt Nam).
1.2. Cấu trúc của quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị bao gồm: chủ thể và đối tượng; mục tiêu và
nội dung; công cụ và phương tiện thực hiện.
- Chủ thể quyền lực chính trị: quyền lực chính trị chia ra thành
quyền lực chính trị của tổ chức và quyền lực chính trị của cá nhân.
Quyền lực chính trị của tổ chức bao gồm quyền lực của các nhóm xã hội,
tập đồn người như giai cấp, dân tộc, quốc gia, các tổ chức quốc tế; biểu
hiện tập trung nhất của quyền lực giai cấp ( cầm quyền) là quyền lực nhà
nước, quyền lực của đảng chính trị. Quyền lực chính trị của cá nhân bao
gồm quyền lực của thủ lĩnh chính trị, của các chính khách ( đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chính trị), của cơng dân.
- Đối tượng của quyền lực chính trị là nhóm xã hội, giai cấp hay
tập đồn người mà sự phục tùng của đối với chủ thể là “cách” mà
quyền lực chính trị được thể hiện trong việc thực thi.
- Mục tiêu của quyền lực chính trị là nhằm đạt tới sự áp đặt ý chí
của chủ thể đối với đối tượng và thơng qua đó lợi ích của chủ thể được
thực hiện.
- Nội dung của việc thực thi quyền lực chính trị là việc sử dụng
mọi sức mạnh mà chủ thể có được để đạt tới mục tiêu chính trị.
- Cơng cụ của quyền lực chính trị là những tổ chức chính trị và
các tổ chức khác nhưng có nội dung chính trị, được chủ thể thiết lập và
dựa vào hoạt động để thực thi quyền lực chính trị ở những mức độ nhất
định.
5



- Phương thức thực hiện quyền lực chính trị là hình thức tổ chức
cơng cụ và cách thức chủ thể sử dụng cho hoạt động của công cụ theo
mục tiêu và nội dung của quyền lực chính trị.
1.3. Đặc điểm và chức năng của quyền lực chính trị
1.3.1. Đặc điểm của quyền lực chính trị
-

Quyền lực chính trị có bản chất giai cấp
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất

tập trung trong tay một nhóm người. Đây là cơ sở để hình thành những
tầng lớp, giai cấp đầu tiên trong xã hội. Quyền lực công cộng được thiết
lập dưa trên sự thống nhất ý chí chung của cộng đồng bị phá vỡ để thay
vào đó là quyền lực của các tầng lớp, giai cấp khác nhau. Giai cấp chủ
nô chiếm ưu thế về kinh tế, giữ địa vị thống trị trong xã hội. Giai cấp
nô lệ, những tầng lớp dân tự do đã mất hết quyền, trở nên phụ thuộc
hoàn toàn vào giai cấp chủ nơ.
-

Quyền lực chính trị có tính xã hội
Quyền lực chính trị nảy sinh và phát triển trong long xã hội. Nó

là sản phẩm của xã hội phân chia giai cấp. Xã hội là cơ sở tồn tại của
các giai cấp, vì vậy quyền lực chính trị khơng thể tách rời hay vượt ra
ngồi xã hội mà nó đang tồn tại. Chủ thê và khách thể quyền lực chính
trị đều là những thành phần tạo nên chỉnh thể xã hội, đều nằm trong
một điều kiện tồn tại xã hội. Trong sự vận động và phát triển của xã
hội, một phương thức sản xuất lỗi thời sẽ bị thay thế bởi một phương
thức sản xuất tiên tiến để phù hợp với điều kiện tồn tại của chế độ xã
hội mới. Tương ứng với nó, các giai cấp mới xác lập hệ thống tổ chức

quyền lực chính trị để bảo vệ lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp trong
hoàn cảnh, điều kiện mới. Như vây, trong lịch sử xã hội khơng có một
giai cấp nào tồn tại vĩnh hằng, cũng có một hệ thống quyền lực chính
trị nào tồn tại vĩnh viễn Các giai cấp và hệ thống quyền lực của giai cấp
chỉ được xác lập trong điều kiện tồn tại cụ thể của xã hội.
6


-

Quyền lực chính trị có tính lịch sử
Sự ra đời, tồn tại, phát triển và tiêu vong của quyện lực chinh trị

mang tính khách quan trong một giai đoạn lịch sử nhất định – giai đoạn
có giai cấp. Sự tồn tại một khách quan của một giai cấp quy định tính
khách quan của quyên lực chính trị. Các giai cấp, lực lượng xã hội chỉ cơ
quyền lực chính trị khi nó giành và giữ được quyền lực cơng, mà biểu
hiện tập trung nhất là ở quyền lực nhà nước . Quyền lực chính trị tồn tại
cùng với giai cấp và nhà nước. Trước kia, trong chế độ cộng sản nguyên
thuỷ và sau này trong chế độ cộng sản chủ nghĩa khơng có giai cấp, nhà
nước thì khơng có quyền lực chính trị,
-

Quyền lực chính trị có tính tập trung
Trong quan hệ quyền lực ở xã hội dân chủ, một cá nhân hay tổ

chức được bầu ra, đại diện cho quyền lực của tập thể, cộng đồng.
Quyền lực được có do các thành vieen thừa nhận, họ bầu ra để lãnh đạo
chính họ, làm cho hoạt động của họ được phối hợp chặt chẽ, tạo nên
sức mạnh lớn hơn. Quá trình hình thành quyền lực là quá trình tập

trung, tập hợp ý chí chung, tạo nên sự đồng long nhất trí trong tổ chức,
cộng đồng.
-

Quyền lực chính trị có tính tha hoá
Tha hoá nghĩa là một sự vật, hiện tượng bị biến đổi, trở thành cái

khác, đối lập cái ban đầu sinh ra nó. Do tính chất tập trung quyền lực
nên nó dễ bị tha hố. Từ chỗ là quyền lực số đông, đem tập trung lại để
cho một người hay một nhóm người nắm giữ và điều khiển nên càng
tập trung, càng thống nhất ý chí thì quyền lực càng mạnh. Nhưng mức
độ tập trung càng cao thì quyền lực lại càng xa với cái rễ gốc ban đầu
và trở thành cái đối lập với nền tảng đó. Đây là một mâu thuẫn trong
tính tập trung của quyền lực: quyền lực càng tập trung càng dễ bị biến
dạng và tha hố.
1.3.2. Chức năng của quyền lực chính trị

7


Một là, lập ra hệ thống chính trị của xã hơi. Để thực thi quyền
lực chính trị của mình, giai cấp cầm quyền thiết lập hệ thống chính trị
để thống trị xã hội, đảm bảo sự ổn định về chính trị, phát triển kinh tế xã hội.
Hai là, tổ chức đời sống chính trị, thiết lập các quan hệ chính trị.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của chủ thể quyền lực chính trị ( chủ yếu
thơng qua nhà nước) là hoạch định, xây dựng hệ thống các thể chế,
chính sách để đời sống chính trị phát triển theo xu hướng có lợi cho
giai cấp mình.
Ba là, quản lý cơng việc của nhà nước và xã hội. Đây là chức
năng bao quát của quyền lực chính trị. Chỉ trên cơ sở quản lý tốt công

việc nhà nước và xã hội, giai cấp cầm quyền mới thực thi quyên lực
chính trị của minh.
Bốn là, lãnh đạo các cơ quan quyền lực, các hoạt động chính trị
và phi chính trị. Giai cấp cầm quyền sử dụng quyền lực chính trị lãnh
đạo, định hướng hoạt động cho các tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội…
Năm là, kiểm soát các quan hệ chính trị và các quan hệ xã hội.
Các chủ quyền lực chính trị, từ nhà nước, các đảng chính trị đến công
dân đều tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan quyền
lực, các tổ chức chính trị - xã hội.
Sáu là, lập ra một kiểu cầm quyền nhất định đặc trưng cho xã
hội, một chế độ chính trị và chế độ nhà nước nhất định.
Chương 2
ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ
2.1. Tình hình kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đã
được đặt ra từ rất sớm với nhiều cơ chế khác nhau. Bên cạnh những
8


vấn đề mang tính phổ biến thì việc kiểm sốt quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước ở Việt Nam có rất nhiều điểm đặc thù so với ở
các quốc gia khác, như ở Việt Nam, chỉ có một đảng duy nhất là
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) vừa lãnh đạo, vừa thực hiện việc
kiểm soát quyền lực. Hiện nay Việt Nam là một trong những quốc
gia thống nhất, hiếm có quốc gia nào trên thế giới đa sắc tộc, nhưng
lại tạo nên một dân tộc thống nhất, một đất nước Việt Nam thống
nhất dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất và một hệ thống chính
trị thống nhất vì mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng

bằng, văn minh. Sự thống nhất đó xét ở phương diện tổ chức và thực
hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước có rất nhiều thuận lợi,
song cũng khơng ít khó khăn, hạn chế.
Ở Việt Nam, tất cả các tổ chức được thành lập và hoạt động hợp
pháp đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, do vậy, việc lãnh đạo Nhà
nước và xã hội của Đảng CSVN là vơ cùng thuận lợi. Bất kỳ vấn đề gì
khi mà Đảng đã quyết thì mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức hợp pháp
trong xã hội đều hưởng ứng và tổ chức thực hiện, nhằm hiện thực hóa
quyết định của Đảng. Với một xã hội đồn kết, thống nhất, ln có sự
phối hợp hành động, ủng hộ, giúp đỡ tận tình giữa Nhà nước với các tổ
chức khác trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức và
vì mục tiêu chung của quốc gia, dân tộc là điều kiện vô cùng thuận lợi
cho Đảng, Nhà nước và xã hội. Có thể nói, Việt Nam đang có một
Quốc hội thống nhất, một Chính phủ thống nhất và cả một hệ thống
Tòa án thống nhất, tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng duy
nhất - Đảng CSVN. 
2.2. Thực trạng vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam
hiện nay
2.2.1. Những thành tựu trong kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay
9


Trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ về vai trị, vị trí, ý nghĩa và
phương pháp kiểm sốt quyền lực chính chính trị, sự hồn thiện ngày
càng đầy đủ, tồn diện các cơ chế, chính sách nhằm kiểm sốt quyền
lực chính trị ngày càng hợp lý, hiệu quả, trong thời gian vừa qua, việc
kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị đã có nhiều biến chuyển,
thu được nhiều kết quả quan trọng trên thực tế. Những kết quả đó là
một bộ phận gắn bó hữu cơ khơng thể chia tách với những kết quả

chung của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:
Một là, Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị: Được đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt
đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong kiểm sốt quyền lực của
Đảng và hệ thống chính trị nói chung. Cơng tác xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng, đạo đức đã nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên về ý thức, trách nhiệm chính trị trong việc thực thi các trách nhiệm
công tác của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về tổ chức đã tập trung
kiện toàn, “đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị;
năng lực, chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đảng viên được nâng cao”. Công tác cán bộ được
đổi mới mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết số 26 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII đã tạo được những chuyển biến tích cực.
Hai là, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng:  “được tăng
cường, có nhiều đổi mới, thực hiện tồn diện, đồng bộ, có hiệu lực,
hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương”. Cơng tác phịng, chống tham
nhũng “được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt,... với quyết tâm
chính trị rất cao, khơng có vùng cấm”, được “nhân dân đồng tình, ủng
hộ”, đã từng bước “kiềm chế, ngăn chặn” tham nhũng. Trong nhiệm kỳ
khóa XII đã thi hành kỷ luật gần 120 cán bộ thuộc diện Trung ương
quản lý là thể hiện trực tiếp, rõ ràng về sự quyết liệt, quyết tâm chính trị

10


cao của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan
liêu, tăng cường kỷ luật nghiêm minh trong Đảng và hệ thống chính trị.
Ba là, phương thức lãnh đạo của Đảng:  Tiếp tục được đổi mới
theo hướng “giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc
pháp quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ

quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”.
Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng được
đổi mới; vai trò trách nhiệm của cấp ủy đảng, người đứng đầu cấp ủy,
tổ chức đảng được chú trọng.
Bốn là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Có
nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập
pháp, hành pháp và tư pháp tiếp tục được hoàn thiện”. Vai trò của pháp
luật ngày càng được đề cao; cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạch. Hoạt động của
Quốc hội được đổi mới, có hiệu quả hơn trong xây dựng pháp luật,
giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành đổi mới theo hướng kiến
tạo, tập trung vào điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, hỗ trợ phát triển.
Tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp tiếp tục được kiện tồn, có
tiến bộ về chất lượng hoạt động, về bảo vệ lợi ích hợp pháp và  quyền
con người của cơng dân. Tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương
được sắp xếp lại, tinh gọn, hiệu quả và hợp lý hơn.
Hiệu quả tổng hợp của những kết quả trên là những thành tựu
quan trọng, nhiều dấn ấn nổi bật của công cuộc xây dựng, phát triển
đất nước trong thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của
Đảng. Trong điều kiện thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, thách
thức, tác động tiêu cực của dịch bệnh và thiên tai, song nền kinh tế
nước ta vẫn phát triển, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được bảo
11


đảm cơ bản, uy tín của đất nước trên trường quốc tế được nâng lên,
tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường. Những thành tựu quan
trọng đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó có những đổi

mới tích cực trong kiểm sốt quyền sốt quyền lực chính trị góp phần
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
2.2.2. Những hạn chế trong kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay
Tuy nhiên, cùng với những kết quả quan trọng trên, trong  kiểm
soát quyền lực vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm. Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII chỉ rõ: “Cơ chế kiểm
sốt quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình cịn hạn chế” (Nghị quyết số 18, Hội nghị lần thứ sáu,
Ban Chấp hành trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả”).
Dự thảo báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng cũng đánh giá:
“Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trọng tâm
là đối với Nhà nước còn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Cơ chế
kiểm sốt quyền lực trong Đảng và nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ,
hiệu lực, hiệu quả chưa cao”.
 Nhìn một cách tổng thể, những hạn chế, khuyết điểm trên là một
trong những nguyên nhân góp phần làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; dẫn đến tình trạng “tham nhũng,
lãng phí trong nhiều lĩnh vực cịn nghiêm trọng, phức tạp, với những
biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội”; “tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi
ích nhóm”, bệnh lãng phí, vơ cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán
bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”,“niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân
dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút”,v.v..

12



Với ý nghĩa ấy, việc tiếp nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, làm rõ
thực trạng để từ đó tìm ra những giải pháp đúng đắn, hợp lý nhằm kiểm
soát chặt chẽ quyền lực chính trị trong xã hội, là một nhiệm vụ quan
trọng của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước giai
đoạn mới
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Để việc kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiệu lực, hiệu
quả hơn, có các giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tồn Đảng, toàn quân, toàn dân phải thấm nhuần quan
điểm tất cả các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước đều phải bị kiểm soát
Bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi thực hiện quyền lực cũng có thể
có những hạn chế, thiếu sót nhất định, thậm chí có thể lạm quyền. Việc
lạm dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thường dẫn đến
những hậu quả vô cùng nặng nề cho xã hội, cho các tổ chức và cá nhân.
Do vậy, tất cả các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước đều phải bị kiểm sốt, kể cả tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam. Không phải ngẫu nhiên mà Hiến pháp năm 2013 quy định: “Các
tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, “Đảng CSVN gắn bó mật
thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.
Đường lối, chính sách của Đảng cần phải được phản biện, phải
được xem xét, đánh giá từ nhiều phương diện, lực lượng khác nhau.
Nếu đường lối, chính sách của Đảng chưa hồn thiện thì phải có sự
hồn thiện trước khi triển khai thực hiện, nếu có những cách tiếp cận
khác hay hơn, hiệu quả, phù hợp hơn thì phải điều chỉnh lại cho phù
13



hợp, hiệu quả nhất. Việc phản biện, góp ý với Đảng phải được tiến
hành bởi Nhà nước, Nhân dân, các tổ chức xã hội khác thông qua cơ
chế đơn giản, thuận lợi, thiết thực và hiệu quả.
Hai là, khơng ngừng hồn thiện và đề cao Hiến pháp, pháp luật
trong kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
Việc kiểm sốt quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước theo tinh
thần pháp quyền, trong điều kiện nhà nước pháp quyền thì phải coi
trọng tính pháp lý, nghĩa là, đề cao cơng cụ kiểm soát là Hiến pháp và
pháp luật theo tinh thần: Hiến pháp và pháp luật có tính tối thượng, mọi
tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng, thực hiện nghiêm Hiến pháp,
pháp luật. Có thể khẳng định, truyền thống duy tình, cả nể trong các
mối quan hệ xã hội khơng cịn phù hợp trong xã hội văn minh, pháp
quyền - một xã hội đòi hỏi phải sống, làm việc theo pháp luật, lấy pháp
luật làm chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội quan trọng.
Do vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ln nhắc nhở “phải
nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, quyền lực phải bị ràng buộc bằng thể
chế, mà quan trọng nhất là Hiến pháp, pháp luật. Tất cả mọi tổ chức, cá
nhân trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Điều này thể hiện chuyển biến rất rõ trong quan điểm của Đảng liên
quan đến nội dung của Điều 4 Hiến pháp: Nếu Hiến pháp năm 1980 chỉ
quy định “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp”, thì Hiến pháp năm 1992 tiến thêm một bước đã quy định không
chỉ trong khuôn khổ Hiến pháp mà cả pháp luật, Hiến pháp năm 2013 đã
khẳng định không chỉ tổ chức của Đảng mà cả đảng viên Đảng CSVN
cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Ba là, xác định và quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, phạm vi hoạt động của mỗi tổ chức, mỗi cơ quan tham gia thực
hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước làm căn cứ cho việc kiểm

soát quyền lực
14


- Xác định và quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
phạm vi hoạt động của mỗi tổ chức thực hiện quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước
Có thể nói, hiện nay hầu hết các hoạt động lớn, quan trọng ở Việt
Nam đều theo tinh thần “cả hệ thống chính trị vào cuộc” do vậy kiểm
sốt quyền lực nhà nước nói riêng, quyền lực nói chung phải được nhìn
nhận trong tổng thể. Khơng thể kiểm sốt việc thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà nước nếu khơng kiểm
sốt việc lãnh đạo, việc tham gia thực hiện các quyền đó của các tổ
chức của Đảng, của các tổ chức xã hội khác. Do vậy, cần phân công,
phối hợp một cách cụ thể hơn, hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, phạm vi hoạt động của mỗi tổ chức, mỗi cơ quan tham gia thực
hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.
- Xác định và quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
phạm vi hoạt động của mỗi cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước.
Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ: cần “Xác định rõ cơ chế phân
công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống
nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng
thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát
các quyền ở các cấp chính quyền”.
Bốn là, thực hiện nghiêm chế độ cơng khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của các tổ chức, cơ quan
Có thể nói cơng khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong tổ
chức, hoạt động của các tổ chức, cơ quan nhà nước là một trong những

yêu cầu, đòi hỏi của một xã hội dân chủ, một yếu tố để tạo lòng tin cho
những tổ chức, cá nhân chịu sự lãnh đạo và quản lý. Ở Việt Nam,
những hoạt động nói trên cịn khá hạn chế, trong nhiều trường hợp
15


người ta chỉ thông tin một phần sự thật và thường là những thông tin tốt
về hoạt động của các tổ chức, cá nhân. Nếu không đủ thông tin cần
thiết về sự việc, về tổ chức, cá nhân nào đó dễ dẫn đến có những quyết
định thiếu chính xác. Chẳng hạn, thiếu những thông tin cần thiết về các
ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh... nên Đảng và nhân dân đã có
những quyết định thiếu chính xác khi chọn họ vào những vị trí quan
trong trong bộ máy đảng và nhà nước. Do vậy, để kiểm soát việc thực
hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thì tất cả những hoạt động
cơng cộng khơng liên quan đến bí mật quốc gia hay bí mật nghề
nghiệp... phải được cơng khai, minh bạch, phải được giải trình đầy đủ
theo quy định của pháp luật. Nếu không công khai, minh bạch, không
giải trình đầy đủ những thơng tin cần thiết thì khơng có dân chủ thực
sự, khơng có kiểm sốt việc thực hiện quyền lực thực sự và hiệu quả.
Dân chủ không chỉ thực hiện ở cơ sở mà còn cần được chú trọng thực
hiện ở các cấp cao hơn.
Năm là, quy định và thực hiện nghiêm minh các biện pháp xử lý
đối với những hoạt động, hành vi trái Hiến pháp, pháp luật trong q
trình thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của các tổ chức,
cá nhân
Một trong những mục đích của hoạt động kiểm sốt quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước là phòng ngừa, ngăn chặn hiện tượng
thực hiện quyền lực không đúng quy định của các thể chế, đặc biệt là
Hiến pháp, pháp luật, không đúng mục đích đề ra và khơng hiệu quả.
Muốn đạt được mục đích trên thì phải quy địnhtrách nhiệm chính trị và

trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc, chặt chẽ, đầy đủ và áp dụng nghiêm
minh đối với các cơ quan, cá nhân trong thực hiện quyền lực. Trong
trường hợp các cơ quan, cá nhân không thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền
hạn được giao, họ phải bị lên án, bị tẩy chay, nếu vi phạm thể chế thì
phải bị trừng phạt. Để cơ quan và cá nhân có trách nhiệm cao hơn đối
16


với quyền lực được giao, địi hỏi đi đơi với việc giao quyền phải quy
định chặt chẽ, đầy đủ cả trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý
đối với mỗi cơ quan, cá nhân trong thực hiện quyền lực. Cần phải “có
chế tài xử lý thích đáng những cán bộ vi phạm pháp luật, nhất là cán bộ
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý”. Kiên quyết, xử lý nghiêm minh những vi
phạm nếu có của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào theo tinh thần tất cả phải
bình đẳng, phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của
mình.
Sáu là, thiết lập cơ chế thuận lợi để nhân dân tham gia kiểm sốt
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước hiệu quả, kết hợp chặt chẽ
kiểm soát của Nhà nước với kiểm soát của xã hội đối với các cơ quan
và cá nhân thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
Để kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả, thiết nghĩ, cần có sự
kết hợp chặt chẽ hơn giữa kiểm soát của các cơ quan nhà nước với kiểm
sốt của các tổ chức xã hội, trong đó coi trọng kiểm soát của các cơ quan
Đảng, của Mặt trận và mỗi tổ chức thành viên của Mặt trận. Giảm bớt sự
phụ thuộc của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác vào Nhà nước để hoạt
động phản biện, kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức đó có
hiệu lực và hiệu quả cao hơn.
Phải thấy rằng, Đảng CSVN dù là lực lượng ưu tú nhất của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, song không phải
mọi quyết định của Đảng là đúng, cũng có những quyết định của Đảng

chưa chính xác, hoặc tổ chức triển khai chưa phù hợp dẫn đến kết quả
không như mong muốn. Chẳng hạn, việc công hữu q nhanh các tư
liệu sản xuất mà khơng tính đến trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, nhất là người sản xuất; việc ồ ạt thành lập các tập đồn kinh tế,
mà khơng chú ý đến tính hiệu quả của việc làm đó... Thời gian gần đây,
những đường lối, chính sách lớn của Đảng do cơ quan cao nhất của
Đảng (Đại hội đại biểu toàn quốc) đã được công bố rộng rãi để các tổ
17


chức, các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước góp ý. Đây là một
bước phát triển dân chủ rất cao và cũng là biểu hiện Đảng CSVN không
chỉ của giai cấp cơng nhân mà cịn của cả dân tộc, phấn đấu vì lợi ích
của cả dân tộc. Tuy vậy, cũng có một số chính sách do các cơ quan
khác của Đảng đề xuất và quyết định thì chưa có được sự tham gia,
kiểm sốt đúng mức từ phía Nhân dân, các tổ chức khác trong xã hội.
Thiết nghĩ, vấn đề này cũng cần có cơ chế để Nhân dân góp ý theo
đúng tinh thần mà Đảng đã đề ra là: dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra.

18


C. KẾT LUẬN
Kiểm sốt quyền lực chính trị khơng cịn là nội dung mới trong
các nghiên cứu chính trị trên thế giới và Việt Nam. Lịch sử nghiên cứu
vấn đề này đã được đề cập đến rất nhiều trong các nghiên cứu về kiểm
soát quyền lực nhà nước; kiểm soát, đối trọng giữa lập pháp, hành
pháp, tư pháp; nghiên cứu kiểm sốt quyền lực từ bên ngồi đối với nhà
nước… bằng những các tiếp cận và lý thuyết.

Ở Việt Nam, tất cả các tổ chức được thành lập và hoạt động hợp
pháp đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bất kỳ vấn đề gì khi mà
Đảng đã quyết thì mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức hợp pháp trong
xã hội đều hưởng ứng và tổ chức thực hiện, nhằm hiện thực hóa quyết
định của Đảng. Có thể nói, Việt Nam đang có một Quốc hội thống nhất,
một Chính phủ thống nhất và cả một hệ thống Tòa án thống nhất, tất cả
đều đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất - Đảng CSVN. 
Vì thế, cần phải đặt vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị trong
Đảng phải chặt chẽ, công khai, minh bạch để theo đuổi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa.

19



×