Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

giới thiệu về sơ lược về các loại bút bi trên thị trường và công nghệ lắp ráp chúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.03 KB, 97 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta hiện nay đang trong quá trình phát triển, nhu cầu về tự động hoá
trong hệ thống điều khiển là rất cần thiết. Mức độ tự động hoá ở nước ta vẫn ở
trình độ thấp chưa phát huy hết thế mạnh của nó. Chính vì lẽ đó mà các sản
phẩm làm ra đạt chất lượng kém và năng suất thấp, nhìn chung trình độ tự động
còn phụ thuộc nhiều vào sức người, chưa thấy được kết quả mà nó đem lại.
Đồng thời chúng ta cũng tìm hiểu nó một cách đúng đắn. Do đó ở phần này ta sẽ
biết được cách hoạt động, cách điều khiển, cách hoạt động một cách khái quát
mà cụ thể là dây chuyền lắp ráp bút bi tự động.
1
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ TỰ ĐỘNG HOÁ ,SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỰ ĐỘNG HOÁ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trước khi đi tìm hiểu về vấn đề chính trong chương này là khái niệm về tự động
hóa và sự phát triển của nó trong giai đoạn mới, ta xem sơ lược về tình hình
ngành cơ khí của nước nhà và sự phát triển của nó trong tương lai để thấy rõ sự
cần thiết phải có tự động hoá như thế nào? Việc áp dụng tự động hoá cho các
nhà máy, xí nghiệp trong việc lắp ráp các chi tiết với nhau là cần thiết hay
không ? Có được cái nhìn chung như thế,ta mới nắm vững, hiểu rõ và phát huy
hết tác dụng của nó và áp dụng một cách linh hoạt và phù hợp với nền sản xuất
nước nhà,từng bước cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.1 Tình hình ngành cơ khí Việt Nam và triển vọng trong tương lai:
1.1.1Những nét cơ bản về sự hình thành:
Bắt đầu từ năm 1956 có định hướng ở miền Bắc:
Nhà máy cơ khí trung, qui mô Hà Nội: Chế tạo máy công cụ.
Nhà máy cơ khí Cẩm Phả: Phục vụ khu mỏ Hòn Gai.
Nhà máy cơ khí xe lửa Gia Lâm. Nhà máy ô tô Trần Hưng Đạo, Hoà Bình,
Diesel Sông Công: Phục vụ giao thông vận tải và sức kéo cho nông lâm nghiệp.
Các nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Phà Rừng.
Một loạt các nhà máy qui mô 500tr/năm sản phẩm cơ khí phục vụ công


nghiệp địa phương và chiến đấu tại chỗ.
Một loạt các nhà máy cơ khí quốc phòng và ngành.
• Những đặc điểm:
Qui mô nhỏ, và nhà máy có qui mô vừa, phục vụ nhu cầu bức thiết trước
mắt trong nước.
Sản xuất sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật không cao
Công nghệ và tổ chức khép kín từ tạo phôi đến lắp ráp thành phẩm. Công
nghệ và thiết bị lạc hậu, hơn 30 năm nay ít được đổi mới.
2
Hiên nay đang ở trình độ khoa học – công nghệ những năm 40 của thế kỹ
này
• Nhân lực:
Thợ bậc cao, từ bậc 6 trở lên: khoảng 7ngàn nhưng tuổi bình quân trên 40,
có hạn chế
Đáng kể có 10 ngàn từ kỹ sư trở lên: Nhưng chưa phát huy tốt tiềm năng.
Tổng tài sản cố định toàn ngành khoảng 300 triệu USD là hết sức nhỏ bé.
Hiện trạng ngành cơ khí thành phố Hồ Chí Minh
• Đặc điểm chung:
- Tiếp nhận từ một ngành cơ khí non yếu chỉ làm dịch vụ sửa chữa và
sản xuất một số phụ tùng đơn giản
- Từ sau năm 1975 chưa có một nhà máy cơ khí nào được đầu tư thiết
bị – công nghệ đồng bộ với một hướng sản xuất rõ rệt ban đầu
- Vốn đầu tư thấp, thiết bị đầu tư lẻ tẻ nhưng lại cố tạo ra một khả
năng khép kín công nghệ nên lại càng non yếu về năng lực sản
xuất về trình độ công nghệ.
- Một vài năm gần đây một số xí nghiệp đã cố đổi mới công nghệ-
thiết bị nhưng rất chật vật trên nền cũ của mình
- Năng lực sản xuất
- Máy động lực và phụ tùng nông ngư nghiệp
- Phụ tùng đơn giản cho làm đất

- Thiết bị chế biến nông lâm sản, thực vật
- Lắp ráp ô tô xe máy
- Đóng xà lang và tàu nhỏ ven biển
- Thiết bị điện: động cơ, máy biến thế
- Cơ khí tiêu dùng: xe đạp, quạt điện, phụ tùng x e gắn máy …
- Giá trị tổng sản lượng 1996, là 200 tỷ đồng
- Năng suất lao động trung bình 40triệu /người /năm
• Qui mô và nhân lực:
- Nhỏ, chủ yếu là sản xuất đơn chiếc, loạt nhỏ
3
- Tổng tài sản cố định: trên 70tỷ rất bé.
- Tổng số công nhân sản xuất trên 3000. Trong đó có hơn 13000
công nhân bậc 4 trở lên.
- Trên 400 cán bộ kỹ thuật có trình độ kỹ sư trở lên, nhưng ít có cơ
hội được đào tạo lại thường xuyên theo sự phát triển của khoa học
– công nghệ
• Về khoa học và công nghệ
- Trong bối cảnh chung của cả nước: lạc hậu khoảng 50năm
- Đặc biệt yếu về các công nghệ vật liệu và tạo phôi
- Đáng chú ý la ømột số xí nghiệp quốc doanh và tư doanh đầu tư
nhập công nghệ thiết bị hiện đại trong khuôn mẫu. Tỷ trọng thiết
bị tiên tiến chỉ khoảng 15%.
- Vẫn còn thời kỳ cơ khí hoá.
• Tổng quát:
- Mặc dù hết sức năng động, tự vươn lên nhưng vẫn yếu kém về năng
lực sản xuất cả về qui mô và chất lượng sản phẩm.
- Còn khá xa trước nhiệm vụ trang thiết bị lại một phần cơ bản cho
các ngành kinh tế.
- Còn phân tán, tự phát thiếu đồng bộ và cần có qui hoạch chiến lược
tập trung đầu tư đi vào những trọng điểm. Có cơ cấu sản phẩm

định hướng hợp lý cho một trung tâm công nghiệp phía nam.
- Tuy đội ngũ nhân lực khá và năng động nhưng còn thiếu khả năng
đào tạo tiếp cân một cách khoa học công nghệ tiên tiến.
Thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến của thế giới trong lĩnh vực cơ
khí:
Nhu cầu về một hình thái sản xuất linh hoạt:
Đặc điểm về thời đại về nhu cầu:
Đa dạng về mẫu mả, chủng loại.
Luôn thay đổi thị hiếu.
4
“ tuồi thọ “ của sản phẩm ngắn, có loại chỉ xuất hiện vài tháng là mất hết
thị trường. Nhà sản xuất đứng trước những biến động khó lường.
Định hướng về khoa học – công nghệ:
Trên cơ sở công nghệ tin học tạo ra một nền “ sản xuất linh hoạt” đáp ứng
sự biến động khôn lường của nhu cầu và khả năng cạnh tranh nhờ đổi mới sản
phẩm.
Hiệu quả đặc trưng quan trọng nhất của công nghê tin học là năng lực giúp
cho những ý tưởng của con người – dù có đa dạng và biến động cách mấy – trở
thành hiện thật một cách nhanh chóng nhất, ít tốn công sức nhất
Tự động hoá nhờ kỹ thuật – công nghệ tin học:
Dùng công cụ CAD: Giúp phân tích thiết kế, tính toán và thể hiện nhanh,
chính xác ; lưu trữ và thay đổi dễ dàng trong khi thiết kế các sản phẩm. Khi
dùng CAD cần hiểu đúng:
Yù tường và những vấn đề thuộc về tư duy linh hoạt thì do người thực hiện.
Những công việc phân tích, so sánh, chọn lựa, tính toán theo một qui luật xác
định do máy tính thực hiện tự động
Máy tính thực hiện nhanh việc thể hiện thành bản vẽ 2 hoặc 3 chiều.
Mỗi lĩnh vực có từng loại CAD chuyên dùng thích hợp mới có sức mạnh
thực thụ cho người dùng.
Dùng công cụ CAM

Trên cơ sơ về dữ liệu về sản phẩm đã thiết kế nhờ CAD.
Với sự quyết định cách thức và qui trình gia công của nhà công nghệ.
Tạo ra các máy tính từ máy gia công CNC tự động thực hiện một cách
chính xác quá trình gia công.
Dùng công cụ CIM. Tích hợp các bộ phận của quá trình sản xuất từ CAD,
CAM kiềm tra chất lượng CAQC, kế hoạch sản xuất … Thành một hệ thống
được điều chỉnh nhờ máy tính.
Định hướng và khả năng ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến và cơ
khí tại nước ta:
Định hướng về mục tiêu qui hoạch phát triển
5
Sở công nghiệp thành phố đã đưa ra “ Định hướng quy hoạch phát triển
ngành công nghiệp cơ khí Thành Phố thời kỳ 1996 –2000 và 2001 “
• Nội dung cơ bản:
Làm xương sống cho nền kinh tế: Sản xuất lại và trang bị lại cho mình và
các ngành kinh tế.
Đầu tư chiều sâu vào những khâu quyết định khả năng cạnh tranh của sản
phẩm.
Đi thẳng vào công nghệ tiên tiến một số lĩnh vực tạo ra sản phẩm có chất
lượng cao.
Chú trọng xây dựng trung tâm nghiên cứu – phát triển.
Qui hoạch và tổ chức lại ngành thành 4 khối lớn.
Định hướng các sản phẩm cơ bản.
Đầu tư chiều sâu cho 4 nhà máy.
Định hướng ứng dụng công nghệ tiên tiến
Ưùng dụng CAD trong thiết kế cơ khí
Hiện tại chúng ta vẫn dùng phương pháp cổ truyền trong thiết kế. Chưa sử
dụng sự hỗ trở của máy tính và các phần mềm thích hợp. Vì vậy tiềm năng sáng
tạo của người thiết kế chưa phát huy hết tiềm năng về vẽ, tra cứu, tính toán về
thiết kế, ngay cả lúc thành phố HCM đã có nhiều nhu cầu về thiết kế như: các

thiết bị chế biến nông sản, hải sản, thiết bị phục vụ làm đất thu hoạch trong nông
nghiệp; các khuôn mẫu vừa đa dạng vừa luôn luôn đổi mới, các sản phẩm cơ khí
dân dụng.
Người Việt Nam hoàn toàn có khả năng tiếp thu và dùng các phần mềm
thích hợp ở nước ngoài phục vụ mục tiêu của mình. Người Việt Nam còn có khả
năng tận dụng những phần mềm thích hợp của nước ngoài kết hợp với phần
mềm tự xây dựng để phục vụ cho thiết kế cơ khí – chẳng hạn phần mềm cơ khí
BK –CAD của cán bộ khoa học cơ khí trường đại học Bách Khoa TP.HCM ; Me
CAD của trung tâm tin học IDEA của Hà Nội.
Tránh ngộ nhận cần hiểu rõ chức năng của các phần mềm CAD trên thị
trường để dùng khi thiết kế. Không phải CAD nào cũng dùng được cho thiết kế.
6
Ưùng dụng CAD trong công nghệ gia công cơ khí.
Hiện cần thiết cho gia công các loại khuôn phức tạp trên các máy công cụ
điều khiển số NC
Hiện có phần mềm CAD/CAM /CIMATRON 90 chuyên dùng, kết hợp
giữa mô hình hoá, tạo bản vẽ cần gia công với việc mô hình hoá, tạo bản vẽ sản
phẩm cần gia công với việc mô hình hoá quá trình gia công lập trình điều khiển
máy CNC và CIMATRON-90 có thể điều khiển quá trình của công nghệ khoan,
phay 2, 5 –5 toạ độ, công nghệ tiện, đột, dập theo đường và công nghệ cắt bằng
dây.
Chú ý đầu tư các công cụ thiết bị dùng trong công nghệ tạo mẫu để năng
cao hiệu quả của hệ thống CAD/CAM. Đầu tư máy công cụ điều khiển số nhờ
máy tính CNC.
Cần phân biệt máy công cụ NC và CNC. Năng lực của 2 loại khác nhau rất
nhiều. Chỉ có máy CNC mới dùng công nghệ CAD được và mới thực sự hiệu
quả.
Hiện tại có một cơ sở đã dùng máy này, đáng chú ý là doanh nghiệp tư
nhân lại đầu tư mạnh hơn doanh nghiệp nhà nước.
Cần lựa chọn công nghệ thích hợp của máy cho mặt hàng cụ thể của cơ sở

sản xuất.
Không quên đầu tư cho công việc tạo phôi và xử lý vật liệu, xử lý bề mặt là
khâu kém hiện nay ở TP_HCM
Muốn chất lượng sản phẩm cơ khí được năng cao, không thể thiếu sự đóng
góp đồng bộ các công nghệ truyền thống như gia công các dậng bánh răng, các
bề mặt có dạng có độ chính xác và độ bóng cao bằng công nghệ mài, nghiền,
đánh bóng …
Đào tạo nhân lực cho các công nghệ tiên tiến
• Đào tạo nhân công:
Đủ năng lực vận hành thiết bị tiên tiến, biết phát hiện những bất thường để
kịp xem xét.
• Đào tạo kỹ sư:
7
Hiểu nguyên lý hoạt động, chọn công nghệ thích hợp, nắm chắc các phần
mềm và thiết bị
Làm chủ, sử dụng các phần mềm và thiết bị để điều khiền và lập trình một
cách hiệu quả.
Có năng lực và công nghệ tốt để quyết định qui trình và thông số công
nghệ khi sử dụng CAM.
Khả năng bảo dưỡng thiết bị hiệu quả.
• Khả năng đào tạo trong nước.
Ngoài việc gửi tu nghiệp nước ngoài, hiện nay ở trong nước cũng có một số
cơ sở có năng lực đào tạo:
Viện máy công cụ tại Hà Nội, trường đại học BK HN
Trường đại học BKTP_HCM khoa Cơ Khí
Trung tâm Việt Đức trường đại học BKTp- HCM
Đang đầu tư trường Lý Tự Trọng
Có thể đào tạo công nhân
Kỹ thuật viên kỹ sư
Cần chú ý đào tạo nhân lực thực hành, dạng Kỹ Sư thực hành mà hiện tại

chúng ta rất cần nhưng các cơ sở đào tạo trong nước lại rất yếu trong việc này.
• Quan tâm hơn nửa việc đào tạo nhân lực:
Không có con người đủ năng lực thì không tiếp thu và phát huy được các
công nghệ tiên tiên của thế giới dù có tiếp cận về.
Đầu tư trang thiết bị và công nghệ hiện đại, gửi đi đào tạo đội ngũ kỹ thuật
viên và giảng viên ( cho các cơ sở có chức năng đào tạo )
Nhà nước cũng nối tiếp các doanh nghiệp cùng góp cho việc đào tạo nhân
lực cho mình.
Các cơ sở đào tạo trong nước, trong thành phố nên liên kết để bổ sung cho
nhau trong đào tạo, đồng thời hợp tác với nước ngoài trên cơ sơ hai bên cùng có
lợi. Đó là một hiện thực ở một số cơ sở đào tạotrong nước đã làm được.
8
Nhận xét: Nhìn chung với xu hướng chung của thế giới, ngành cơ khí nước nhà
cũng đã có sự phát triển vượt bậc trong việc áp dụng tự động hoá ở một số bộ
phận. Xong nó chỉ mang tính chất riêng lẽ, cục bộ chưa phát huy hết khả năng
của nó và sự phát triển thiếu đồng bộ đó cũng do nhiều nguyên nhân khác gây
ra. Do đó để nắm vững và áp dụng nó một cách đúng mức ta lần lượt đi tìm hiểu
về các vần đề sau để có cái nhìn chung về nó và phát huy một cách hiệu quả
nhất để đáp ứng nhu cầu xã hội ngày nay.
1.2 Khái niệm về tự động hoá sản xuất:
1.2.1 Định nghĩa tự động hoá:
Là dùng năng lượng phi sinh vật ( cơ, điện, điện tử …) để thực hiện một
phần hay toàn bộ quá trình công nghệ mà ít nhiều không cần sự can thiệp của
con người.
Tự động hoá là một quá trình liên quan tới việc áp dụng các hệ thống cơ
khí, điện tử, máy tính để hoạt động, điều khiển sản xuất. Công nghệ này bao
gồm:
• Những công cụ máy móc tự động.
• Máy móc lắp ráp tự động.
• Người Máy công nghiệp.

• Hệ thống vận chuyển và điều khiển vật liệu tự động.
• Điều khiển có hồi tiếp và điều khiển quá trình bằng máy tính.
• Hệ thống máy tính cho việc thảo kế hoạch, thu nhập dữ liệu và ra quyết
định để hỗ trợ các hoạt động sản xuất.
1.2.2 Các hình thức tự động hoá
- Tự động hoá cứng:
Là một hệ thống trong đó một chuỗi các hoạt động (xử lý hay lắp ráp ) cố
định trên một cấu hình thiết bị. Các nguyên công trong dây chuyền này thường
đơn giản. Chính sự hợp nhất và phối hợp các nguyên công như vậy vào một thiết
bị làm cho hệ thống trở nên phức tạp. Những đặc trưng chính của tự động hoá
cứng là:
• Đầu tư ban đầu cao cho những thiết bị thiết kế theo đơn đặt hàng.
9
• Năng suất máy cao.
• Tương đối không linh hoạt trong việc thích nghi với các thay đổi sản
phẩm.
- Tự động hoá lập trình:
Thiết bị sản xuất được thiết kế với khả năng có thể thay đổi trình tự các
nguyên công để thích ứng với những cấu hình sản phẩm khác nhau.
Chuỗi các hoạt động có thể điều khiển bởi một chương trình, tức là một tập
lệnh được mã hoá để hệ thống có thể đọc và diễn dịch chúng.
Những chương trình mới có thể được chuẩn bị và nhập vào thiết bị để tạo
ra sản phẩm mới. Một vài đặc trưng của tự động hoá lập trình là:
+ Đầu tư cao cho những thiết bị có mục đích tổng quát
+ Năng suất tương đối thấp so với tự động hoá cứng.
+ Sự linh hoạt khi có sự thay đổi trong cấu hình sản phẩm.
+ Thích hợp nhất là cho sản xuất hàng loạt.
Tự động hoá linh hoạt là sự mở rộng của tự động hoá lập trình được. Khái
niệm của tự động hoá linh hoạt đã được phát triển trong khoảng 25 đến 30 năm
vừa qua. Và những nguyên lý vẫn còn đang phát triển.

- Tự động hoá linh hoạt:
Là hệ thống tự động hoá có khả năng sản xuất rất nhiều sản phẩm ( hay bộ
phận ) khác nhau mà hầu như không mất thời gian cho việc chuyển đổi từ sản
phẩm này sang sản phẩm khác. Không mất thời gian cho sản xuất cho việc lập
trình lại và thay thế các cài đặt vật lý ( công cụ đồ gá, máy móc ). Hậu quả là hệ
thống có thể lên kế hoạch kết hợp sản xuất nhiều loại sản xuất khác nhau thay vì
theo từng loại riêng biệt. Đặc trưng của tự động hoá linh hoạt có thể tóm tắt như
sau:
+ Đầu tư cao cho thiết bị.
+ Sản xuất liên tục những sản phẩm hỗn hợp khác nhau.
+ Tốc độ sản xuất trung bình.
+ Tính linh hoạt khi sản phẩm thay đổi thiết kế.
1.3 Sự phát triển của tự động hoá
10
Tự động hoá theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là: “ Tự chuyển động “ Ở đây
chúng ta hiểu thuật ngữ tự động hoá là thực hiện quá trình sản xuất mà trong đó
tất cả các tác động cần thiết để thực hiện nó, kể cả việc điều khiển quá trình
được tiến hành không có sự tham gia của con người.
Hiện nay tự động hoá được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành kinh tế
quốc dân, vì thế mà người ta gọi thế kỹ 20 này là thế kỹ của tự hoá và điều khiển
tự động. Nhưng nếu rà theo lịch sử phát triển thì chúng ta thấy nó có nguồn góc
từ thời cổ xưa.
• Vào thế kỹ thứ nhất sau công nguyên. Heron ở Ai Cập đã làm những màn
múa rối với nhiều loại con rối tự động.
• Đến thế kỹ 17-18 nhiều loại đồ chơi tự động và đồng hồ tự động đã xuất
hiện.
• Sau đó đến thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 trong giai đoạn cách mạng công
nghiệp ở châu âu tự động hoá mới xâm nhập vào thực tế sản xuất.
• Năm 1765 xuất hiện bộ điều chỉnh tự động mức nước trong nồi hơi của
Pondunóp

• Năm 784 bộ điều chỉnh tốc độ trong nồi hơi của Johnoát đã xuất hiện.
• Giai đoạn phát triển này của tự động hoá đã đóng vai trò quan trọng trong
khoa học kỹ thuật, thúc đẩy việc tự động hoá quá trình sản xuất trong chế
tạo máy. Trong quá trình lao động con người đã bắt đầu cải tiến công cụ
thô sơ thành những máy đơn giản chẳng hạn máy tiện gỗ đặc trưng. Dần
dần người ta tiến hành cơ khí hoá, thay lực đặc trưng bằng động cơ, thay
tay người cầm dao tiện bằng bàn dao chạy theo sống trượt của máy. Tiếp
tục bổ sung các bộ phận cơ khí hoá khác, thêm và cải tiến dần các cơ cấu
điều khiển, càng ngày máy càng thay đổi và càng tiến bộ và trở thành máy
bán tự động, rồi tự động.
• Năm 1712 thợ cơ khí người Nga NARTOP đã thiết kế máy tiện chép hình
để tiện các chi tiết định hình. Việc chép hình theo mẫu được tiến hành tự
động, chuyển động dọc của bàn dao là do bánh răng – thanh răng thực
11
hiện. Và đến năm 1798 Henry Nandsley ở nước Anh mới dùng vít – Đai
óc để dịch bàn máy.
• Năm 1873 Spender đã chế tạo máy tiện tự động có ổ cấp phôi và trục
phân phối với cam đĩa và cam thùng.
• Đến năm 1880 thì nhiều hãng trên thế giới như: Pittler, ludwig,
lowe( đức ), RSA( Anh ) … Đã chế tạo máy tiện tự động Rơvonve dùng
phôi thép thanh. Sau đó xuất hiện máy tiện tự động tiên dọc định hình.
• Vào đầu thế kỉ 20 bắt đầu có máy tự động nhiều trục chính, máy tự động
tổ hợp và đường dây tự động.
Ngày nay nhiều nước tiên tiến trên thế giới đã có nhiều đường dây tự động
phân xưởng tự động và cả nhà máy tự động gia công các sản phẩm hàng loạt
lớn, hàng khối như vòng bi, pittong, chốt ắc …
Để áp dụng tự động hoá vào điều kiện sản xuất hàng loạt nhỏ và sản xuất
đơn chiếc khi mà số lượng chi tiết trong loạt ít mà chủng loại lại nhiều, người ta
đã dùng máy điều khiển theo chương trình số. Máy này cho phép điều chỉnh
máy nhanh khi chuyển sang gia công loạt chi tiết khác. Bước phát triển tiếp theo

là sự xuất hiện của trung tâm gia công mà đặc điểm của nó là có ổ trữ dụng cụ
để thay thế theo trình tự gia công.
Những năm gần đây trên thế giới đặc biệt là các nước tư bản có khuynh
hướng mạnh hệ thống sản xuất linh hoạt. Ưu điểm nổi bật của nó là hệ số sử
dụng thiết bị cao ( 85%), năng suất cao và tính linh hoạt rất cao. Nó được áp
dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp máy công cụ, máy ô tô, máy kéo và
công nghiệp hàng không… Trong hệ thống sản xuất linh hoạt có thể áp dụng tự
động hoá toàn bộ quá trình sản xuất từ công đoạn thiết kế tự động chi tiết, thiết
kế tự động qui trình công nghệ, thiết kế tự động chương trình gia công, tự động
điều khiển quá trình sản xuất, tự động kiểm tra chất lượng sản phẩm …Đây là
hình thức tự động hoá tiến bộ nhất đưa lại hiệu quả kinh tế rất lớn.
Sau khi đã tìm hiểu nó một cách kỹ lưỡng kết hợp để thiết kế sản phẩm cho
rắp ráp đó cũng là vấn đề cũng quan trọng vì trước khi thiết kế một dây chuyền
sản xuất nào đó người thiết kế phải nắm rõ sản phẩm và các thuộc tính của nó,
12
ưu điểm như thế nào, kết cấu ra làm sao để việc tự động hoá sản phẩm được dễ
dàng. Do đó ta đi xem xét vấn đề thiết kế sản phẩm cho rắp ráp tự động.
1.4 Thiết kế sản phẩm cho lắp ráp tự động.
Lắp ráp là nối hai hoặc nhiều bộ phận với nhau để tạo nên một đối tượng
mới.
Đối tượng mới này gọi là cụm lắp ráp, đơn vị lắp ráp hay một tên nào đó
tương tự
1.4.1 Tìm hiểu về quá trình lắp ráp sản phẩm
Một trong những trở ngại trong lắp ráp tự động là đã có nhiều phương pháp
lắp ráp truyền thống mô tả ở trên được phát triển khi mà con người là phương
tiện duy nhất để lắp ráp một sản phẩm. Nhiều phương pháp kẹp chặt cơ khí
thường dùng trong công nghiệp ngày nay yêu cầu phài có những khả năng cảm
nhận và hoạt động như con người. Ví dụ, chúng ta hãy xem xét việc sử dụng
một đinh vít, một vòng đệm và một đai ốc để siết chặt hai miếng kim loại trên
phần lắp ráp vỏ máy. Thao tác kiểu này thường được làm bằng tay trong một tế

bào lắp ráp hoặc dây chuyền lắp ráp.
Việc lắp các phần tử trên và việc vặn bằng tay có thể dễ dàng thực hiện
bằng tay, vì con người là một cái máy cực kỳ khéo léo và thông minh. Tuy nhiên
nếu việc này mà tự động hoá thì thật không đơn giản chút nào. Cái khó nhất là
cho đinh ốc vào lỗ ghép hai phần tử, mà đôi khi các lỗ trên mỗi phần tử chưa
chắc đã trùng nhau. Khi lắp bằng tay người lắp có thể trông thấy được và canh
lại vị trí cho khớp, còn khi lắp bằng máy thì việc này không thể làm được. Khó
khăn nữa là sau khi lắp được đinh vít vào lỗ rồi thì phải lắp vòng đệm và đai ốc.
Người thợ một tay giữ đinh ốc, một tay giữ con tán xoay nhẹ cho con tán
ăn khớp với đinh ốc. Còn đối với máy tự động thì việc này rất khó thực hiện.
Việc vặn chặt ren là việc cuối cùng thì máy có thể làm việc không khó khăn gì.
Chính vì những khó khăn trên khâu lắp ráp các mối lắp ren là khó tự động hoá
nhất. Khâu này thường phải dùng đến con người để lắp sơ bộ trước sau đó máy
sẽ thực hiện việc kẹp chặt. Giá cao của lao động chân tay dẫn đến phải việc tìm
kiếm các công nghệ thích hợp và thiết kế các thiết bị tự động lắp ráp hoàn hảo.
13
Sau đây là những chỉ dẫn và những nguyên tắc có thể ứng dụng trong thiết
kế sản phẩm để việc lắp ráp tự động thực hiện dễ dàng.
1.4.2 Nguyên tắc ứng dụng trong thiết kế sản phẩm
• Giảm số lượng khâu lắp ráp:
Nguyên tắc này có thể triển khai trong quá trình thiết kế bằng cách kết hợp
nhiều chức năng trong cùng một chi tiết nào đó mà trước đây phải do nhiều chi
tiết ghép lại. Việc sử dụng các chi tiết từ chất dẽo là một ví dụ về nguyên tắc
này. Những hình dạng khá phức tạp của một miếng Plastic có thể thay thế cho
một vài chi tiết kim loại, mặc dù vật liệu Plastic có thể đắt hơn nhưng thời gian
tiết kiệm được trong quá trình lắp ráp đã chứngminh nó có thể thay thế được
trong nhiều trường hợp
• Sử dụng kết cấu tổ hợp:
Trong lắp ráp tự động, sự gia tăng số lượng của những bước lắp ráp riêng lẻ
đưa đến kết quả là gia tăng thời gian ngừng máy trong hệ thống. Reley cho rằng

một thiết kế sản phẩm phải có tính tổ hợp, mỗi tổ hợp chỉ gồm cỡ 11, 12 chi tiết
được lắp với nhau trên một hệ thống lắp ráp đơn. Tương tự, các cụm lắp phải
được bố trí chi tiết xung quanh cơ sở để lắp những chi tiết khác vào.
• Giảm mối ghép ren cần thiết.
Thay vì sử dụng những đinh vít và vòng đệm, đai ốc riêng lẻ, và những mối
ghép tương tự, thiết kế những cơ cấu kẹp chặt ngay trên chi tiết, và không chỉ
kẹp từng cái một mà đồng thời nhiều cái.
• Giảm sự cần thiết phải xử lý đồng thời nhiều linh kiện
Thực tế sử dụng các máy lắp ráp tự động cho thấy là phân chia các nguyên
công tại nhiều vị trí khác nhau thì tốt hơn là lắp chung tại một chỗ.
• Hạn chế số phương lắp ráp cần thiết
Nguyên lý đơn giản này có nghĩa là số phương lắp linh kiện mới phải giảm
tới mức tối thiểu.
Nếu tất cả những linh kiện mà được lắp ráp theo phương thẳng đứng từ trên
xuống thì tuyệt vời nhất. Đương nhiên việc này chỉ có thể giải quyết khi thiết kế
sản phẩm.
14
• Đòi hỏi linh kiện có chất lượng tốt.
Chất lương cao của hệ thống lăp ráp tự động đòi hỏi những linh kiện lắp
ráp tại mỗi vị trí phải có chất lương tốt. Những linh kiện có chất lương kém là
nguyên nhân gâyra ách tắc trong cơ cấu nạp phôi dẫn đến việc máy ngừng hoạt
động trong hệ thống tự động .
• Sử dụng các cụm cấp phôi.
Đây là một thuật ngữ để gọi những thiết bị có khả năng định ví chi tiết, tách
phôi và nạp phôi vào vị trí lắp ráp. Một trong những chi phí chủ yếu khi phát
triển các hệ thống lắp ráp tự động là mất thời gian cho việc thiết kế các cụm cấp
phôi tự động. Người thiết kế sản phẩm chịu trách nhiệm đảm hình dáng hình học
và những phần tử của các phần tử lắp ráp để việc lắp ráp được dễ dàng hơn.
Dây chuyền lắp ráp theo đường thẳng gồm một loạt những vị trí tự động
được đặt dọc theo hệ thống vận chuyển theo đường thẳng. Đó là một biến thể tự

động hoá của những dây chuyền lắp ráp bằng tay. Hệ thống vận chuyển gián
đoạn, không đồng bộ.
Nhận xét do đó nhu cầu tự động hoá là rất lớn. Nó góp phần năng cao nâng suất,
giảm tải công việc cho người công nhân.
1.5 Sự cần thiết phải có tự động hoá.
Các công ty hỡ trợ các dự án về vấn đề tự động hoá và CIM vì nhiều lý do
khác nhau. Một số lý do quan trọng gồm:
• Năng cao nâng suất:
Tự động hoá các quá trình hoạt động sản xuất hứa hẹn việc tăng năng suất
lao động. Điều này có nghĩa tổng sản phẩm đầu ra đạt năng suất cao hơn ( đầu
ra trên giờ ) so với hoạt động bằng tay tương ứng.
• Chi phí nhân công cao:
Xu hướng trong xã hội công nghiệp của thế giới là chi phí cho công nhân
không ngừng tăng lên. Kết quả là đầu tư cao lên trong các thiết bị tự động hoá
đã trở nên kinh tế hơn để có thể thay đổi chân tay. Chi phí cao của lao động
15
đang ép các nhà lãnh đạo doanh nghiệp thay thế con người bằng máy móc. Bởi
vì máy móc có thể sản xuất ở mức cao, việc sử dụng tự động hoá đã làm cho chi
phí trên một đơn vị sản phẩm thấp hơn.
• Sự thiếu lao động:
Trong nhiều quốc gia phát triển, có sự thiếu hụt lớn lực lượng lao động.
Chẳng hạn như Tây Đức đã bị ép buộc phải nhập khẩu lao động để làm tăng
nguồn cung cấp lao động của mình.
Việc thiếu hụt lao động cũng kích thích sự phát triển của tự động hoá
• Xu hướng dịch chuyển của lao động về thành phần dịch vụ:
Xu hướng này đặc biệt thịnh hành ở Mỹ vào lúc 1986, tỷ lệ lao động được
thuê trong sản xuất 20%. Năm 1947, nó vào khoảng 30%. Trước năm 2000, ước
lượng làđạt con số khoảng 2%. Chắc chắn là tự động hoá sản xuất đã tạo ra sự
dịch chuyển này. Tuy nhiên còn có nhiều sức ép xã hội, đoàn thể chịu trách
nhiệm cho xu hướng này. Sự phát triển của lực lượng lao động văn phòng được

thuê được chính phủ liên bang, tiểu bang và địa phương đã tiêu thụ một phần
lao động mà đáng lẽ đã phải tiêu thụ ở khu vực sản xuất. Ngoài ra, còn có xu
hướng xem công việc là tẻ nhạt, không có ý nghĩa là bẩn thỉu. Quan điểm này
đã khiến cho mọi người tìm kiếm việc làm trong thành phần dịch vụ của nền
kinh tế. ( Chính phủ, bảo hiểm, dịch vụ cá nhân, pháp luật bán hàng …)
• Sự an toàn:
Bằng việc tự động hoá các hoạt động và chuyển người vận hành máy từ vị
trí tham gia tích cực sang vai trò đốc công, công việc trở nên an toàn hơn. Sư an
toàn và thoải mái của công nhân đã trở thành mục tiêu quốc gia với sự ban hành
đạo luật sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp ( 1970). Nó cũng là sự tự động hoá.
• Giá nguyên vật liệu cao:
Giá cao của nguyên vật liệu tạo ra nhu cầu sử dụng các nguyên vật một
cách hiệu quả hơn. Việc giảm phế liệu là một trong những lợi ích của tự động
hoá.
• Nâng cao chất lượng sản phẩm:
16
Các hoạt động tự động hoá không chỉ sản xuất với tốc độ nhanh hơn so với
làm bằng tay mà còn sản xuất với sự đồng nhất cao hơn và sự chính xác đối với
các tiêu chuẩn chất lượng.
• Rút ngắn thời gian sản xuất:
Tự động hoá cho phép nhà sản xuất rút ngắn thời gian giữa việc đặt hàng
của khách hàng và thời gian giao sản phẩm. Điều này tạo cho người có ưu thế
cạnh tranh trong việc tăng cường dịch vụ khách hàng tốt hơn.
• Giảm bớt phôi liệu đang sản xuất:
Lượng hàng tồn kho khi đang sản xuất tạo ra một chi phí đáng kể cho nhà
sản xuất vì nó giữ chặt vốn lại. Hàng tồn kho khi đang sản xuất không có giá trị.
Nó không đóng vai trò như nguyên vật liệu hay sản phẩm. Tương tự như nhà
sản xuất sẽ có lợi khi giảm tối thiểu lượng phôi tồn đọng trong sản xuất. Tự
động hoá có xu hướng thực hiện mục đích này bởi việc rút ngắn thời gian gia
công toàn bộ sản phẩm phân xưởng

• Nếu không tự động hoá sẽ phải trả giá đắt:
Tự động hoá nhà máy sản xuất sẽ có một ưu thế cạnh tranh quan trọng.
Thuận lợi này không thể phơi bày được dưới hình thức uỷ thác của công ty. Ưu
điểm của tự động hoá thường được thấy một cách bất ngờ và không lường
trứơc, thí dụ như hàng chất lượng cao, bán hàng nhiều hơn quan hệ lao động tốt
hơn. Công ty mà không tự động dễ thấy mình bị bất lợi với khách hàng, nhân
viên của họ và xã hội công cộng.
Tất cả những nhân tố trên hợp thành một bản đồng ca biến việc tự động
hoá sản xuất thành một công cụ hấp dẫn thay cho phươngpháp sản xuất bằng
tay.
Nhận xét: ta thấy để đảm bảo chất lượng của sản phẩm, đồng thời tăng
năng suất ta chọn hệ thống lắp ráp tự động đó là một quy luật tất yếu phải xảy
ra.
17
Chương 2: GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÁC LOẠI BÚT BI TRÊN THỊ
TRƯỜNG VÀ CÔNG NGHỆ LẮP RÁP NÓ HIỆN NAY
2.1 Nhu cầu sử dụng bút bi hiện nay:
Xã hội ngày càng phát triển thì giáo dục càng được quan tâm, giáo dục
vững thì kinh tế mới mạnh và xã hội mới phát triển. Do đó, vấn đề giáo dục luôn
được đặt lên hàng đầu. Đối vơí nước ta, đào tạo, bồi dưỡng giáo dục luôn được
nhà nước và Đảng quan tâm, thể hiện ở các hội nghị trung ương các khoá gần
đây.
Vấn đề giáo dục được các đại biểu đề nghị cần có bổ sung và chỉnh sửa về
chương trình đào tạo, cải cách giáo dục, chú trọng phát triền giáo dục một cách
toàn diện nhất quán. Nhà nước thực sự quan tâm và đầu tư nhiều tiền và công
sức để phát triển giáo dục nước nhà, quan tâm và đầu tư để giải quyết dụng cụ
học tập cho học sinh, sinh viên mà những dụng cụ này trước đây là thiếu, cùng
với những chính sách mở cửa, thu hút thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà máy, công ty này tiếp xúc thị trường, giới thiệu sản phẩm ủng hộ họ để họ
mạnh dạng đầu tư trang thiết bị và các dây chuyền lắp ráp hiện đại để từng bước

18
cải thiện chất lượng, mẫu mã để có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng đặc
biệt là học sinh, sinh viên, và từng bước tạo được vị thế cho mình …
Chính vì vậy mà nhiều năm gần đây dụng cụ học tập ( thước kẻ, bút bi,
giấy tập…) cho học sinh, sinh viên rất đa dạng và được bán rộng khắp trên cả
nước tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng trong việc chọn lựa. Đa dạng
cả về mẫu mã lẫn chất lượng( thượng vàng hạ cám )nhiều năm gần đây nhiều
công ty như: công ty giấy tập Vĩnh Tiến, công ty Bút Bi Thiên Long, công ty bút
bi HanSon, công ty bút bi Bến Nghe…đã tạo chỗ đứng cho mình. Một trong
những sản phẩm được quan tâm đó là bút bi, hầu hết mọi người đều sử dụng nó
từ học sinh tiểu học, đến sinh viên đại học, từ ngườitrẻ em đến người ngưới già,
với sự phát triển dân trí như hiện nay nguời người nhà nhà đều sử dụng, nói
chung nó rất cần thiết cho chúng ta.
Nếu như trước đây bút bi chỉ có mặt tại các nhà sách, các cửa hiệuvăn
phòng phẩm thì giờ đây nó đã có mặt ở mọi nơi từ siêu thị, tiệm bách hoá hay
nói đúng hơn chỉ cần vài ba bước là có thể mua được. Từ đó, có thể thấy bút bi
cần thiết như thế nào đối với chúng ta. Nước ta có khoảng 80 triệu người chỉ cần
tính mỗi người sử dụng một cây, thì con số bút bi đã lên tới 80 triệu cây do đó
nhu cầu sử dụng nó là rất lớn.
Chính vì thế, nhiều cơ sở, nhiều xí nghiệp, công ty sản xuất bút bi đã thành
lập, đó là nhu cầu tất yếu.
2.2 Sự tiện lợi của bút bi so với bút máy:
2.2.1 Bút máy
Nếu như trước đây ta thường sử dụng bút máy do có nhiều tiện lợi như
• Ưu điểm:
- Rất bền
- Nét chữ mãnh
• Nhược điểm:
- Dễ lem khi viết
- Cần có bình mực để bơm

- Tốn thời gian bơm mực
19
- Tránh va chạm ở đầu bút
Ngoài ra sử dụng bút máy còn cần thiết cho học sinh tiểu học vì chúng ta
thường cho rằng đối với trẻ em mới bắt đầu tập viết nên cho viết bút máy để rèn
chữ và tập cho nó không hư chữ. Dần dần quan niệm này bị thay đổi, bút máy
được thay thế bởi bút bi do những ưu điểm của nó và thuận lợi so với bút máy
khi sử dụng
2.2.2 Bút bi
Bút bi dần dần thay thế bút máy do có những ưu điểm:
- Sử dụng dễ dàng, thuận tiện
- Không bị lem mực
- Bảo quản dễ
- Nét chữ có thể lựa chọn tuỳ ý.
- Đa dạng về mẫu mã
Dần dần sử dụng bút bi người ta thấy nó khắc phục được các khuyết điểm
của bút máy do đó nó càng được ưa chuộng và được sử dụng rộng rãi.
2.3 Thực trạng, xu hướng lắp ráp bút bi của các công ty hiện nay:
Hầu hết các công ty bút bi trong nước hiện nay thực hiện công đoạn lắp ráp
là bằng tay.
Các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ hoàn toàn lắp ráp bằng tay, chỉ có một số
công ty lớn như Thiên Long, HanSon thì có trang bị dây chuyền lắp ráp tự
động (nhưng rất hạn chế).
Ơû hình thức lắp ráp bằng tay, do người công nhân trực tiếp lắp ráp từng bộ
phận, năng suất thấp, chất lượng không cao (do phải cầm nắm nhiều nên sản
phẩm dễ ố, dơ không còn vẻ bóng loáng cần thiết cho sản phẩm).
Do đó để tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, giảm khối lượng công
việc cho công nhân phải có một dây chuyền lắp ráp linh hoạt đáp ứng nhu cầu
đó
2.4 Hệ thống lắp ráp:

Để thấy rõ công việc lắp ráp được thực hiện như thế nào ta đi tìm hiểu các
hệ thống lắp ráp và xem xét nó để lựa chọn hệ thống lắp ráp cho hợp lý
20
Các phương pháp tổ chức quá trình lắp ráp được phân loại như sau:
2.4.1 Lắp ráp bằng tay tại một vị trí là:
Phương pháp lắp ráp trong đó chỉ cómột vị trí làm việc mà tại đó công việc
lắp ráp được hoàn tất, cho cả chi tiết hoặc hoàn tất một cụm nào đó cuả sản
phẩm.
Phương pháp này thường được áp dụng với sản phẩm phức tạp số lượng ít
đôi khi sản phẩm chỉ là một loại. Ví dụ làm việc cần một hay nhiều công nhân
phụ thuộc vào kích cở sản phầm và năng suất yêu cầu. Các sản phẩm được thiết
kế theo đơn đặt hàng như máy công cụ, trang thiết bị công nghiệp, máy bay, tàu
thuyền hoặc các vật mẫu khá phức tạp ( ví dụ như thiết bị chuyên dùng, xe hơi
…) thường sử dụng phương pháp này.
Dây chuyền lắp ráp bằng taygồm nhiều vị trí làm việc, trong đó toàn bộ sản
phẩmhoặc các cụm chính đựơc hoàn tất theo dây chuyền từ vị trí này sang vị trí
kia trong hệ thống. Tại mỗi vị trí làm việc một hoặc nhiều công nhân cùng tham
gia lắp ráp để hoàn thành sản phẩm. Khi sản phẩm tới vị trí làm việc cuối cùng
thì nó được hoàn chỉnh.
Các hệ thống lắp ráp tự động sử dụng các phương pháp lắp ráp tự động ở
các vị trí làm việc thay vì lắp ráp bằng tay.
2.4.2 Dây chuyền lắp ráp bằng tay.
Dây chuyền lắp ráp bằng tay thường được dùng trong sản xuất hàng khối,
trong đó công việc được chia thành những nhiệm vụ nhỏ. Các công việc nhỏ này
được giao cho từng vị trí làm việc trong dây chuyền. Một trong những thuận lợi
phương pháp này là sự chuyên môn hoá lao động bằng cách giao cho mỗi công
nhân một số nhiệm vụ có tính lặp lại, nhờ vậy họ làm việc nhanh hơn.
2.4.3 Dây chuyền lắp ráp tự động
Thuật ngữ lắp ráp tự động nghĩa là sử dụng các thiết bị cơ khí hoá và tự
động hoá để thực hiện những chức năng khác nhau trong dây chuyền hay tế bào

lắp ráp. Đã có nhiều thành tựu đạt được về lĩnh vực lắp ráp tự động trong những
năm gần đây.
21
Một số những tiến bộ đã thúc đẩy nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực người
máy. Những robót công nghiệp thỉnh thoảngđược sử dụng như những thành
phần trong hệ thống lắp ráp. Mặc dù những phương pháp lắp ráp bằng tay được
mô tả ở trên chắc chắn sẽ được sử dụng nhiều năm trong tương lai, nhưng những
cơ hội để đạt tốt để đạt hiệu suất cao là nhờ sử dụng những phương pháp tự
động .
2.5 Sản phẩm
2.5.1 Giới thiệu một số sản phẩm có mặt trên thị trường
Tự động hóa quá trình công nghệ là phương hướng phát triển chung của
các nước trên toàn thế giới. Nhất là đối với những nước công nghiệp đang phát
triển như đất nước ta hiện nay thì yêu cầu đó càng cấp bách và không thể thiếu.
Quá trình tự động hóa tăng năng suất, giảm giá thành sản phẩm và điều
quan trọng là giải phóng sức lao động của con người. Tại công ty bút bi Thiên
Long bao gồm nhiều phân xưởng sản xuất, sản xuất nhiều loại bút bi khác nhau
như: bút chì sáp, bút lông kim, bút dạ quan, bút bi thường với sản lượng hằng
năm hàng triệu cây.
Quá trình sản xuất bút bi hiện nay chủ yếu theo dây chuyền bán tự động, ở
một số khâu phức tạp vẫn phải thực hiện bằng tay mặc dù công việc ở đây ảnh
hưởng xấu đến sức khoẻ của người công nhân. Vì vậy mục tiêu hiện nay của
công ty là từng bước thay thế dây chuyền lắp ráp, thay thế sức người để đảm bảo
22
an toàn lao động, sản phẩm tạo ra đáp ứng đúng yêu cầu chất lượng.Tuy vậy để
thực hiện kế hoạch như trên công ty cần phải có nguồn đầu tư lớn về vốn.Tại các
xí nghiệp hầu hết các dây chuyền sản xuất tự động được nhập từ nước ngoài như
Trung Quốc, Đài Loan đã sản xuất từ nhiều năm nay tuy sản phẩm làm ra có
chất lượng nhưng do dây chuyền sữ dụng quá lâu cần thiết kế lại một số cum
khác để phù hợp với nhu cầu của công ty . Phương hướng hiện nay của công ty

là sản xuất lại các dây chuyền nhập từ nước ngoài để giảm giá thành, nhưng vẫn
đảm bảo năng suất yêu cầu.
Giới thiệu sản phẩm.
Hình 1 là một sản phẩm điển hình có thể áp dụng hình thức lắp ráp tự động.
Sản phẩm này là một loại bút bi của công ty bút bi Thiên Long với mã sản phẩm
TL-034(Jollee).
23
Hình 1
Các bộ phận của TL-034 bao gồm:ruột, cán, tảm, nắp
2.5.2 Hình ảnh sản phẩm có thể lắp ráp bằng dây chuyền tự động
2.6 Giới thiệu qui trình sản xuất bút bi (TL 034)
Việc sản xuất một loại bút bi nào đó đòi hỏi qua nhiều công đoạn như: thiết
kế bản vẽ, tạo khuôn, bộ phận kiểm tra … sản xuất thử, sản xuất hàng loạt
Bộ phận thiết kế:
Phải phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, mẫu mã phải đa dạng, gọn nhẹ, đẹp
mắt
Bộ phận kỹ thuật ( bộ phận khuôn ): ở đây sẽ chế tạo bộ khuôn theo đúng
yêu cầu của bản vẽ, sau khi có khuôn cho sản xuất thử.
Bộ phận sản phẩm và máy móc: kiểm tra, nếu có sai xót báo cáo cho bộ
phận tạo khuôn để kịp sửa chữa, nếu không có gì thì cho sản suất hàng loạt.
24
2.6.1 Công đoạn lắp ráp bút bi ( TL_034):
25

×