Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

thực trạng tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.27 KB, 60 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU, MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Rau xanh là thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hằng ngày của
mọi gia đình. Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, khi mà sản xuất nông nghiệp đã
đạt được những thành tựu nổi bật; trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày đã đảm bảo
được lương thực và thức ăn giàu đạm thì yêu cầu về số lượng và chất lượng rau
lại càng gia tăng. Điều đó có ý nghĩa như một nhân tố tích cực trong cân bằng dinh
dưỡng và kéo dài tuổi thọ của con người. Rau cung cấp cho cơ thể con người các
chất dinh dưỡng quan trọng như các loại vitamin, muối khoáng, axit hữu cơ, các
hợp chất thơm, cũng như protein, lipit, chất xơ…Vai trò của cây rau được khẳng
định qua câu tục ngữ: “ cơm không rau như đau không thuốc”. Giá trị cây rau
được thể hiện nhiều mặt trong cuộc sống [3].
Sản xuất rau là một ngành sản xuất truyền thống của nông nghiệp
Việt Nam. Nhân dân ta đã đúc rút nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc,
huấn luyện cây con, chống nóng, chống rét, trồng rau rải vụ, trái vụ… Tuy
nhiên, trong xu thế của một nền nông nghiệp sản xuất thâm canh, bên cạnh
gia tăng về khối lượng, chủng loại, ngành trồng rau đang bộc lộ mặt trái
của nó: việc ứng dụng ồ ạt, thiếu chọn lọc các tiến bộ kỹ thuật về hóa học,
nông hóa thổ nhưỡng, công nghệ sinh học, gia tăng về nước thải công
nghiệp đã làm gia tăng mức độ ô nhiễm các sản phẩm rau xanh.
Do đặc điểm của rau chứa nhiều nước, tế bào mỏng, quá trình sản
xuất phải thâm canh cao, bón nhiều phân, rau lại là đối tượng cho nhiều
loại sâu, bệnh gây hại. Mặt khác, nông dân một phần do hiểu biết hạn chế,
một phần do thiếu ý thức, chạy theo lợi nhuận, không quan tâm đến an toàn
rau cho người tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất, người nông dân đã dùng
các biện pháp hóa học để phòng trừ không đúng quy định, tiêu chuẩn của
thuốc hóa học, dùng phân hóa học quá liều lượng, sử dụng phân tươi… đã
1
làm cho rau xanh ngày càng bị ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người
và môi trường sinh thái.


Đứng trước tình hình rau xanh ngày càng bị ô nhiễm nặng ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khỏe con người, một số địa phương, tỉnh, thành phố;
nhiều cấp ngành quan tâm đến việc sản xuất rau an toàn bằng nhiều giải
pháp như: ban hành chính sách, quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn, nâng
cao nhận thức của người nông dân… Trong quá trình phát triển,Thừa Thiên
Huế đã xuất hiện nhiều vùng trồng rau chuyên canh mới, không ngừng đổi
mới về tiến bộ kỹ thuật, giống mới…
Nhu cầu về rau sạch và rau an toàn của người dân ngày càng cao.
Tuy nhiên, việc cung cấp nguồn rau này cho người tiêu dùng còn nhiều hạn
chế. Người sản xuất rau an toàn đang lúng túng đầu ra; trong khi đó nhu
cầu RAT lại không được đáp ứng. Kết quả nghiên cứu về nhu cầu rau của
người dân trên địa bàn thành phố Huế cho thấy rằng nhu cầu của người dân
về rau an toàn là rất cao, tuy nhiên những hợp tác xã trồng rau an toàn (như
HTX Kim Thành -Thừa Thiên Huế ) hoặc vùng quy hoạch trồng rau an
toàn của Đà Nẵng thì không tìm được đầu ra. Một trong những trở ngại lớn
nhất là sự tin tưởng về chất lượng và giá của rau an toàn chưa phù hợp với
đại bộ phận người tiêu dùng. Kết cục, không ít các vùng qui hoạch rau phải
bỏ hoang, các HTX kinh doanh rau sạch phải chuyển sang kinh doanh mặt
hàng khác Vậy câu hỏi ở đây là làm như thế nào để đẩy mạnh sản xuất và
phát triển thị trường rau đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng? Trong thực
tế chưa có đề tài nào nghiên cứu một nghiên cứu nào mang tính hành động
và có hệ thống để giải quyết vấn đề này.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đó, tôi lựa
chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn
thành phố Huế”. Nghiên cứu được tiến hành ở hai phường Tây Lộc và
Thuận Hòa – thành phố Huế.
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng tiêu thụ rau xanh trên địa bàn thành phố Huế.
- Tìm hiểu tình hình tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn thành phố và

nhu cầu rau an toàn của người dân thành phố.
- Xác định các giải pháp phát triển thị trường rau xanh đáp ứng nhu
cầu người tiêu dùng.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Giới thiệu về cây rau
2.1.1. Nguồn gốc và sự phân bố
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam châu Á, với chiều dài khoảng 15
vĩ độ, có bờ biển dài khoảng 3.000 km; thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa, có mùa đông lạnh; vị trí địa lý, khí hậu có nhiều thuận lợi cho việc
trồng nhiều loại rau nhiệt đới và một số rau ôn đới; mùa vụ thu hoạch kế
tiếp nhau nhiều tháng trong năm. Tuy vậy, cũng có nhiều bất lợi về khí hậu
như mưa lũ, bão, hạn hán xảy ra thất thường. Đặc biệt do ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu, các hiện tượng này xảy ra cường độ ngày càng mạnh và
tần suất càng lớn.
Rau rất đa dạng và phong phú về chủng loại, theo ước tính có 10.000
loài thực vật được dùng làm rau trên khắp thế giới, nhưng chỉ có 50 loài có
giá trị thương mại, khoảng 70 – 80 loại rau trong sản xuất[3]. Theo nhiều
nguồn tài liệu khác nhau, hiện có khoảng 70 loài rau ôn đới, á nhiệt đới,
cận nhiệt đới và nhiệt đới đã trồng ở Việt Nam[1].
Các vùng trồng rau của cả nước bao gồm các tỉnh phía Bắc thuộc
vùng đồng bằng sông Hồng. Phía Nam, các huyện ngoại thành TP. Hồ Chí
Minh, đồng bằng sông Cửu Long như Tân Hiệp – Tiền Giang, Châu
Thành- Cần Thơ, Vĩnh Châu – Sóc Trăng. Miền Trung và Tây Nguyên
gồm vùng rau truyền thống như Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng (Lâm
Đồng), các tỉnh duyên hải miền Trung[3].
Ở nước ta hiện nay có 2 vùng trồng rau chủ yếu:
- Vùng rau tập trung chuyên canh ven thành phố và khu công nghiệp
với khoảng 40 % diện tích, 38% sản lượng. Chủng loại rau rất phong

phú(hơn 60 loài). Sản phẩm chủ yếu phục vụ cho cư dân phi nông nghiệp
nên yêu cầu về chất lượng ngày càng gia tăng.
4
- Vùng rau luân canh với hai vụ lúa ( vụ rau đông xuân), chiếm 60%
diện tích và gần 2/3 sản lượng cả nước. Đây là vùng rau hàng hóa có năng
suất và chất lượng cao, có tiềm năng lớn cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến và cho xuất khẩu, đặc biệt tại đồng bằng sông Hồng và tỉnh
Lâm Đồng.
- Ở Thừa Thiên Huế:
+ Vùng rau truyền thống tại một số phường, xã thuộc thành phố Huế:
phường Tây Linh, phường Thuận Lộc, Tây Lộc, Kim Long, Hương Long,
Hương Vinh- thành phố Huế.
+ Vùng sản xuất rau phụ cận thành phố Huế: có diện tích trung bình
30- 45 ha( xã Hương Xuân, Hương An, Hương Chữ( Hương Trà), xã Điền
Lộc, Điền Môn, Điền Hòa, Điền Hải( Phong Điền), xã Quảng Thành,
Quảng Thọ, Quảng An, Quảng Lợi( Quảng Điền)[3].
2.1.2. Giá trị của cây rau.
2.1.2.1 Giá trị dinh dưỡng
Giá trị dinh dưỡng của rau thể hiện trên nhiều mặt: rau cung cấp cho
cơ thể người nhiều loại vitamin như A, B ,C, PP…trong rau còn chứa các
chất khoáng và các chất chứa năng lượng. Trong rau xanh hàm lượng nước
chiếm 85- 95 %, chỉ có 5- 15% là chất khô. Trong chất khô lượng cacbon
rât cao ( cải bắp 60%, dưa chuột 74- 75%, cà chua 75-78%, dưa hấu 92%).
Giá trị dinh dưỡng cao nhất ở rau là hàm lượng đường ( chủ yếu đường
đơn), chiếm tỷ lệ lớn trong thành phần cacbon. Nhờ khả năng hòa tan cao,
chúng làm tăng sự hấp thu và lưu thông của máu, tăng tính hoạt hóa trong
quá trình oxy hóa năng lượng của các mô tế bào[3].
2.1.2.2. Giá trị kinh tế
Trong những năm qua sản xuất rau ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ,
sản xuất rau và trái cây phát trển khai thác được nguồn lực có giá trị và đáp

ứng nhu cầu xuất khẩu. Đặc điểm của rau là có thời gian sinh trưởng ngắn
nên trong một năm có thể bố trí nhiều vụ rau khác nhau. Trồng rau góp
phần làm tăng hệ số sử dụng đất, tăng phẩm chất đất. Bên cạnh đó, sản xuất
5
rau còn làm tăng thu nhập của kinh tế hộ gia đình, hạn chế thời gian nhàn
rỗi của người dân ven thành phố, tăng thêm thu nhập trên đơn vị sử dụng
đất…
Bảng 2.1: So sánh hiệu quả sản xuất một số loại rau với các cây trồng
khác:
Loại cây Lúa Ngô Bắp cải

chua
Dưa
chuột
Năng suất( tạ/ hạ) 44.4 25 444.4 278.8 250
Giá bán bình quân
(đồng)
2.000 2.300 400 700 1.200
Tổng chi phí
- Chi phí vật chất
( 1000đ/ha)
5.050 2.417 6.028,3 5.157,1 6.447,8
- Chi phí lao
động(công/ha)
194,4 222 556 695 834
Tổng thu nhập
(1000đ/ha)
3.830 3.333 11.749,3 14.302,9 23.552,2
Thu nhập/công
(đồng/công)

19,7 15,0 21,1 20,6 28,2
Nguồn: Tài liệu thứ cấp, 2010
Rau xanh cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển nhiều ngành
nghề khác như: rau xanh là nguyên liệu của ngành công nghiệp thực phẩm;
rau xanh là nguồn thức ăn cho gia súc; một số loại rau còn sử dụng để làm
thuốc, đặc biệt cây tỏi được xem lá dược liệu quý trong nền y học cổ truyền
của nhiều nước như Ai Cập, Trung Quốc, Việt Nam…dùng nhánh tỏi để
chữa bệnh huyết áp cao và bệnh thấp khớp. Một số loại rau có tính trừ sâu
như xà lách, một số loại rau lại có giá trị thẩm mỹ như ớt đỏ, dưa leo, cà
chua, mướp đắng…[3].
6
Đối với chế biến đồ hộp và đông lạnh, Việt Nam hiện có 16 nhà máy
với tổng công suất hơn 90 ngàn tấn sản phẩm/ năm; năng suất cao nhất đạt
30 ngàn tấn sản phẩm đồ hộp rau quả, 20 ngàn tấn sản phẩm đông lạnh.
ngoài các nhà máy lớn còn có một số xưởng thủ công chế biến rau quả như
sấy, làm muối với quy mô nhỏ [1].
Rau còn là mặt hàng xuất khẩu đóng góp không nhỏ trong kim ngạch
xuất khẩu của nước ta. Thị trường xuất khẩu rau qua các năm trở lại đây
được mở rộng nhiều hơn so với trước và đa dạng hơn về chủng loại. Các
mặt hàng rau của Việt Nam đã có mặt gần 50 nước và lãnh thổ trên khắp
các châu lục của thế giới, trong đó chủ yếu là Châu Âu, Bắc Âu, Tây Âu,
Mỹ. Xuất khẩu rau tươi nói chung còn ít, chỉ chiếm khoảng từ 10 – 15 %
kim ngạch xuất khẩu, nguyên liệu một phần do xuất khẩu rau tươi đòi hỏi
phải tổ chức chặt chẽ, trang thiết bị, công nghệ bảo quản tiên tiến. Những
chủng loại rau tươi xuất khẩu gần đây chủ yếu là bắp cải, đậu quả, hành,
tỏi, một số cây gia vị, nhiều loại rau củ đã cắt thái sẵn và đóng trong bao
ướp lạnh xuất thẳng đến các siêu thị[1].
Trong tháng 2/2008 kim ngạch xuất khẩu rau quả của nước ta đạt
26,56 triệu USD, còn trong tháng 1/2008 đạt 27,89 triệu USD. Đáng chú ý
trong tháng 2, xuất khẩu hành đạt gần 2,3 triệu USD, tăng gấp hơn 10 lần

so với tháng 1/2008. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu rau quả của ViệtNam
năm 2008 đạt 350 triệu USD, tăng 16,7% so với năm 2007.
Nước ta có tiềm năng lớn về sản xuất và xuất khẩu rau quả. Đến nay,
diện tích rau quả đạt trên 1,4 triệu ha, sản lượng trên 16 triệu tấn. Rau quả
Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 50 quốc gia và khu vực trên thế giới
trong đó có nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng và khối lượng
như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Hồng
Kông nhưng nhìn chung kim ngạch còn thấp và chưa tương xứng với
tiềm năng[7].
Tuy có nhiều loại rau xuất khẩu dưới dạng tươi khá phong phú
nhưng nhìn chung, các loại rau xuất khẩu còn mang tính đơn điệu, nhỏ lé,
số lượng ít, thiếu tính cạnh tranh. Phản ánh tình trạng sản xuất còn manh
7
mún, mặt hàng chế biến rau cho xuất khẩu còn ít… đây là những điểm yếu
cơ bản của xuất khẩu rau của Việt Nam hiện nay.
2.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ rau trên thế giới và trong nước
2.2.1. Trên thế giới
Khi mức sống của người dân tăng lên thì nhu cầu về rau quả cũng
tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Theo tính toán của nhiều nhà khoa
học dinh dưỡng ở mỗi khu vực khác nhau trên thế giới thì nhu cầu về rau
quả cũng khác nhau ở khu vực Châu Á và Viễn Đông theo nghiên cứu dự
báo, cứ thu nhập tăng lên 0.1% thì nhu cầu về rau, đậu, quả tươi tăng lên
0.9%, đậu hạt tăng 0.5 %, đường tăng lên 1.3%. Sữa và sản phẩm từ sữa
tăng lên 1.8%, dầu mỡ bơ tăng lên 1.2%, ngũ cốc tăng lên 0.5%, thịt tăng
lên 0.5%, trứng tăng lên 2.0%, cá tăng 1.1% [2].
Theo tổng kết của FAO hiện nay diện tích trồng rau trên thế giới
đạt khoảng 15 triệu/ năm. Năng suất bình quân đạt 35-40 tấn/ ha. Sản lượng
đạt khoảng 600 triệu tấn, bình quân đầu người 85kg rau các loại/ năm, bao
gồm 120 chủng loại rau trong đó có 14 chủng loại rau chính có diện tích từ
500.000 ha trở lên. Điều này cho thấy sản lượng rau trên thế giới đã không

ngừng tăng lên. Sản lượng tăng là do con người biết áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
2.2.2. Ở Việt Nam
Trong những năm trở lại đây, được sự quan tâm của nhà nước, chính
quyề các địa phương, các ngành sản xuất rau và người trồng rau đặc biệt là
những vùng trồng rau an toàn và rau sạch đang có xu hướng phát triển
mạnh mẽ. Dần dần đã hình thành các vùng chuyên canh sản xuất rau có
công nghệ cao như Đà Lạt, Thành Phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế, Đà
Nẵng…Các địa phương cũng như người sản xuất đã đầu tư trang thiết bị
và các kỹ thuật cần thiết để phục vụ cho hoạt động này.
2.2.3. Tại Thừa Thiên Huế
8
Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc khu vực miền Trung, có diện tích
đất tự nhiên 500.920 ha, diện tích đất nông nghiệp 51.527 ha trong đó đất
trồng rau là 2.789 ha. Dân số Thừa Thiên Huế 1.1 triệu người, nhu cầu rau
tươi hàng ngày của người dân là rất lớn. Ngòai ra thành phố Huế là một
thành phố du lịch, thành phố FESTIVAL hằng năm du khách đến Huế rất
đông. Nhu cầu về rau cao cấp, rau an toàn ngày càng nhiều. Tuy vậy, thời
tiết tth hết sức khắc nghiệt: nắng hạn, ngập úng, mưa nhiều, rét đậm nên
sản xuất rau gặp nhiều khó khăn, mặt khác trình độ thâm canh thấp và
chưa thành tập quán sản xuất rau hàng hóa, việc sản xuất rau chủ yếu là để
tiêu thu tại chỗ. Tuy nhiên sản xuất ở đây cũng đáp ứng được một phần
nhu cầu toàn tỉnh.
Để nắm được tình hình diễn biến diện tích rau của các huyện qua
các năm chúng ta nghiên cứu bảng dưới đây[6]:
Bảng 2.2: Diện tích rau của thành phố Huế và các huyện trong toàn
tỉnh
Đơn vị
hành chính
1995 1998 1999 2000 2001 % 1995/ 2001

TP Huế 320 390 449 470 565 56,23
Phong Điền 278 200 223 337 339 82,0
Quảng Điền 177 298 320 399 365 48,49
Hương Trà 297 247 286 415 431 68,90
Phú Vang 612 650 638 805 850 72,0
Hương Thủy 279 276 286 310 315 88,57
Phú Lộc 159 212 241 225 201 79,1
9
Nam Đông 38 44 34 80 61 62,29
A lưới 96 108 112 101 101 95,05
Tổng số 2.256 2.245 2.589 3.122 3.234 69,75
Nguồn: Tài liệu thứ cấp, 2010
Qua bảng ta có thể thấy được diện tích rau của thành phố Huế và
các huyện qua các năm có xu hướng tăng ngày một nhanh, tổng diện tích
rau toàn tỉnh tăng 978h tương đương 0,24 %. Việc tăng diện tích rau của
toàn tỉnh có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là
do kinh tế của cây rau mang lại cao hơn hẳn so vói các cây lương thực
khác. Từ đó cây rau được nhiều người dân chọn để làm mục tiêu của việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
2.3. Rau an toàn và những vấn đề liên quan đến sản xuất rau an toàn ở
Việt Nam và Thừa Thiên Huế:
2.3.1 Khái niệm rau an toàn
- Rau quả an toàn là sản phẩm rau quả tươi được sản xuất, sơ chế
phù hợp với các quy định về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm có trong
vietgap ( quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau quả tươi tại
Việt Nam) hoặc theo tiêu chuẩn gap khác tương đương vietgap và mẫu điển
hình đạt chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm quy định tại phị lục 3 của quy
định này [4].
- Rau sạch được xem là đảm bảo sạch khi:
+ Về hình thức là sạch và hấp dẫn: tươi, sạch bụi bặm, không có tạp

chất, thu hoạch đúng độ chín là lúc chất lượng rau cao nhất, không có triệu
chứng bệnh. Có bao bì vệ sinh, hấp dấn.
+ Về chất lượng phải an toàn: khi sản phẩm rau không chứa các dư
lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng nitrat, dư lượng kim loại nặng, vi
sinh vật gây hại không vượt quá ngưỡng cho phép tiêu chuẩn vệ sinh y tế.
+ Về hình thức: không đòi hỏi khắt khe về hình thức.
10
+ Sạch an toàn về chất lượng cũng như phải đạt các chỉ tiêu nêu
trên, song không cao [1].
- Rau hữu cơ là rau được sản xuất trong một “ nông trại hữu cơ”,
được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận: đất đai và nguồn nước không
tồn đọng phân hóa học, các loại thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học, thuốc
diệt cỏ, các kim loại nặng( thủy ngân, sắt, chì)[3].
2.3.2. Tình hình sản xuất rau an toàn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp, lúa là cây trồng xuất khẩu đem
lại hiệu quả kinh tế cao cho nước nhà. Tuy nhiên, mặt hàng rau vẫn đóng
góp không nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Không những thế,
sản xuất rau đã góp phần giải quyết việc làm và tăng thêm thu nhập cho
người dân. Ngày nay, khi đời sống được nâng cao, nhu cầu về thực phẩm
củ người dân cũng tăng lên. Trong bữa ăn hằng ngày, đòi hỏi cao về rau
sạch và rau chất lượng cao, yêu cầu về an toàn toàn thực phẩm ngày càng
đòi hỏi khắt khe.
Nhận thức rõ về tác hại của vấn đề rau bị ô nhiễm đến sức khỏe con
người, nhiều tỉnh, thành phố đã có chủ trương, chính sách trong việc đầu
tư, phát triển rau an toàn để cung cấp cho người tiêu dùng.
- Thành phố Hồ Chí Minh: hiện có 3.200 ha sản xuất rau an toàn, đã
xây dựng phòng thí nghiệm công nghệ cao để sản xuất các giông rau F1.
Hiện có 37 tổ chức tham gia kí hợp đồng trực tiếp với nông dân hoặc trực
tiếp sản xuất rau an toàn trên địa bàn. Thành phố đã phát triển 100 nhà lưới
với diện tích bình quân 500 – 1000 m2/ 1 nhà lưới[1].

- Đà Lạt: đây là vùng cung cấp rau an toàn chính cho khu vực phía
nam. ở đây người dân đã sớm hình thành mô hình sản xuất rau trong nhà
lưới. Hiện nay, người dân nơi đây đã đầu tư trồng rau công nghệ cao.
- Hà Nội: ở địa bàn thành phố Hà Nội đã xuất hiện nhiều mô hình
sản xuất rau an toàn có hiệu quả như họp tác xã trồng rau Văn Đức, huyện
Gia Lâm. Tại đây, các hộ gia đình tự lên kế hoạch sản xuất, chưa có sản
xuất theo hợp đồng. Hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng giống và công tác
11
quy hoạch vùng rau, hướng dẫn kỹ thuật. Diện tích trồng rau an toàn ở đây
là 120 ha, chủ yếu là bắp cải( 30 ha), carot( 10 ha) và cà tím[1].
- Tại Thừa Thiên Huế : nhiều năm trở lại đây thành phố Huế nói
riêng và Thừa Thiên Huế nói chung đã hình thành các vùng sản xuất rau an
toàn như HTX Kim Thành, làng La Chữ, các phường Tây Lộc, Thuận
Lộc vấn đề rau an toàn ngày càng được người tiêu dùng quan tâm nhiều
hơn.
12
PHẦN 3
NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra điều kiện tự nhiên tại thành phố Huế
+ Diện tích đất tự nhiên, đất nông nghiệp, đất trồng rau.
+ Thời tiết, khí hậu.
- Điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố Huế
+ Dân số trên địa bàn
+ Thu nhập( 1000 đồng/ tháng).
+ Cơ cấu lao động
- Tình hình tiêu thụ rau xanh tại thành phố Huế
+ Sản lượng rau tiêu thụ hằng năm( kg).
+ Các loại rau được người dân sử dụng nhiều nhất
+ Các điểm bán rau chính trên địa bàn

+ Các nguồn cung ứng rau an toàn chủ yếu trên địa bàn Thừa Thiên Huế
+ Các vùng quy hoạch trồng rau an toàn trên địa bàn
+ Các điểm cung ứng rau an toàn trên địa bàn.
+ Nhu cầu tiêu thụ rau hàng ngày của người dân Thành phố Huế:
chủng loại và số lượng, lí do
+ Các kênh cung ứng rau (địa điểm) thường được người dân lựa chọn
mua, lí do
- Đánh giá chất lượng của những nguồn cung ứng rau đó:
+ Mức độ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng
+ Chất lượng rau
13
- Tìm hiểu hiểu biết của người dân về vấn đề rau an toàn và nâng cao
nhận thức cho họ trong việc sử dụng rau sạch và rau an toàn.
+ Quan điểm của người dân về chất lượng rau
+ Quan điểm của người dân về RAT
+ Nhu cầu RAT của người tiêu dùng
+ Tiêu chí RAT của người tiêu dùng
- Đề xuất một số giải pháp thích hợp nhằm phát triển thị trường rau
xanh và RAT đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
+ Hình thức sản xuất
+ Hình thức đóng gói
+ Giá cả
+ Địa điểm bán rau
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng chính trong nghiên cứu này bao gồm người tiêu dùng ở
hai phường Tây Lộc và Thuận Hòa của thành phố Huế. Bên cạnh đó, cán
bộ phường và cán bộ chợ Tây Lộc cũng như cán bộ sở nông nghiệp tỉnh
Thừa Thiên Huế cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài này.

- Phạm vi nghiên cứu:
 Vùng nghiên cứu: Nghiên cứu này tập trung nghiên cứu tại hai
phường Tây Lộc và Thuận Hòa, thành phố Huế.
Việc chọn vùng nghiên cứu dựa trên các tiêu chí sau:
- Điểm nghiên cứu phải thể hiện được tính đại diện cho vùng nghiên cứu
về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội.
14
- Điểm nghiên cứu tập trung đông dân cư, hoạt động thương mại phát
triển, là điểm có một trong số chợ loại 1 của thành phố và nhiều chợ lớn
nhỏ hoạt động đông đúc khác.
- Thuận lợi cho việc điều tra, thu thập số liệu trong quá trình nghiên
cứu.
Thành phố Huế có 27 phường, Tây Lộc và Thuận Hòa là 2 phường có đủ
các điều kiện để tiến hành nghiên cứu.
 Phạm vi về thời gian: Các số liệu được thu thập trong 3 năm từ năm
2008, 2009 và 2010. Nguyên nhân chính, do những năm trở lại đây vấn
đề an toàn thực phẩm đang trở nên rất cấp thiết đối với người tiêu dùng.
Đặc biệt đối với rau xanh, là thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn
hàng ngày của mọi gia đình.
- Thời gian điều tra: 03/01/2011 – 06/05/2011.
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập thông tin thứ cấp: các báo cáo liên quan đến tình hình sản
xuất và tiêu thụ rau trên địa bàn thành phố Huế trong 3 năm 2008, 2009, 2010
từ Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Thừa Thiên Huế và phòng
thống kê thành phố Huế.
- Thu thập thông tin sơ cấp:
+ Phỏng vấn người tiêu dùng bằng bảng hỏi bán cấu trúc với số
lượng mẫu là 161 hộ. Trong đó gồm 131 hộ thuộc phường Tây Lộc và 30
hộ thuộc phường Thuận Hòa.
Cách chọn hộ phỏng vấn: hộ được chọn ngẫu nhiên bằng cách dùng

danh sách hộ từ phường Tây Lộc và phường Thuận Hòa. Từ đó, bốc thăm
ngẫu nhiên có định hướng tuyến đường. Điều này có nghĩa rằng: tất cả các
tuyến đường chính của hai phường đều có hộ điều tra.
Nội dung điều tra, phỏng vấn hộ tập trung vào nhu cầu về rau xanh
và rau an toàn của hộ, địa điểm mua rau, chủng loại rau thường mua, lý do
chọn các loại rau Đồng thời tìm hiểu hiểu biết của người dân về vấn đề
15
rau an toàn như tiêu chí rau an toàn, quan điểm về rau an toàn hay định
hướng sử dụng rau như thế nào cho an toàn.
+ Phỏng vấn sâu người bán lẻ, cán bộ chợ Tây Lộc, cán bộ phường
Tây Lộc, phường Thuận Hòa và cán bộ Sở NN & PTNT Tỉnh Thừa Thiên
Huế. Nội dung phỏng vấn tập trung vào khối lượng và chủng loại rau tiêu
thụ trên địa bàn thành phố cũng như tìm hiểu các nguồn cung cấp rau chính
trên địa bàn.
3.3. Phương pháp xử lý số liệu
- Tất cả các số liệu điều tra được mã hoá, nhập và xử lý trên phần
mềm Excel
- Ở nghiên cứu này sử dụng kết hợp phương pháp phân tích định
tính và phân tích định lượng nhằm phân tích hiểu biết của người dân về rau
xanh và rau an toàn và quan điểm của họ về phát triển thị trường rau an
toàn.
16
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Huế nằm ở toạ độ địa lý 16-16,80 vĩ bắc và 107,8-
108,20 kinh đông. Phía Bắc và Phía tây giáp huyện Hương Trà, phía Nam
giáp thị xã Hương Thuỷ, phía Đông giáp thị xã Hương Thuỷ và huyện Phú
Vang. Tọa lạc hai bên bờ dòng Sông Hương liên kết ngoài Sông Hương,

về phía bắc Đèo Hải Vân, cách Đà Nẵng 112km, cách biển Thuận An 12
km, cách sân bay quốc tế Phú Bài 15 km và cách cảng nước sâu Chân
Mây 50 km. Diện tích tự nhiên 83.3 km2, chiếm 1,5% về diện tích so với
cả nước.
Hình 4.1: Bản đồ vị trí địa lý thành phố Huế
Nguồn:

17
Địa
bàn
nghiê
n cứu
Nằm tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn, khu vực thành phố Huế là
đồng bằng thuộc vùng hạ lưu sông Hương và sông Bồ, có độ cao trung
bình khoảng 3 - 4 m so với mực nước biển. Vì thế, thành phố Huế thường
bị ngập lụt khi đầu nguồn của sông Hương (trên dãy Trường Sơn) xảy ra
mưa vừa và lớn. Khu vực đồng bằng này tương đối bằng phẳng, tuy trong
đó có xen kẽ một số đồi, núi thấp như núi Ngự Bình, Vọng Cảnh
Thành phố Huế nằm ở vị trí có điều kiện thiên nhiên, hệ sinh thái đa
dạng, phong phú và diện mạo riêng tạo nên một không gian hấp dẫn, được
xây dựng trong không gian phong cảnh thiên nhiên kỳ diệu từ núi Ngự
Bình, đồi Thiên An - Vọng Cảnh, thành phố hội đủ các dạng địa hình: đồi
núi, đồng bằng, sông hồ, tạo thành một không gian cảnh quan thiên nhiên-
đô thị-văn hoá lý tưởng để tổ chức các loại hình Festival và các hoạt động
du lịch thể thao khác nhau.
Thành phố Huế là địa bàn lý tưởng gắn kết các tài nguyên văn
hoá truyền thống đặc sắc với du lịch mà không một thành phố, địa
danh nào ở nước ta có được và là một trong 5 trung tâm du lịch quốc
gia. Huế nằm ở vị trí trung tâm của các di sản văn hoá thế giới của
Việt Nam (Hội An, Mỹ Sơn, động Phong Nha-Kẻ Bàng) và gần với

các thành phố cố đô của các nước trong khu vực. Huế là thành phố du
lịch nên hệ thống nhà hàng và khách sạn ở đây rất nhiều kết hợp với
người dân thành phố nên nhu cầu về rau xanh nói chung và rau an toàn
nói riêng rất lớn. Vì vậy, việc nghiên cứu phát triển thị trường rau an
toàn rất cần thiết.
4.1.2. Thời tiết và khí hậu
Thành phố Huế có sự ngoại lệ về khí hậu so với vùng Bắc Bộ và
Nam Bộ, vì nơi đây khí hậu khắc nghiệt và có sự khác nhau giữa các miền
và khu vực trong toàn tỉnh. Vùng duyên hải và đồng bằng có hai mùa rõ
rệt: mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, trời nóng và oi bức, có lúc lên tới
39,9ºc. Từ tháng 8 đến tháng 1 là mùa mưa và hay xảy ra bão lụt, nhiệt độ
trung bình 19,7ºc, cũng có khi hạ xuống còn 8,8ºc, trời lạnh. Vào mùa này
có những đợt mưa suốt ngày, kéo dài cả tuần lễ.
18
Nhìn chung khí hậu ở thành phố Huế thuộc khu vực nhiệt đới gió
mùa, mang tính chuyển tiếp từ á xích đạo đến nội chí tuyến gió mùa, chịu
ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam nước ta.
Chế độ nhiệt: thành phố Huế có mùa khô nóng và mùa mưa ẩm
lạnh. Nhiệt độ trung bình năm ít chênh lệch qua các năm và dao động
khoảng 24°c - 25°c. Các tháng 4 đến tháng 10 có biên độ nhiệt cao nhất,
trong đó nhiệt độ trung bình các tháng 6, 7, 8 là cao nhất, các tháng này
thường xảy ra hạn hán gây khó khăn cho sản xuất, đặc biệt đối với cây rau
là những cây cần lượng nước cao.
Nhiệt độ thấp nhất ở thành phố Huế qua các năm vẫn nằm trong quy
luật chung, đó là các tháng 1, 2, 3 và tháng 12; nhiệt độ có thể dao động từ
12,9
0
C đến 13,4
0
C, thời tiết trong các tháng này thường rất rét, phù hợp

với các nhóm rau gia vị và nhóm rau ăn lá.
Với nhiệt độ các tháng trong năm như trên, nó ảnh hưởng đến cơ cấu
thời vụ rau, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến giá cả và chủng loại rau trên thị
trường[10].
+ Mùa nóng: từ tháng 5 đến tháng 9, chịu ảnh hưởng của gió tây
nam nên khô nóng, nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình các tháng nóng là từ
27°c - 29°c, tháng nóng nhất (tháng 5, 6) nhiệt độ có thể lên đến 38°c-
40°c.
+ Mùa lạnh: từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng của
gió mùa đông bắc nên mưa nhiều, trời lạnh. Nhiệt độ trung bình về mùa
lạnh ở vùng đồng bằng là 20°c - 22°c.
- Chế độ mưa: lượng mưa trung bình khoảng 2500mm/năm. Mùa mưa
bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, tháng 11 có lượng mưa lớn nhất,
chiếm tới 30% lượng mưa cả năm. Trong tháng 6 của các năm, ta nhận thấy
lượng mưa vẫn tương đối cao, đây là thời điểm chuyển từ vụ đông xuân sang
hè thu , điều này rất thuận lợi cho người nông dân trong việc làm đất và gieo
trồng.
19
- Ẩm độ không khí: ẩm độ không khí là một trong những yếu tố
không kém phần quan trọng trong việc cơ cấu các loại rau và thời vụ của
rau. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung ứng và giá cả rau xanh.
Huế là vùng có ẩm độ không khí tương đối cao, có thể là cao nhất
nước. ẩm độ không khí trung bình các tháng trong năm lại nghịch với nhiệt
độ trung bình các tháng trong năm. Cụ thể đối với nhiệt độ, các tháng thấp
nhất là tháng 1, 2, 3 và tháng 11, 12 trong khi đó ẩm độ của các tháng này
lại cao. Trái lại các tháng 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 có nhiệt độ trung bình cao thì
ẩm độ lạ thấp.
Thời kỳ có ẩm độ thấp kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8 và cực tiểu là
tháng 7. Vào mùa gió tây nam khô nóng hoạt động mạnh, độ ẩm thấp nhất
có thể xuống còn 30% và thường xảy ra vào các tháng 6, đây lại là mùa

khô., việc sản xuất các loại rau thường là khó khăn, lượng mưa thấp nên
cần chăm sóc, cung cấp nước và tạo độ ẩm cho rau trong khoảng thời gian
này. Thông thường ẩm độ lớn nhất thường rơi vào tháng 12, cụ thể ở huế
là 95%, 92%, 90% vào tháng 12 qua các năm 2002, 2003, 2004. Nhìn
chung độ ẩm trung bình vào khoảng 85%-86%.
- Đặc điểm mưa ở Huế là mưa không đều, lượng mưa tăng dần từ
đông sang tây, từ bắc vào nam và tập trung vào một số tháng với cường độ
mưa lớn do đó dễ gây lũ lụt, xói lở.
- Gió bão: thành phố Huế chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính:
+ Gió mùa Tây Nam: bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió 2-
3m/s. Mùa này gió thường khô nóng, bốc hơi mạnh gây khô hạn kéo dài.
Vì thề nó ảnh hưởng rất lớn đến không những hoạt động sản xuất rau mà
việc bảo quản rau khi thu hoạch cũng gặp không ít khó khăn. + Gió mùa
Đông Bắc: bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, tốc độ gió bình quân
từ 4- 6m/s. Gió thường kèm theo mưa làm cho khí hậu lạnh, ẩm, dễ gây lũ
lụt, ngập úng ở nhiều nơi.
+ Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 9 -10. Tốc độ gió lớn,
có thể đạt đến 15- 20m/s trong gió mùa Đông Bắc và 30- 40m/s trong khi
lốc bão. Gió bão làm cho cây cối, các cây rau màu bị hư hại nặng, các giàn
20
trồng rau bị sập đỗ. Điều này gây khó khăn cho người dân trong việc sản
xuất rau, tăng chi phí để tu bổ lại các giàn nhà lưới để trồng rau, thường
sau các đợt lũ lụt hay hạn hán rau quả có giá rất cao. Đây cũng là khó
khăn cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành sản xuất rau nói riêng.
Như vậy, Huế với nền nhiệt độ cao, ẩm độ và số giờ nắng cao là
điều kiện thích hợp cho việc sản xuất nhiều loại rau và có thể bố trí thời
vụ quanh năm, có thể cung cấp thường xuyên các loại rau cho người tiêu
dùng. Nhưng bên cạnh đó hạn hán, luc lụt cũng gây không ít khó khăn
trong quá trình sản xuất, vì vậy bố trí thời vụ thích hợp và trông cây trái
vụ là điều kiện tốt để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.

4.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội
4.1.3.1. Về vấn đề dân số, lao động
Dân số và lao động là hai yếu tố quan trọng. Đây là hai yếu tố phản
ánh mức sống và cơ cấu kinh tế của các vùng cũng như trình độ dân trí
của vùng đó. Lực lượng lao động nông nghiệp thành phố Huế nói riêng và
cả nước nói chung có trình độ dân trí còn thấp, chủ yếu vẫn là thủ công,
tính hiện đại trong sản xuất nông nghiệp còn rất thấp. Sản phẩm nông
nghiệp chứa hàm lượng chất xám thấp; chủ yếu là sức lao động, trong khi
đó các nước phát triển thì sản phẩm nông nghiệp chứa hàm lượng chất
xám cao.
Thành phố Huế là vùng đô thị chịu tác động của thành phố công
nghiệp, du lịch và dịch vụ. Tỷ trọng nông nghiệp rất thấp, trình độ dân trí
cao, tỷ lệ sinh con thứ ba ngày càng giảm. Nhưng những hộ nông nghiệp
vẫn chưa thoát khỏi tính bảo thủ, sức ỳ và sản phẩm nông nghiệp vẫn chưa
có tính hàng hóa cao. Đặc biệt rau xanh. Là loại thực phẩm nông nghiệp
chịu tác động của thị trường rất rõ, biến động giá cả là thường xuyên,
nhưng chỉ có rất ít người nông dân căn cứ vào nhu cầu rau của thị trường
để điều chỉnh thời vụ trồng rau.
Dân số thành phố Huế trong những năm qua có xu hướng gia tăng
nhưng không đáng kể. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên lại giảm sút
cụ thể năm 2008 tỷ lệ dân số tăng 1.1% nhưng đến năm 2010 tỷ lệ này
21
giảm xuống còn 0.98%. Bảng 4.1 thể hiện dân số thành phố Huế trong
những năm qua.
Bảng 4.1: Dân số thành phố Huế từ 2005- 2010
Năm Tổng số Nam Nữ
2005 321.959 155.385 166.574
2006 326.524 157.619 168.905
2007 330.664 159.640 171.024
2008 334.739 161.629 173.110

2009 337.506 162.997 174.509
2010 339.822 168.592 171.230
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Huế, 2009
Dân số đông phản ánh nhu cầu về sản lượng rau tiêu thụ trên địa
bàn thành phố cũng cao. Mật độ dân số tính đến năm 2010 của thành phố
là 4.786,9 người/ km
2
cao hơn rất nhiều so với toàn tỉnh, mật độ dân số
của tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2010 là 226 người/km
2
. Ngoài ra, Huế là
thành phố du lịch, hằng năm lượng khách tham quan đến Huế đông thêm
vào đó lượng sinh viên nhập học các trường ở Huế cũng lớn nên lượng rau
tiêu thụ ở thành phố còn lớn hơn nhiều so với lượng tiêu thụ của người
dân thành phố.
Qua số liệu báo cáo của phòng thống kê thành phố Huế cho thấy:
tình hình lao động tại thành phố Huế chủ yếu tập trung vào các ngành
công nghiệp chế biến, du lịch, dịch vụ, xây dựng và kinh doanh, một phần
nhỏ lao động tham gia vào ngành nông- lâm- ngư nghiệp. Lao động trong
nông nghiệp tập trung chủ yếu ở vùng ven thành, thành phần chủ yếu là
người lớn tuổi và phụ nữ trung niên trở lên, còn thanh niên thì rất ít, đặc
biệt là nghề trồng rau đòi hỏi công chăm sóc nhiều nhất. Đây cũng là dấu
hiệu trong xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động
từ nông nghiệp qua lĩnh vực phi nông nghiệp khác ở nông thôn.
22
4.1.3.2. Một số chỉ tiêu kinh tế- xã hội của thành phố Huế:
Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của thành phố Huế qua các năm 2008 – 2010
được thể hiện qua bảng 4.2.
Qua các chỉ tiêu thu thập được có thể thấy rằng mức sống của người
dân thành phố Huế vẫn đang còn thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao

nhưng tổng giá trị sản xuất so với các thành phố khác vẫn ở mức trung
bình. Thành phố Huế là thành phố có nhiều tiềm năng du lịch, dịch vụ;
hằng năm vẫn thu hút nhiều khách du lịch đến tham quan. Bên cạnh đó,
Huế là thành phố có hệ thống giáo dục từ đại học đến mầm non tương đối
phát triển.
Năm 2010, thành phố Huế có tốc độ tăng trưởng kinh tế 13.5 % so với
tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước là 6,7 % là cao nhưng so với một số
thành phố lớn khác trong nước vẫn còn thấp. Cơ cấu giá trị sản xuất nông
nghiệp của thành phố so với giá trị sản xuất công nghiệp thấp hơn nhiều.
Năm 2010, giá trị sản xuất nông nghiệp là 140.422 triệu đồng trong khi đó
công nghiệp là 2.819.222 triệu đồng. Một lĩnh vực không kém phần quan
trọng làm kích thích việc phát triển kinh tế hộ, tạo môi trường tiêu thụ nông
sản trong đó có rau là thương mại bán lẻ. Doanh thu của lĩnh vực này luôn có
xu hướng năm sau cao hơn năm trước, năm 2007 là 3.220.800 triệu đồng
nhưng đến năm 2010 đạt đến 10.383.000 triệu đồng.
Một chỉ số không kém phần quan trọng làm cơ sở cho việc quy
hoạch phát triển rau phải kể đến đó là lượng khách du lịch đến Huế. Hằng
năm, lượng khách du lịch đến thành phố Huế rất cao và có xu thế năm sau
số lượng khách cao hơn năm trước, cụ thể như năm 2007 có tổng lượng
khách đến Huế là 1.171.700 người, trong đó khách trong nước là 600.100
người và khách nước ngoài là 571.600 người; đến năm 2009 tổng lượng
khách tăng lên 1.296.100 người, trong đó khách trong nước là 734.530
người và khách nước ngoài là 561.570 người.
23
Bảng 4.2: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của thành phố Huế từ năm
2008 đến năm 2010.
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Tổng giá trị sản xuất
( giá thực tế)
tỷ đồng 9.736 11.749 12.314

Tổng sản phẩm của
thành phố (giá thực
tế)
tỷ đồng 5.216,0 6.358,0 7.028,0
GDP bình quân đầu
người
USD 954,8 1.098,4 1.350
Tốc độ tăng trưởng
kinh tế
% 13,7 12,8 13.5
Tổng lượng khách
tham quan
Người 1.388.610 1.296.100 1.451.600
- Khách trong nước Người 684.714 734.530 842.670
- Khách nước ngoài Người 703.896 561.570 608.930
Thương mại bán lẻ
hàng hóa, dịch vụ
triệu đồng 6.384.600 7.680.000 10.383.000
Số cơ sở y tế Đơn vị 45 49 49
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Huế.
Bảng 4.2 còn cho thấy rằng: tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành
phố Huế thuộc loại cao và năm sau cao hơn năm trước, GDP bình quân
đầu người năm 2010 là 1.350 USD cao hơn năm 2008 là 954,8 USD.
Thương mại, dịch vụ qua các năm ngày càng tăng, điều đó chứng tỏ xu
hướng cơ cấu kinh tế của thành phố Huế đang dần trở thành thành phố du
lịch và công nghiệp. Đời sống người dân ngày càng được cải thiện, mức
tiêu dùng ngày càng cao, nhu cầu thực phẩm ngày càng nhiều và yêu cầu
thực phẩm ngày càng khắt khe, đặc biệt là sản phẩm rau tươi dùng cho
bữa ăn hằng ngày đòi hỏi chất lượng, số lượng ngày càng cao.
24

4.1.3.3. Tình hình sử dụng đất của thành phố Huế
Trong quá trình đô thị hoá, diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn
dần bị thu hẹp. Trước tình hình này, thành phố chú trọng chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề và chuyển sang trồng các loại cây trồng có giá trị và hiệu
quả kinh tế cao; đồng thời, quy hoạch phát triển vùng chuyên canh cây
thanh trà, hoa, rau sạch. Giá trị sản xuất nông nghiệp nhờ vậy vẫn đạt khá.
Thành phố đang từng bước đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng đô
thị 5 phường vùng ven nhằm khuyến khích phát triển dịch vụ, du lịch sinh
thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, giải quyết việc làm và nâng cao đời
sống cho các hộ nông dân. Do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nên diện
tích đất nông nghiệp của thành phố Huế đang có chiều hướng giảm sút.
Điều này được thể hiện qua bảng 4.3:
Bảng 4.3: Diện tích gieo trồng các loại cây ở thành phô Huế
Đơn vị: ha
STT Cơ cấu các loại cây 2008 2009 2010
Tổng 3.967 3.901 3.548
I. Cây hàng năm 3.251 3.178 2.955
1 Cây lương thực 2.346 2.423 2.241
- Cây lúa 1.896 1.918 1.842
- Ngô 90 90 97
- Sắn 95 95 66
- Khoai lang 315 320 212
2 Cây công nghiệp 165 105 102
3 Cây hàng năm khác 50 50 65
4 Cây thực phẩm 600 600 547
25

×