Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

tìm hiểu cải tiến nuôi trồng thủy sản vùng ao vây lưới ở khu vực sam chuồn – phú vang – thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.42 KB, 49 trang )

Mục Lục
DANH MỤC BẢNG BIỂU 2
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT 3
1.1 Tính c p thi t c a t i.ấ ế ủ để à 4
1.2 M c tiêu nghiên c u.ụ ứ 5
PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 6
2.1 Nuôi tr ng th y s n Vi t Nam v Th a Thiên – Hu .ồ ủ ả ở ệ à ừ ế 6
2.1.1 Nuôi trồng thủy sản Việt Nam 6
2.1.2 Nuôi trồng thủy sản Thừa Thiên – Huế 7
2.1.3 Nuôi trồng thủy sản trên phá Tam Giang – Cầu Hai 11
2.2 Nuôi tr ng th y s n.ồ ủ ả 12
2.2.1 Nuôi tôm bằng ao đất: 12
2.2.2 Nuôi tôm chắn sáo: 13
2.2.3 Nuôi cá: 14
2.2.4 Trồng rong câu và các loại rong biển: 15
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
16
3.1. i t ng nghiên c uĐố ượ ứ 16
3.2. Ph m vi nghiên c uạ ứ 16
3.3. N i dung nghiên c uộ ứ 16
3.4 Ph ng pháp nghiên c uươ ứ 17
3.4.1 Điểm nghiên cứu 17
3.4.2. Chọn mẫu 17
3.4.3. Phương pháp thu thập thông tin 17
3.4.4 Phương pháp xử lý số liệu 18
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 19
4.1 c i m vùng nghiên c uĐặ để ứ 19
4.1.1 Thông tin về cộng đồng tại vùng nghiên cứu 19
4.1.2 Đặc điểm hộ NTTS ao vây vùng nghiên cứu 21
4.2 Quá trình hình th nh v chuy n i nuôi tr ng th y s n xen ghépà à ể đổ ồ ủ ả
trong ao vây 24


4.3 Các cải tiến kỷ thuật đã thực hiện 27
4.3 K t qu NTTS ao vây khu v c Sam Chu nế ả ự ồ 30
4.4 Thay i thu nh p v chi tiêu c a hđổ ậ à ủ ộ 34
4.4.1 Thay đổi về thu nhập 34
4.4.2 Thay đổi cấu trúc chi tiêu 38
4.5.3 Nhận thức của người dân về kết quả cải tiến môi trường tài
nguyên 41
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 47
5.1 K t lu n.ế ậ 47
5.2 Ki n ngh .ế ị 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1: diện tích và sản lượng NTTS Việt Nam 8
Bảng 2: Sản lượng và diện tích NTTS TT – Huế 12
Bảng 3: Đặc điểm kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 20
Bảng 4: Đặc điểm kinh tế, xã hội của hộ khảo sát 23
Bảng 5: Những thay đổi trong hình thức nuôi xen ghép 27
Bảng 6: Các cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thủy sản đã áp dụng. 28
Bảng 7: Tình hình nuôi trồng thủy sản tại xã Phú Mỹ và Phú An 32
Bảng 8: Sự thay đổi trong hiệu quả NTTS xen ghép 34
Bảng 9: Thay đổi thu nhập và nguồn thu của hộ 35
Bảng 10: Tình hình tín dụng của hộ 39
Bảng 11: Cấu trúc chi tiêu của hộ 40
Bảng 12: Nhận thức về suy giảm tài nguyên - môi trường của nhóm
hộ khảo sát 44
2
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
NTTS: nuôi trồng thủy sản

KTTS: khai thác thủy sản
Định Cư 1: Thôn Định Cư xã Phú An
Định Cư 2: Thôn Định Cư xã Phú Mỹ
UBND: Ủy ban nhân dân
SL: sản lượng
DT: diện tích
TT: Thứ tự
ĐVT: Đơn vị tính
SH: Sinh hoạt
Tr: Triệu
3
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của để tài.
Khu vực đầm Sam Chuồn, huyện Phú Vang là vùng quan trọng trong
hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế. Diện tích đầm ước
khoảng 2365 ha. Sam - Chuồn, một phần cấu thành hệ thống đầm phá Tam
34,6% diện tích đầm phá của huyện và liên quan chặt chẽ đến các xã Phú An
(613,59ha), Phú Mỹ (178,06ha), Phú Xuân (1256,09ha) và thị trấn Thuận An
(1058,64ha) [8]. Vùng này là bãi giống, bãi đẻ thuận lợi của rất nhiều loài
thủy sản nước mặn và nước lợ. Từ những đặc điểm thuận lợi trên Sam -
Chuồn trong khoảng thời gian gần đây đã trở thành trọng điểm về khai thác
và phát triển NTTS.
Việc tiến hành các hoạt động nuôi trồng thủy sản tại hệ thống đầm phá
phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội là điều hiển nhiên. Nhưng sự khai
thác tài nguyên quá mức hoặc khai thác không theo một kế hoạch quản lý phù
hợp gây ra những vấn đề về môi trường, trong đó có sự xuống cấp của hệ
sinh thái ven bờ và các tác động tiêu cực khác đến tài nguyên môi trường.
Đây là khu vực có mật độ ao vây lưới và ao đất phát triển dày đặc cản trở sự
thông thoáng môi trường nước, luồng di chuyển của thủy sản, ô nhiễm môi
trường, suy giảm thảm rong cỏ thủy sinh và nguồn lợi thủy sản,

Các hoạt động nuôi tôm sú phát triển quá nhanh nên đã vượt ra ngoài
khả năng quản lý và giám sát của cơ quan chức năng. Hậu quả là việc tôm
chết hàng loạt, môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, dịch bệnh lan tràn, dẫn đến
thua lỗ ảnh hưởng rất lớn đến người nuôi tôm.
Gần đây để khắc phục hậu quả của việc nuôi chuyên canh tôm sú, cũng
như nâng cao hiệu quả của hoạt động nuôi trồng nhiều nhà khoa học đã áp
dụng nhiều biện pháp kỹ thuật mới như những mô hình nuôi mới như mô
hình nuôi xen ghép, mô hình nuôi luân canh. Trong đó mô hình nuôi xen
ghép là mô hình nuôi phù hợp cho những vùng nuôi với mức độ đầu tư không
cao, số lượng ao ít, có thể giúp người dân tận dụng được nguồn thức ăn trong
ao nuôi, loại bỏ các chất ô nhiễm. [2]
4
Sự khai thác đầm phá để phát triển kinh tế là cần thiết, nhưng phải có
sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với đảm bảo môi trường và quyền lợi của
người dân. Đây là vấn đề then chốt để đảm bảo sự phát triển trên đầm phá
một cách bền vững. Đó không những là mong muốn của người dân nuôi
trồng thủy sản mà còn là sự quan tâm của xã hội. Việc hỗ trợ từ các tổ chức
và sự kết hợp của cộng đồng xây dựng các mô hình nuôi trồng thủy sản cải
tiến đã từng bước thay đổi hoạt động sản xuất nhằm tiến tới sự ổn định.
Từ thực tế đó, tôi đã quyết định nghiên cứu đề tài “tìm hiểu cải tiến
nuôi trồng thủy sản vùng ao vây lưới ở khu vực Sam Chuồn – Phú Vang –
Thừa Thiên Huế”. Nhằm tìm hiểu sâu hơn các cải tiến trong hoạt động nuôi
trồng thủy sản, các khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực hiện, là cơ sở
để góp phần nhân rộng các mô hình nuôi trồng thủy sản thân thiện môi
trường.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu.
- Tìm hiều phát triển nuôi trồng thủy sản xen ghép trong khu vực ao
vây lưới như là một phương thức cải tiến kỷ thuật.
- Xác định các cải tiến kỷ thuật nuôi trồng thủy sản đã được áp dụng
- Đánh giá kết quả nuôi xen ghép ao vây lưới khu vực Sam Chuồn.

5
PHẦN 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1 Nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam và Thừa Thiên – Huế.
2.1.1 Nuôi trồng thủy sản Việt Nam.
Dẫu ra đời từ rất sớm, nghề cá Việt Nam cho đến những năm giữa thế
kỷ trước vẫn mang đậm dấu ấn của một loại hình hoạt động kinh tế tự nhiên
theo kiểu “hái, lượm”, tự cấp tự túc với trình độ hết sức lạc hậu. Hoạt động
nghề cá được xem như một nghề phụ trong sản xuất nông nghiệp.
Từ sau những năm 1950, đánh giá được vị trí ngày càng đáng kể và sự
đóng góp mà nghề cá có thể mang lại cho nền kinh tế quốc dân, cùng với quá
trình khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã bắt đầu quan tâm phát triển nghề cá và hình thành các cơ quan quản
lý nhà nước trong lĩnh vực này. Từ đó, nghề cá - ngành Thuỷ sản - đã dần
hình thành và phát triển như một ngành kinh tế - kỹ thuật có vai trò và đóng
góp ngày càng lớn cho đất nước. Trong những năm 1980 thực hiện 10 năm
Di chúc Bác Hồ, ngành đã phát động thành công phong trào “Ao cá Bác Hồ”
rộng khắp trong cả nước, đem lại tác dụng rất lớn. Năm 1981, với sự ra đời
của Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Seaprdex Việt Nam, ngành đã chủ động
đề xuất và được nhà nước cho phép áp dụng thử nghiệm cơ chế gắn sản xuất
với thị trường, được gọi là cơ chế “tự cân đối, tự trạng trải”. Ngành thuỷ sản
đã vận dụng sáng tạo, có hiệu quả cơ chế này mà tiêu biểu là thành công của
mô hình Seaprdex lúc đó. Việc áp dụng thành công cơ chế mới gắn sản xuất
với thị trường đã tạo ra bước ngoặt quyết định cho sự phát triển của kinh tế
thuỷ sản, mở đường cho sự tăng trưởng liên tục suốt hơn 28 năm qua.
Nghề nuôi trồng thuỷ sản từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất
tự cấp tự túc đã trở thành một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ
kỹ thuật tiên tiến, phát triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước
mặn theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, hài hoá với các ngành kinh tế
khác. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng đều đặn theo từng năm suốt từ 1981
tới nay, từ 230 nghìn ha năm 1981 lên 384,6 nghìn ha năm 1986, đến nay đã

đạt hơn 1 triệu ha. Điều căn bản là khi tỷ trọng diện tích nuôi mặn, lợ tăng
lên, nhất là nuôi tôm thì sản lượng nuôi, nhất là sản lượng nuôi đưa vào xuất
6
khẩu đã tăng nhanh chóng và hiệu quả kinh tế có bước nhảy vọt. Thời kỳ này
thuỷ sản đã trở thành ngành sản xuất hàng hoá đã được khẳng định từ giữa
những năm 80 và gặt hái thành quả. Từ năm 1990 trở lại đây với tôm nuôi
cho xuất khẩu là mũi đột phá quan trọng. Năm 1991, diện tích nuôi trồng
thuỷ sản mới đạt 520.000 ha, sản lượng đạt 335.910 tấn, đến năm 1996 diện
tích nuôi trồng thuỷ sản là 585.000 ha, sản lượng nuôi trồng đạt 411.000 tấn,
năm 2000, diện tích nuôi là 641,9.000 ha, sản lượng đạt 589,6 tấn, năm 2003
sản lượng nuôi trồng đã đạt hơn 1 triệu tấn. Nuôi trồng thuỷ sản đang từng
bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng hoá chủ lực, phát triển
rộng khắp và có vị trí quan trọng và đang tiến đến xây dựng các vùng sản
xuất tập trung. Các đối tượng có giá trị cao có khả năng xuất khẩu đã được
tập trung đầu tư, khuyến khích phát triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm
năng tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và
ngư dân, đồng thời góp phần hết sức quan trọng cho chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp cũng như cho xoá đói giảm nghèo. [3]
Bảng 1: diện tích và sản lượng NTTS Việt Nam
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Diện tích
(ngàn ha)
641,9 755,2 797,7 867,6 920,1 952,6 976,5 1018,8 1052,6
Sản
lượng
(ngàn
tấn)
589,6 709,9 844,8 1003,1 1202,5 1478,0 1693,9 2123,3 2465,6
Nguồn: tổng cục thống kê, 2009
2.1.2 Nuôi trồng thủy sản Thừa Thiên – Huế.

Nuôi trồng thủy sản bằng nghề nuôi cá nước ngọt, đã phát triển từ
trước năm 1975. Trại cá Cư Chánh ra đời dưới thời Pháp thuộc, từ những
năm 40 của thế kỷ XX, là cơ sở sinh sản nhân tạo các loại cá nước ngọt đầu
tiên cung cấp giống cho địa bàn tỉnh, hiện đã được nâng cấp thành Trung tâm
7
giống thủy sản nước ngọt cấp quốc gia từ năm 2006. Cho đến nay có một loạt
các cơ sở lớn nhỏ khác nhau tham gia hoạt động sinh sản, ương nuôi và cung
cấp giống các loại thủy sản nước ngọt các loại. Gần dây, nghề nuôi bán cá
cảnh mước ngọt cũng trở thành một nghề thương mai của một số hộ gia đình
ở thành phố Huế và các vùng lân cận. Thị trường cho nghề cá cảnh không chỉ
trong tỉnh mà còn phát triển sang các tỉnh bạn.
Nghề nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn bắt đầu phát triển từ những
năm 1975 trở lại đây tại hệ thống đầm phá. Hệ Đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai thông với biển qua hai cửa biển Thuận An và Tư Hiền, tương tác giữa
nguonf nước ngọt từ các sông Hương, sông Ô Lâu, sông Đại Giang với
nước biển theo chế độ thủy triều tạo ra nền đọ mặn có biên độ biến động khá
ổn định, là điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản
nước lợ.
Từ năm 1977 – 1978 rong câu bắt đầu được trồng thí ngiệm trên diện
tích 6ha tại xã Phú Tân (nay là thị trấn Thuận An), huyện Phú Vang, mở ra
nghề mới, nghề nuôi trồng thủy sản tại đầm phá. Năm 1980 diện tích trồng
rong câu tăng lên 50 hecta. Năm 1986, nhờ có sự tài trợ của UNDP thông qua
dự án VIE 86/010 diện tích trồng rau câu tăng vọt đạt 300 hecta tại 2 điểm:
vùng Sam Chuồn huyện Phú Vang và xã Vinh Giang, huyện Phú Lộc. Năm
1989 đạt 400 hecta. Từ đầu những anwm 1993 diện tích chững lại và có xu
hướng phát triển không ỏn định, thoái troài. Trong thập niên gần đây do nghề
nuôi tôm sú phát triển mạnh, mang lại giá trị cao hơn nên các diện tích trồng
rong câu dần chuyển sang nuôi tôm, bắt đầu từ năm 1997 đã khong còn diện
tích trồng rong câu chuyên canh. Tuy vậy, àng năm vẫn thu hoạch một sản
lượng nhất định rong câu trong tự nhiên. Cho đến nay, ngoài việc trồng rong

câu nhiều đối tượng nuôi trồng được đưa vào vùng đầm phá ven biển như:
cua, tôm rảo, tôm sú, cá dìa, cá kình, cá mú, cá ro phi đơn tính, ốc hương
tuy nhiên chỉ có đối tượng tôm sú thật đáng kể.
Việc nuôi tôm đầu tiên được ghi nhận từ năm 1981, ban đầu bằng một
đề tài nuôi tôm rảo với nguồn giống tự nhiên tại vùng Tân Canh, cũng của xã
Phú Tân. Năm 1984, một đề tài nuôi tôm sú với hình thức chắn sáo tại khu
8
vực Cồn Tè, xã Hương Phong, huyện Hương Trà. Trung tâm Nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản Thừa Thiên – Huế sau đó dược thành lập với niệm vụ
sinh sản nhân tạo giống tôm sú và nuôi tôm thịt thử nghiệm. Năm 1989, nuôi
thử nghiệm giống tôm sú sản xuất lần đầu tiên tại tỉnh nhà ở trại giống Thuận
An đồng thời so sánh với gióng tôm bạc. Kết quả, nuôi tôm sú khả quan hơn
và bắt đầu phát triển đại trà việc đào ao nuôi tôm sú từ đó. [4]
Từ 1989 - 1994, khi công ty nuôi tôm thành phố Huế liên doanh với Úc
(gọi tắt là LOBANA) tiến hành “nuôi thâm canh tôm sú” tại Tân Mỹ (Thuận
An) và con giống xuất hiện trên thị trường thì phong trào nuôi tôm sú bắt đầu
lan ra rất nhanh trên khắp các địa phương có diện tích mặt nước đầm phá.
Lúc đầu các ao và hệ thống ao nuôi thâm canh tôm sú chỉ tiến hành ở phần
đất nông nghiệp nhiễm mặn, năng suất thấp (gọi là ao cao triều). Về sau nhu
cầu có diện tích mặt nước để nuôi tôm sú quá bức bách, người dân đã tự động
vượt đất be bờ ở các vực nước bên bờ đầm phá để làm ao nuôi (gọi là ao thấp
triều). Trước lợi ích vượt trội của nuôi tôm so với khai thác tự nhiên, nhiều
hộ ngư dân làm nghề nò sáo đã tìm cách khoanh kín diện tích nò sáo của
mình bằng lưới PE (4 - 6mm), biến trộ nò sáo thành ao nuôi tôm (gọi là ao
vây lưới hay ao nuôi chắn sáo). Gần đây, một số doanh nhân và những người
giàu có đã đưa “mô hình uôi tôm trên cát” học tập được ở các tỉnh miền nam
trung bộ về triển khai ở các dãi cát duyên hải (Phong Điền, Quảng Điền, Phú
Lộc) thuộc tỉnh TTH. Ngoài ra một số ngư dân sống ven cửa sông, cửa biển
đã làm lồng nuôi một số loài cá tự nhiên khi bắt gặp con giống trong ngư cụ
khai thác tự nhiên (cá Mú, cá Hồng, cá Dìa, ) làm xuất hiện thêm hình thức

“nuôi cá lồng” trên đầm phá. [6]
Năm 2000, là một năm trúng lớn của nghề nuôi tôm đầm phá Thừa
Thiên – Huế do điều kiện thiên nhiên thuận lợi (không hiểu có do trận lũ lớn
năm 1999 cuốn đi nhiều chất tù đọng và mở rộng các cửa biển làm thông
thoáng dòng chảy, trao đổi nước), hơn nữa giá cả tôm sú cao đột biến do các
quốc gia nuôi tôm khác mất mùa (bình quân các loại tăng từ 30 đến 50 ngàn
đồng/kg) Do thấy sự lợi nhuận quá lớn nên phong trào nuôi rầm rọ từ cuối
năm 2000 đến năm 2001, diện tích ao hồ được ghi nhận tăng từ 1.850 ha/vụ
9
năm 2000 đã tăng đén 2.787 ha/vụ năm 2001. Việc phát triển quá nhanh như
vậy đã dẫn đến những tác động xấu về môi trường, dịch bệnh và về mặt kỹ
thuật, giống, vốn cung ứng có nhiều vấn đề không đồng bộ. Từ năm 2004,
sau trận dịch bệnh tôm sú lớn, nghề nuôi tôm ngày càng một khó khăn hơn.
Gàn đây, người dân và các công ty nuôi trồng thủy ở những vùng biệt lập
(được phép nuôi tôm chân trắng) đã chuyển đối tượng sang nuôi tôm chân
trắng, thu được những kết quả nhất định.
Song song với phát triển nuôi tôm, từ năm 1982 – 1983 tại vùng đầm
Sam Chuồn bắt đầu xuất hiện việc nuôi giữ cua chưa đạt kính cỡ thương
phẩm, nhằm làm tăng giá trị của đối tượng khai thác tự nhiên. Năm 1990,
Trung tâm nuôi tom Phú Xuân mới bắt đầu nuôi cua tương đối bài bản. Trong
những năm này, vùng đầm Sam Chuồn, Thừa Thiên – Huế trở thành điểm
trung chuyển cua lớn đi từ Nam bộ ra phí Bắc, bán qua biên giới Trung Quốc.
Càng về sau, phương tiện chuyên chở bằng máy băng đã thuận lợi, việc trung
chuyển cua không còn nữa.
Hiện nay, cua cũng là đối tượng nuôi đầy tiềm năng, nhưng đa phần
chỉ tận dụng ao hồ sau vụ nuôi tôm. Tuy nhiên, một hai năm gần đây với việc
dịch bẹnh tôm bất thường, thì nghề nuôi nuôi cua trong hệ thống vây chắn
sáo là cứu cánh cho sinh kế của nhiều hộ ngư dân vùng đầm phá.
Về nhuyễn thể, từ năm 1990 bắt đầu có một vài hộ ngư dân biết cắm
cọc để thu giống vẹm xanh, hàu để nuôi tự nhiên Sau năm 2000 nghề nuôi

nhuyễn thể phát triển mạnh ở vùng dầm Lăng Cô và sau đó một phần đầm
Cầu Hai [5]
Từ 2002 đến nay dịch bệnh xảy ra liên tục và thêm nhiều yếu tố bất lợi
khác đã làm cho nghề nuôi trồng thủy sản gặp nhiều thất bại nặng nề, nhiều
hộ gia đình từ giàu có trở thành con nợ của ngân hàng. Một diện tích đáng kể
bị bỏ hoang, một số khác được chuyển sang nuôi xen ghép. [6]
Sản lượng và diện tích nuôi trồng thủy sản của Thừa Thiên – Huế được
thể hiện rõ trong bảng sau:
10
Bảng 2: Sản lượng và diện tích NTTS TT – Huế
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Diện
tích
(ngàn
ha)
2,7 3,6 3,9 4,6 5,1 5,2 5,3 5,4 5,5
Sản
lượng
(tấn)
1467 2551 3242 5001 5647 6296 7737 8335 9251
Nguồn: tổng cục thống kê, 2009
2.1.3 Nuôi trồng thủy sản trên phá Tam Giang – Cầu Hai.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản diễn ra khá rầm rộ trên vùng đầm phá
đặc biệt là trong những năm gần đây. Nghề nuôi trồng thủy sản đã có nhiều
thành tựu, đóng góp vào việc tăng thu nhập cho người dân. Có thể chia hoạt
động nuôi trồng thủy sản khu vực đầm phá thành 2 loại hình: Nuôi trồng thủy
sản nước ngọt và nuôi trồng thủy sản nước lợ.
Nuôi trồng thủy sản nước ngọt: Kết quả điều tra cho thấy 20 xã, thị
trấn có các hộ gia đình tham gia hoạt động nuôi thuỷ sản nước ngọt, với diện
tích ao nuôi xấp xỉ 150 ha, trong đó 123 ha (khoảng 83% tổng diện tích ao

nuôi) được sử dụng cho nuôi kép (nhiều loài trong cùng một ao nuôi). Số ao
nuôi còn lại sử dụng cho nuôi đơn loài. Khoảng 785 lồng đang được sử dụng
để nuôi đối tượng thuỷ sản nước ngọt. Khoảng 970 hộ gia đình quanh đầm
phá có tham gia vào hoạt động nuôi đối tượng thuỷ sản nước ngọt. Năm xã
có diện tích ao nuôi nước ngọt nhiều nhất là: Điền Hải (45 ha), Phú Đa
(khoảng 27.5 ha), Quảng Thành (10.5 ha), Phú Mỹ (xấp xỉ 7.5 ha), Quảng
Phước (Khoảng 5 ha). Đối tượng nuôi phổ biến là cá trắm cỏ, cá chép. Đối
với nuôi đối tượng nước ngọt bằng lồng bè, Quảng Thái là xã có số lồng bè
nhiều nhất (488 lồng), chiếm khoảng 62% tổng số lồng bè đang được sử dụng
để nuôi đối tượng nước ngọt trên khắp đầm phá.
11
Nuôi trồng thủy sản nước lợ: 31 xã, thị trấn quanh đầm phá có các hộ
gia đình tham gia hoạt động nuôi thuỷ sản nước lợ. Khoảng 5.740 hộ gia đình
sinh sống quanh đầm phá đang tham gia vào hoạt động nuôi thuỷ sản nước lợ
tại đầm phá. Trong khi hoạt động nuôi đối tượng thuỷ sản nước lợ bằng ao
xuất hiên tại 31 xã kể trên, hoạt động nuôi theo hình thức vây chắn chỉ xuất
hiện tại 5 xã: Phú An, Phú Mỹ, Phú Xuân, Thị trấn Thuận An và Quảng
Công. Nuôi đối tượng nước lợ bằng lồng bè tập tập trung chủ yếu ở Hải
Dương, Lộc Bình, Vinh Hiền và thị trấn Thuận An.
Khoảng 780 ha mặt nước được vây để sử dụng cho việc nuôi chắn sáo,
gần 500 lồng nuôi đối tượng thuỷ sản nước lợ. Đối với nuôi chắn sáo, hình
thức nuôi phổ biến là nuôi hỗn hợp cả tôm lẫn cá (99% diện tích mặt nước sử
dụng để nuôi chắn sáo sử dụng với hình thức nuôi này). Khoảng 85% số lồng
nuôi nước lợ được sử dụng để nuôi cá, phần còn lại được sử dụng để nuôi các
loài nhuyễn thể. Có khoảng 3.100 ha ao nuôi trong đó có sấp xỉ 950 ha ao
nuôi cao triều (chiếm 30% tổng diện tích ao nuôi nước lợ), 2.150 ha ao nuôi
thấp triều (chiếm 70 % tổng diện tích ao nuôi nước lợ). [7]
2.2 Nuôi trồng thủy sản.
2.2.1 Nuôi tôm bằng ao đất:
Nuôi tôm bằng ao đất có bốn phương thức nuôi chính: quảng canh cải

tiến, bán thâm canh thấp triều, bán thâm canh cao triều và nuôi công nghiệp.
- Phương thức nuôi quảng canh cải tiến:
Đây là một phương thức nuôi với mật độ thấp, năng suất thuộc loại
trung bình thấp từ 600 – 1.200 kg/ha/vụ, mật độ từ 5 – 10 con/m
2
. Phương
thức này hiện được nuôi khá an toàn, do đầu tư giống, thức ăn, sử dụng
nguồn nước để thay ở mức độ thấp, ít gây biến đổi môi trường làm mất cân
bằng sinh thái.
- Phương thức nuôi bán thâm canh:
Mật độ giống thả vừa phải từ 10 – 30 con/m
2
. Năng suất bình quyân 2
– 3 tấn/ha. Phương thức này hiện được nuôi cả vùng thấp triều lẫn cao triều
12
ven phá. Đầu tư trang thiết bị vừa phải, thỉnh thoảng sử dụng thuốc và hóa
chất, cho đầy đủ thức ăn.
- Nuôi tôm công nghiệp (nuôi cao triều, nuôi thâm canh):
Là hình thức nuôi có dầu tư cao về chi phí, ao hồ đào đắp phải chắc
chắn, diện tích từ 5.000 – 10.000 m
2
, thả gióng với mật độ cao từ 30 – 60
con/m
2
, có đầu tư trang thiết bị như quạt nước, hệ thống gom chất thải bùn
đáy, cho ăn đầy đủ và định kỳ sử dụng thuốc, hóa chất xử lý môi trường để
phòng bệnh Nuôi tôm công nghiệp cho năng suất cao 3 – 5 tấn/ha.
2.2.2 Nuôi tôm chắn sáo:
Đây là một loại hình nuôi tôm đặc trưng ở vùng Sam Chuồn, huyện
Phú Vang. Người dân cắm đăng bằng sáo mùng (có 2 lớp) với khoảng cách

giữa hai lớp từ 1 đến 2 m. Sau đó, cải tạo xử lý cá taoh bằng cách dùng sáo để
“thẩy”, xiết để bắt hết cá tạp ở bên trong, phương pháp diệt tạp này không
được triệt để, khong bắt được hết toàn bộ cá tạp, vật dữ trong sáo.
Giống ở loại hình thức nuôi chắn sáo là tôm sú với kích thước lớn
thường là 6 – 8 cm/con và thời gian nuôi ngắn, từ 2 dến 3 tháng là thu hoạch.
Mật độ nuôi từ 3 – 5 con/m
2
.
Trong nuôi chắn sáo: lượng nước trao đổi là nhờ các dòng chảy hay sự
len xuống của thủy triều; quá trình trao đổi được thực hiện trực tiếp với môi
trường bên ngoài. Quá trình nuôi không sử dụng các khoáng hay hóa chất có
tính độc hại để xử lý môi trường hay dịch bệnh.
Đây là một loại hình nuôi tôm có nhiều ưu điểm, ít đây biến đổi môi
trường sinh thái nếu người nuôi tuân thủ đúng các yêu cầu cần thiết. Tuy
nhiên, trong thực tế loại hình này, người nuôi thường thả không đúng mùa vụ
(thả sớm hơn lich mùa vụ khuyến cáo), giống thả quá dày, trên 8 – 10 con/m
2
.
Giống không đảm bảo chất lượng, mang mầm bệnh hoặc cho ăn thêm thức ăn
tươi (tôm vụn, cá tạp ), xây dựng khu nuôi không hợp lý (chắn dòng chảy,
cản trở giao thông), mật độ đăng sáo quá dày đặc, thiếu quy hoạch đã làm ảnh
hưởng xấu đến môi trường, làm ô nhiễm môi trường nặng nhất là khi tôm bị
13
dịch bệnh, nguy cơ lây nhiễm càng lớn hơn, khó ngăn ngừa so với cá loại
hình nuôi đã nêu trên.
2.2.3 Nuôi cá:
Nuôi cá trên vùng đầm phá Thừa Thiên Huế hiện nay phổ biến có ba
loại hình chủ yếu đó là nuôi lồng, nuôi ao, nuôi hỗn hợp các đối tượng (cá,
tôm, cua, rong câu).
- Phương thức nuôi lồng: các loài đang được nuôi nhiều nhất hiện nay

trên đầm phá là cá Mú, cá Hồng, cá Dìa. Với cá Mú, cá Hồng hệ số thức ăn
thường là 3 đến 5 (để có 1.000kg sản phẩm cá thịt chúng ta phải tốn một
lượng thức ăn từ 3.000 – 5.000 kg). Tương tự như vậy, khi nuôi cá Dìa, ệ số
thức ăn lên đến 8 – 10.
- Phương thức nuôi ao (nuôi dơn): khi nuôi bán thâm canh, mật độ từ 2
– 3 con/m
2
, năng suất sản lượng sẽ được nâng cao lên, quá trình thải loại cá
thưc ăn dư thừa, phan cá cũng sẽ tăng, do đó mức độ ô nhiễm nguồn nước sẽ
càng lớn.
- Phương thức nuôi hỗn hợp: đây là kiểu nuôi xen ghép nhiều đối
tượng thủy sản với nhau, với mật độ nuôi rất thấp và thành phần nuôi ghép
hợp lý để chúng có thể sử dụng tối da lượng thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao
và tận dụng các nguồn thải ra của loài này để nuôi loài khắc; như nuôi cá Rô
Phi đơn tính, cá Dìa, cá Đối, trồng rong câu. Hình thức nuôi này hạn chế tối
đa việc cung cấp thức ăn nên hầu như không gây nên những biến đổi về
nguồn nước và môi trường.
Trong quá trình nuôi xen ghép người ta thường nuôi thêm cua. Nghề
nuôi cua trên đầm phá hiện nay có ba hình thức nuôi phổ biến, dó là nuôi
bằng lồng, nuôi ao và nuôi xen ghép kết hợp nhiều đối tượng. Trong nuôi
lồng hay nuôi đơn (chỉ nuôi cua) hệ số thức ăn là 3 – 4, nguồn thức ăn là tôm
cá tạp thu được trong khai thác tự nhiên, hai dạng nuôi này khi nuôi với mật
độ cao, quy mô lớn vượt quá ngưỡng cho phép cũng sẽ làm cho môi trường bị
ô nhiễm nặng như khi nuôi tôm sú.
14
2.2.4 Trồng rong câu và các loại rong biển:
Sau năm 1975, nghề trồng rong câu của đầm phá Thừa Thiên Huế dã
có những bước phát triển mạnh. Hiện nay, các vùng ven biển, đầm phá đã
đưa vào trồng nhiều giống rong mới như rong cước, rong sụn Việc trồng
rong cau, yeu cầu về kỹ thuật khong đòi hỏi quá cao, cơ bản là phải đảm bảo

được các yếu tố môi trường sống cho rong như độ mặn, pH
Quá trình trồng rong câu đã cho thấy, với đặc tính dinh dưỡng của nó,
rong câu có tác dụng hấp thụ, lấy các nguồn mùn bã hữu cơ, các chất cặn lơ
lửng trong nước, giúp cho việc làm sạch môi trường. Hiện nay nghề này
không đem lại hiệu quả kinh tế cao như nhieuf nghề khác nên người dân
không còn phát triển như trước đây, tuy nhiên xét trên phương diện lợi ích
lâu dài và tổng thể, để bảo vệ môi trường chúng ta cần có những giải pháp và
chính sách phù hợp để phục hồi, bố trí hợp lý các vùng tròng rong câu, hình
thành các thảm thực vật trên đầm phá để tạo nên môi trường sinh thái cho các
loài thủy sinh vật sinh trưởng và phát triển [4]
15
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các hộ ngư dân nuôi trồng thủy sản xen ghép trong ao vây lưới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu này dại diện cho phương thức nuôi
trồng thủy sản xen ghép theo dang ao vây ở khu vực đầm Sam Chuồn, Phú
Vang, Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi thời gian: Thông tin, số liệu trong các báo cáo kinh tế xã hội
qua điều tra thu thập trong vòng 3 năm từ 2007-2009.
Nghiên cứu thực tế, tiến hành điều tra để thu thập thông tin ở cấp cộng
đồng và cấp hộ từ ngày 05/01/2010 đến 09/05/2010 ở cả hai thôn.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Đặc điểm KT - XH vùng nghiên cứu:
+ Đặc điểm nhân khẩu và lao động;
+ Các hoạt động kinh tế
+ Thu nhập, mức sống của người dân.
- Đặc điểm chung của nhóm hộ NTTS xen ghép trong ao vây lưới:
+ Số nhân khẩu/ lao động;

+ Tuổi; trình độ học vấn;
+ Thu nhập.
+ Loại nhà, phương tiện sinh hoạt, phương tiện sản xuất
- Các cải tiến kỷ thuật nuôi trồng thủy sản đã được cộng đồng áp dụng.
+ Quá trình phát triển về NTTS xen ghép dạng ao vây lưới.
+ Cải tiến trong NTTS xen ghé dạng ao vây lưới
- Cơ cấu thu nhập và chi tiêu của hộ KTTS.
16
- Đánh giá hiệu quả NTTS xen ghép dạng ao vây lưới.
+ Tinh hình NTTS trước khi nuôi xen ghép.
+ Kết quả Phát triển nuôi xen ghép qua các năm
+ Tình hình thu nhập và nợ nần và rủi ro liên quan NTTS trước nuôi
xen ghép.
- Đánh giá hiệu quả nuôi xen ghép ao vây lưới khu vực Sam Chuồn.
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Điểm nghiên cứu
Đề tài thực hiện tại thôn Định Cư xã Phú An và thôn Định Cư xã Phú
Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Địa điểm nghiên cứu thuộc khu
vực đầm Sam Chuồn, là những thôn có diện tích nuôi trồng thủy sản xen
ghép lớn nhất khu vực và phần lớn người dân sống nhờ vào các hoạt động
nuôi trồng thủy sản
Đề tài lựa chọn 2 xã trên để tiến hành nghiên cứu vì:
- Đây là hai xã tiếp giáp với vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, có
nhiều hộ dân tham gia nuôi trồng thủy sản và đó là ngành nghề chính của họ.
- Hai thôn nghiên cứu có diện tích ao vây lưới lớn nhất khu vực.
- Phương thức nuôi trồng thủy sản của hai thôn này là nuôi xen ghép
trong ao vây lưới.
3.4.2. Chọn mẫu
Chọn hộ: Chọn các hộ có tham gia hoạt động nuôi trồng thủy sản, đang
nuôi trồng thủy sản xen ghép và nuôi trồng thủy sản là sinh kế chính của họ.

Dung lượng mẫu: Phỏng vấn 46 hộ tại hai thôn nghiên cứu
3.4.3. Phương pháp thu thập thông tin
Đối với thông tin cấp cộng dồng:
Loại thông tin thu thập:
17
+ Thu thập các số liệu về điều kiện tự nhiên: Thời tiết, khí hậu, tài
nguyên thiên nhiên, đất đai.
+ Thu thập các số liệu về điều kiện kinh tế xã hội: của xã, thôn, một số
thông tin về các cư dân sinh sống dựa vào nuôi trồng thủy sản.
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Nguồn số liệu được thu thập thông qua các tài liệu, các báo cáo, các
số liệu từ UBND xã, tổ chức có liên quan.
+ Phỏng vấn người am hiểu.
Thu thập thông tin cấp hộ.
- Đặc điểm của nhóm hộ nghiên cứu, hoạt động nuôi trồng thủy sản, sự
thay đổi của hộ trong cải tiến ao vây lưới
- Phỏng vấn hộ bằng bảng câu hỏi soạn trước, phỏng vấn sâu.
3.4.4 Phương pháp xử lý số liệu.
Sử dụng phần mềm xử lý số liệu Excel để tổng hợp, phân tích, xử lý số
liệu.
18
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Đặc điểm vùng nghiên cứu
4.1.1 Thông tin về cộng đồng tại vùng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại xã Phú An (thôn Định Cư) và Phú Mỹ
(thôn Định Cư), đây là hai trong bốn xã thuộc khu vực đầm Sam Chuồn, Phú
Vang, Thừa Thiên Huế.
Bảng 3: Đặc điểm kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
Chỉ tiêu đvt
Định cư

Xã Phú An
Định cư
Xã Phú Mỹ
Tổng số hộ Hộ 287 227
Nhâ khẩu Khẩu 1662 1362
Tổng số lao động Người 706 584
Số hộ khá, giàu Hộ 62 42
Số hộ trung bình Hộ 197 162
Số hộ nghèo Hộ 28 23
Hộ chuyên ngư Hộ 267 197
Hộ NTTS xen ghép ao vây
lưới
Hộ 172 131
Diện tích NTTS Ha 252 139
DT NTTS xen ghép Ha 223 144
Tổng sản lượng NTTS/năm Tấn 161 94
Nguồn: Điều tra thực tế 2010
19
Năm 1985, sau trận bão lũ lớn gây nhiều thiệt hại về người và của, cư
dân vạn đò ở khu vực đầm Sam Chuồn được nhà nước hỗ trợ lên định cư trên
đất liền. Tại hai xã Phú Mỹ và Phú An, các hộ lên định cư được tập trung tại
hai thôn Định Cư (Sau đây thôn Định Cư xã Phú An được gọi là Định Cư 1,
thôn Định Cư ở xã Phú Mỹ là Định Cư 2).
Dân cư ở cả hai thôn Định Cư khá đông, tỷ lệ số hộ/khẩu lớn, mật độ
dân cư lớn người dân có đời sống chủ yếu phục thuộc vào các hoạt động ngư
nghiệp (NTTS và KTTS), tỷ lệ lao động cao. Ở thôn Định Cư 1 dân số 1662
người và ở thôn Định Cư 2 là 227 người, tỷ lệ số người trong độ tuổi lao
động ở cả hai thôn xấp xỉ ngang bằng và ở mức cao ở Định Cư 1 là 706
người 42,4% dân số và ở Định Cư 2 là 584 người chiếm 42,9% dân số. Ở địa
phương lao động chủ yếu làm trong ngư nghiệp, bởi đặc điểm nuôi trồng thủy

sản mới và sự giảm sút trong nghề khai thác thủy sản nên thu hút rất ít lao
động trong ngư nghiệp. Do đó địa phương có một lực lượng lao động khá dồi
dào nhưng chủ yếu đi làm ăn xa.
Sinh kế chính của cộng đồng hai thôn còn phụ thuộc vào nghề thủy sản
là chính ở thôn Định Cư 1 có 267 hộ tham gia chiếm 93% tổng số hộ, còn ở
thôn Định Cư 2 có 197 hộ tham gia chiếm 86,8% tổng số hộ. Các hoạt động
ngư nghiệp của cộng đồng ở đây bao gồm khai thác thủy sản và nuôi trồng
thủy sản, trong đó các hoạt động nuôi trồng thủy sản chiếm vai trò quan trọng
trong hoạt động sản xuất. Nghề khai thác thủy sản trước đây cũng là sinh kế
chính của người dân ở đây nhưng do tài nguyên đầm phá ngày càng bị suy
giảm nên sản lượng đánh bắt giảm sút, không còn hiệu quả cao do đó thu hút
ít lao động tham gia, chủ yếu một số hộ do không có diện tích mặt nước để
nuôi trồng thủy sản và một số hộ làm thêm mang tính chất tiểu nghệ.
Ở cả hai thôn, diện tích ao vây lưới lớn nhất khu vực Sam Chuồn, các
hoạt động sản xuất dựa vào ao vây lưới là sinh kế chính ở đây. Theo điều tra,
mỗi hộ ngư dân ở đây đều có ít nhất một ao vây lưới, nhiều hộ hai hoặc ba ao
do mua lại từ các hộ khác hoặc chia ra cho con cái do ao của mình quá lớn,
một phần rất ít các hộ không có ao do chuyển đổi nghề nghiệp từ ngư nghiệp
sang làm dịch vụ như buôn bán. Các ao vây lưới hiện nay đều được nuôi xen
20
ghép nhiều loại khác nhau. Khai thác tiểu nghệ (lưới, lừ, xiếc điện ) bao
gồm cả người chuyên nghề khai thác và một phần các hộ có ao nuôi nhưng
làm thêm để tăng thu nhập.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản xen ghép trong ao vây lưới hiện nay
đang có hiệu quả cao, giúp cho bà con ngư dân có đời sống ổn định và thu
nhập ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ hộ khá, giàu của hai thôn mặc dù chưa
cao nhưng tỷ lệ hộ nghèo thấp, tỷ lệ hộ trung bình khá cao. Thời điểm trước
năm 2005 do các hoạt động nuôi trồng thủy sản gặp nhiều thất bại nên nhiều
hộ lâm vào cảnh nợ nần, nay hầu hết các hộ đã trả được tiền vay nợ và có
cuộc sống ổn định hơn.

Do xuất phát điểm như nhau nên hai thôn có nhiều đặc điểm tương
đồng nhau. Các hộ dân định cư mặc dù được đưa lên đất liền nhưng không có
đất sản xuất nông nghiệp, đời sống vẫn phụ thuộc chủ yếu và hoạt động ngư
nghiệp, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp khá ít chủ yếu phục vụ cho ngư
nghiệp như đan ghe nan, làm nò, sáo, lưới, nơm Hiện nay, những người dân
định cư vẫn sống chủ yếu dựa vào các nguồn lợi từ thủy sản, một số hộ có
con cái đến độ tuổi lao động thì đi làm ăn ở khu vực khác (chủ yếu đi các khu
công nghiệp phía Nam hoặc đi giúp việc).
4.1.2 Đặc điểm hộ NTTS ao vây vùng nghiên cứu
Nhìn chung các hộ nghiên cứu ở hai xã Phú An và xã Phú Mỹ đều có
những đặc điểm tương đồng, mang tính chất chung của cư dân vùng ven phá.
Tuy nhiên, tùy vào thực tế của địa phương và một vài yếu tố tác động nên
cũng có sự khác biệt giữa các vùng.
21
Anh Hiếu trưởng thôn Định Cư, Phú An cho biết: “Thôn này là do
người dân chuyển từ đò lên định cư, đất đai được nhà nước cấp,
nhưng toàn đất ở chú không có đất sản xuất. Ở đây, nghề chủ yếu
là khai thác và nuôi trồng thủy sản nhưng toàn do người lớn đảm
trách. Còn thanh niên trẻ thì đều đi làm ăn ở miền Nam hết, ngồi
ở nhà thì không có việc làm nhiều.
Khu vực nghiên cứu tập trung các hộ có sinh kế phụ thuộc vào ngư
nghiệp, điểm chính là nghề nuôi trồng thủy sản.
Bảng 4: Đặc điểm kinh tế, xã hội của hộ khảo sát
Các chỉ tiêu ĐVT
Định Cư
Xã Phú An
Định Cư
Xã Phú Mỹ
Tuổi TB chủ hộ Tuổi 55,6 48,3
Trình độ học vấn Lớp 4 4

Nhân khẩu/hộ Người 6 6
Lao động/hộ Người 3 3
Loại nhà kiên cố Nhà 21 14
Loại nhà bán kiên cố Nhà 4 6
Loại nhà tạm Nhà 1 0
Diện tích ao vây lưới
trung bình
Ha 1,3 1,1
Số ao vây lưới/hộ Ao 1 1
Số hộ KTTS Hộ 8 6
Thu nhập trung bình Tr/hộ 49 44
Nguồn: Khảo sát hộ 2010
Tuổi bình quân các chủ hộ khá cao, các lao động có độ tuổi trên 35
thường ở lại địa phương tham gia vào các hoạt động nuôi trồng thủy sản còn
các lao động trẻ hơn thì đi lao động ở địa phương khác. Trình độ học vấn của
chủ hộ thấp, trung bình chủ hộ có trình độ học vấn ngang lớp 4, và dao động
trong khoảng mức từ lớp 3 đến lớp 8. Do điều kiện và tập quán sống ở trên
22
sông nước trước đây nên điều kiện giáo dục của những người này không
được đảm bảo.
Trung bình mỗi hộ gia đình ở cả hai thôn có 6 nhân khẩu và hầu hết
nhân khẩu đều nằm trong độ tuổi lao động. Ở hai vùng, nhân khẩu trong gia
đình tham gia vào lực lượng lao động khá sớm. Số lao động trong gia đình
trải đều từ mức tuổi từ 16 đến trên 45 phân thành 2 thế hệ, một số gia đình có
3 thế hệ cùng chung sống. Đây là nhân khẩu cao so với các vùng khác, một
mặt phản ánh việc thực hiện công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình chưa tốt,
nhưng mặt khác lại cung cấp lực lượng lao động dồi dào.
Diện tích mặt nước để sản xuất ngư nghiệp khá rộng, ở Định Cư 1 bình
quân mỗi người có 1,3 ha còn ở Định Cư 2 mỗi người có 1,1 ha để nuôi trồng
thủy sản trên đầm phá. Đây là diện tích tương đối phù hợp với hình thức nuôi

trồng thủy sản xen ghép trong ao vây lưới, vừa đảm bảo các yếu tố kỹ thuật,
khả năng đầu tư và đảm bảo tài nguyên cho đầm phá.
Do nằm ở vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, nhu cầu
nhà ở là hết sức quan trọng, không chỉ là vấn đề “an sinh lạc nghiệp” mà còn
là tài sản, nơi trú ẩn trước những biến động thất thường của thời tiết. Số nhà
kiên cố và bán kiên cố có tỷ lệ lớn. Đa phần các nhà kiên cố đều được xây
vào giai đoạn từ 2007 trở về sau do hoạt động nuôi trồng thủy sản có hiệu
quả, người dân có điều kiện để nâng cao cuộc sống của mình.
Thu nhập bình quân ở Định Cư 1 cao hơn Định Cư 2 do hoạt động nuôi
trồng thủy sản ở Định Cư 1 diễn ra với quy mô lớn hơn, giá trị thu được lớn
nên thu nhập bình quân cao. Theo người dân ở đây, thu nhập này ngày càng
được nâng cao nhơ hoạt động sản xuất từng bước ổn định, các cơ chế mới
đảm bảo cho người dân yên tam sản xuất.
Trong những năm qua, hoạt động nuôi trồng khai thác thủy sản có
bước phát triển, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng nhìn chung phát triển
ổn định, đem lại thu nhập khá cho người dân.
Hoạt động phi nông nghiệp thu hút nhiều hộ tham gia, đem lại nguồn
thu đáng kể. Các hoạt động phổ biến là buôn bán nhỏ, kinh doanh dịch vụ,
lao đông khác như: lao động làm thuê, làm công ăn lương
23
Hoạt động khai thác thủy sản ở đây hiện nay tuy đã giảm nhưng vẫn
còn nhiều hộ tham gia khai thác. Qua phỏng vấn, các hộ nuôi trồng thủy sản
vẫn là sinh kế chính, đưa lại nguồn thu nhập chủ yếu cho hộ, người ta vẫn
tiến hành đánh bắt thủy sản tự nhiên bên ngoài để tăng thêm thu nhập. Số hộ
này tranh thủ thời gian lúc nhàn rỗi khi đi chăm sóc ao nuôi.
Các hoạt động sinh kế ở đây chủ yếu diễn ra ban đêm, người dân bắt
đầu công việc từ 5h – 6h chiều kéo dài đến 6h - 7h sáng hôm sau. Các hộ có
ao vây lưới chủ yếu là kiểm tra các trộ nò để thu hoạch các sản phẩm trong
ao, kiểm tra các vách lưới, bảo vệ tài sản. Các hoạt động đó thường do một
hoặc hai người có kinh nghiệm đảm nhiệm. Ban ngày những người làm ao

vây trở lại đất liền, làm các công việc nhà hoặc ngồi không, không có nhiều
công việc trong thời gian rãnh rỗi này. Như vậy có thể thấy rằng chi phí nhân
công cho các hoạt động khá ít.
Mùa sản xuất thủy sản cũng được chia thành 2 mùa, bao gồm mùa mưa
bão và mùa khô. Vào mùa khô các hộ có ao vây tiến hành nuôi trồng thủy
sản, bắt đầu từ tháng 1 âm lịch đến tháng 7 âm lịch. Đến mùa mưa bão các hộ
này chuyển sang làm khai thác thủy sản, hệ thống ao vây lưới được tháo dỡ
một phần tạo thành các trộ sáo. Nuôi trồng thủy sản là nguồn thu chủ yếu
trong mùa khô, khai thác thủy sản là nguồn thu chủ yếu trong mùa mưa bão.
Đây là một trong những nét đặc biệt của nuôi trồng thủy sản bằng ao vây
lưới.
4.2 Quá trình hình thành và chuyển đổi nuôi trồng thủy sản xen
ghép trong ao vây.
Người dân sinh sống khu vực Sam Chuồn có từ lâu đời, sinh kế của họ
chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn lợi từ đầm phá. Ban đầu các hoạt động sinh
kế của họ chủ yếu là khai thác thủy sản tự nhiên bao gồm các nghề di động
(lưới, dũi, nơm, câu ) và các nghề cố định (chuôm, sáo, rớ ).
Nghề nò sáo cũng có lịch sử lâu đời. Ban đầu nò sáo được làm bằng tre
(sáo tre). Sáo tre được làm bằng các thanh tre nhỏ, dài liên kết khít với nhau
thành từng tấm. Sáo cấu tạo như hai cái phễu để chồng lên nhau, phần trên thì
có miệng mở rộng và cuống phễu để rỗng, phần dưới được go lại bằng một
24
cái nò. Các động vật thủy sản từ bên ngoài đi vào trong trộ sáo, được bắt giữ
lại trong nò. Chi phí ban đầu để làm một trộ sáo thường rất lớn do diện tích
mặt nước lớn, chi phí để mua tre và trả công cao. Trong nửa cuối thập niên
70 có sự xuất hiện của sáo mùng. Sáo mùng được du nhập từ những người
làm nghề ở Phú Lộc. Các trộ làm sáo mùng thường làm sau các sáo tre, thay
tre bằng mùng. Sáo mùng này có chi phí tiết kiệm hơn nhiều sáo tre cả về
nhân công, giá cả nguyên liệu và chi phí duy tu. Sáo mùng được làm ra dựa
sự thỏa hiệp giữa 2 hộ sáo tre ở cạnh nhau nhằm tăng thêm diện tích và sản

lượng khai thác, các hộ này đã cho phép người nhà hoặc người khác đến làm
sáo mùng ở giữa diện tích 2 trộ sáo tre.
Cuối những năm 80 đầu 90 là sự phát triển của nuôi trồng thủy sản trên
đầm phá Tam Giang. Lúc đầu người chỉ có loại hình ao dất do những hộ dân
trên bờ làm để nuôi tôm. Đến giai đoạn 1994 – 2003, ngoài loại hình ao đất,
phổ biến một loại hình ao nuôi mới là ao vây lưới, sáo tre được thay bởi sáo
mùng, đây loại hình khai thác thủy sản hỗn hợp hay còn gọi là quảng canh
chắn sáo. Được phát triển bởi những người dân vạn đò lên định cư sau trận
lụt năm 1985. Trộ sáo được vây lại tạo thành các ao vây lưới. Trong diện tích
ao được vây, người ta kết hợp vừa khai thác tự nhiên vừa nuôi trồng thủy sản.
Thủy sản tự nhiên vào các trộ sáo thì bị giữ lại. Những con kích thước lớn thì
được bắt bán còn những con nhỏ thì được thả xuống lại ao đến khi đạt kích
cỡ thu được, một số hộ mua thêm tôm giống về thả thêm vào trong ao. Như
vậy ban đầu các ao vây lưới đã nuôi xen ghép nhiều loại thủy sản khác nhau,
bao gồm các loại có nguồn gốc tự nhiên như tôm, cua, cá kình, cá dìa, cá đối,
cá tàng và thả thêm giống tôm nhân tạo.
Từ năm 1995 các hộ ngư dân bắt đầu tiến hành vây ví. Ban đầu chính
quyền địa phương cho phép nuôi ao vây trong một khoảng thời gian ngắn.
Nhưng sau đó, thấy làm ăn có hiệu quả nên các hộ này vẫn cứ tiếp tục nuôi
ao vây. Sau khi vây, nò sáo được đặt trong ao vây. Các hộ khác thấy những
hộ này làm ăn khá, xin chính quyền địa phương cho vây ví, nhưng không
được. Các hộ không được cấp phép thì vây ví làm ao trộm. Diện tích mặt
nước bị thu hẹp dần, các đường thủy đạo cũng bị lấn chiếm. Đến năm 2000,
25

×