Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Tăng cường quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 96 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế tồn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang diễn ra sơi nổi và
nhanh chóng, nhiều quốc gia và nhiều cơng ty đang có nhu cầu mở rộng đầu tư ra
các nước khác. Đối với các nước đang phát triển và khả năng tích lũy vốn trong


nước cịn thấp như Việt Nam thì cần phải thu hút vốn từ bên ngồi cho đầu tư phát
triển, trong đó thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một tất yếu khách quan.



Sau gần 30 năm thực hiện chính sách mở cửa, cùng với sự ra đời của Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào năm 1987 và lần sửa đổi gần nhất là Luật Đầu
tư năm 2014, việc thu hút FDI ngày càng thể hiện vai trò quan trọng và có những


đóng góp đáng kể đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam nói chung cũng


như các địa phương nói riêng, trong đó có tỉnh Hà Tĩnh.
Là một tỉnh có nhiều thế mạnh trong thu hút FDI do có vị trí thuận lợi, nguồn
nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, thuận tiện trong việc mở rộng các hoạt động
giao dịch ở nhiều lĩnh vực với các địa phương khác, Hà Tĩnh đã thu hút được nhiều


nhà đầu tư nước ngoài và tăng liên tục qua các năm. Tính đến năm 2015, Hà Tĩnh



đã thu hút 64 dự án FDI đến từ 12 nước và vùng lãnh thổ khác nhau với số vốn hơn
11 tỷ Đơ la Mỹ (USD), đóng góp một phần khơng nhỏ vào sự phát triển và chuyển


dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh”.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những thành tựu trên đây là sự cố
gắng nỗ lực của công tác quản lý nhà nước (QLNN) trên địa bàn tỉnh. Dựa trên các
chính sách thu hút đầu tư chung, Hà Tĩnh đã cụ thể hóa thành các chính sách của
tỉnh nhằm tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hấp dẫn, thu hút các doanh nghiệp
FDI đầu tư vào địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, công tác QLNN về đầu tư
trực tiếp nước ngồi của tỉnh vẫn cịn một số hạn chế bất cập, như: chỉ chú trọng
vào việc thu hút và kêu gọi các dự án đầu tư FDI mới, cịn cơng tác quản lý, giám
sát, hỗ trợ doanh nghiệp FDI sau cấp phép chưa được quan tâm thích đáng; Vẫn cịn


2

các dự án FDI không đạt hiệu quả đầu tư; Một số doanh nghiệp FDI còn bộc lộ một
số hạn chế khác như: trốn thuế, tai nạn lao động, gây ô nhiễm môi trường …Những
hạn chế trên đã ảnh hưởng nhất định đến môi trường đầu tư của tỉnh, hạn chế việc
mở rộng đầu tư của các dự án đầu tư đã thực hiện, đồng thời làm suy giảm sức hút
đối với các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Thực trạng trên đây đã đặt ra rất nhiều vấn đề cho phía cơ quan QLNN của
tỉnh, cụ thể là Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hà Tĩnh. Đó là “làm thế nào để tăng
cường quản lý các doanh nghiệp FDI nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tĩnh” ?
Từ những lý do trên đây, nên tôi chọn đề tài “Tăng cường quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh” cho luận văn thạc sĩ của mình.


2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Đề tài về QLNN đối với doanh nghiệp FDI đã được nhiều nhà khoa học và
các hoạt động thực tiễn nghiên cứu. Dưới đây là một số cơng trình tiêu biểu:
- Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi tại thành phố Đà Nẵng” của
Phan Thị Thanh Hải (2006) đã tập trung nghiên cứu “các vấn đề lý luận và thực
trạng về công tác QLNN đối với các doanh nghiệp FDI, từ đó đưa ra các giải pháp
hồn thiện cơng tác QLNN đối với loại hình doanh nghiệp này, nhưng mới chỉ thực
hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và thời gian nghiên cứu từ năm 2006”, chưa
được cập nhật những thông tin mới về QLNN đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
- Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị “Hồn thiện quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi ở Phú Thọ” của Nguyễn Thị Hải
Yến (2012), Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, đã có những
phân tích sâu sắc về lý luận chung đối với QLNN, đồng thời đánh giá thực trạng
QLNN đối với doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua để
từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp hồn thiện QLNN đối với loại hình doanh


3

nghiệp này trong thời gian tới. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
- Luận văn thạc sĩ Quản lý kinh tế “Quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Bắc Ninh” của Nguyễn Thị Vui
(2013), Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, “đã tập trung nghiên
cứu thực trạng công tác QLNN đối với các doanh nghiệp FDI tại tỉnh Bắc Ninh, từ
đó đưa ra một số giải pháp hồn thiện QLNN đối với loại hình doanh nghiệp này
đến năm 2020”. Với cơng trình này, tác giả đã có nhiều cập nhật về số liệu cũng như
các cơ sở lý luận về đầu tư, tuy nhiên cơng trình cũng chỉ phân tích thực trạng tại

địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh “Giải pháp kiểm soát hoạt động
chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Hà Nội” của Bùi Đình Sa (2013), Viện
Đại học Mở Hà Nội dựa trên cơ sở lý luận chung về hoạt động chuyển giá và thực
trạng hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Hà Nội đã đề xuất các giải
pháp nhằm kiểm soát hoạt động chuyển giá của doanh nghiệp FDI trên địa bàn. Như
vây cơng trình mới chỉ tập trung nghiên cứu về giải pháp kiểm soát hoạt động
chuyển giá của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn Hà Nội, là một khía cạnh nhỏ,
riêng biệt trong công tác QLNN đối với các doanh nghiệp FDI trên địa bàn cấp tỉnh.
- Luận văn Thạc sĩ Kinh tế “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Hà Tĩnh”
của Bùi Thị Thủy Ninh (2015), Trường ĐH Vinh, đã đề cập tới thực trạng FDI tại
tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2007 – 2013, từ đó đưa ra các định hướng cũng như “một số
giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh”. Cơng trình
nghiên cứu đã có nhiều cập nhật về số liệu FDI trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh vào năm
2014, tuy nhiên đề tài mới chỉ phân tích về tình hình thu hút FDI của Hà Tĩnh
những năm gần đây, chứ chưa đi sâu nghiên cứu về công tác QLNN đối với các
doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Như vậy, cho đến nay chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu đầy đủ, hệ



thống về QLNN đối với các doanh nghiệp FDI trên địa tỉnh Hà Tĩnh”, trong đó chủ


4

thể thực hiện QLNN là: UBND tỉnh Hà Tĩnh. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài này để
thực hiện nghiên cứu.

3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài

Trên cơ sở vận dụng lý luận để phân tích và đánh giá thực trạng, luận văn đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường QLNN đối với các doanh nghiệp
FDI trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về QLNN
đối với các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.”
* Phạm vi nghiên cứu đề tài:
- Phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
- Phạm vi thời gian: Phân tích thực trạng giai đoạn 2011- 2015, đề xuất các
giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường QLNN đối với các doanh nghiệp FDI trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh cho giai đoạn 2016-2020.
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu thực trạng QLNN đối với doanh nghiệp FDI
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh do tỉnh quản lý. Chủ thể quản lý là UBND tỉnh Hà Tĩnh.
Luận văn tập trung nghiên cứu 5 nội dung quan trọng về QLNN đối với các doanh
nghiệp FDI gồm: “(i) Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về đầu
tư; Lập và công bố Danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa phương ;(ii) Tổ chức và
thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư; (iii) Chủ trì tổ chức việc đăng ký đầu tư, thẩm
tra, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc
thẩm quyền; (iv) Tổ chức thực hiện việc giải phóng mặt bằng cho các dự án thuộc
doanh nghiệp FDI; (v) Kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động doanh nghiệp FDI;
(vi) Giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư; kiến nghị giải quyết những
vấn đề vượt thẩm quyền.”

5. Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm phương pháp
phân tích, so sánh, thống kê và tổng hợp. Đồng thời, luận văn thu thập dữ liệu thứ


5


cấp từ giáo trình, sách, các cơng trình nghiên cứu khoa học, các văn bản pháp quy
của Nhà nước, tỉnh Hà Tĩnh, các báo cáo,…có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

6. Kết cấu luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi trên địa bàn tỉnh
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đến
năm 2020


6

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ
TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

1.1. Khái niệm và sự cần thiết của quản lý nhà nƣớc đối với các
doanh nghiệp FDI
1.1.1. Khái niệ m quả n lý nhà nước đối với các doanh nghiệ p
FDI
Quản lý là một chức năng bắt nguồn từ tính xã hội của lao động trong điều
kiện phát triển kinh tế, quản lý được xem là thước đo của hầu hết các hoạt động xã
hội.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay thì:

“Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra.” [13, tr 85]
“Theo cách tiếp cận này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích
quản lý. Khái niệm quản lý được cho là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của xã
hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý.”
Như vậy, có thể nói quản lý là sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới những
mục tiêu nhất định. “Việc tác động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào từng góc độ
khoa học khác nhau, từng lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người
nghiên cứu.”
QLNN là khái niệm mang nghĩa hẹp hơn, có chủ thể, đối tượng và mục tiêu
quản lý cụ thể.
“QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước
đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát
triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng


7

và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa”. [14, tr 407]
Theo khái niệm trên, “QLNN mang tính chất quyền lực nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, QLNN
là một chức năng của Nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động
chức năng đặc biệt”. Trong đó, QLNN được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: “QLNN là toàn bộ hoạt động chức năng của bộ máy nhà
nước, bao gồm lập pháp, hành pháp, và tư pháp.”
Theo nghĩa hẹp: QLNN chỉ có chức năng hành pháp.
QLNN được đề cập trong đề tài này là khái niệm QLNN theo nghĩa hẹp, tức
là quản lý hành chính nhà nước, mà đối tượng quản lý ở đây là các doanh nghiệp

FDI.
Như vậy, “QLNN đối với các doanh nghiệp FDI là quá trình tổ chức, điều
hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với hành vi hoạt động của con
người, tổ chức trong các doanh nghiệp FDI theo pháp luật.”
Đồng thời, các cơ quan QLNN nói chung cịn thực hiện các hoạt động có
“tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính Nhà nước”, có tổ chức, bằng
pháp quyền và thơng qua các chính sách với các cơng cụ quản lý nhằm tổ chức và
chỉ đạo một cách trực tiếp, thường xuyên đối với các doanh nghiệp FDI.

1.1.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp
FDI trên địa bàn tỉnh
Doanh nghiệp FDI có nhiều loại hình và cách thức tổ chức hoạt động khác so
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Do vậy, ngoài các đặc điểm chung
của các doanh nghiệp trong nước, cần nhận thức rõ các đặc điểm hoạt động riêng
của loại hình doanh nghiệp này, từ đó thấy được sự cần thiết phải tăng cường hiệu
quả QLNN đối với chúng. Doanh nghiệp FDI có các đặc điểm cơ bản sau:
+ Mức vốn đầu tư trực tiếp: Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong
vốn pháp định của dự án phải đạt mức độ tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng


8

nước quy định. Theo “Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định” chủ đầu tư
nước ngồi phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án (trừ những trường hợp
do chính phủ quy định), ở Hoa Kỳ quy định 10% và một số nước khác lại quy định
là 20%.
+ Mức độ tham gia quản lý vốn: các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia
hoặc tự mình quản lý, điều hành các dự án mà họ bỏ vốn vào đầu tư. “Quyền quản
lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định
của dự án”. Nếu nhà đầu tư nước ngồi góp 100% vốn trong vốn pháp định, thì

doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư đó và cũng do họ quản lý tồn
bộ.
+ Lợi ích của các bên: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được phân chia
cho các bên theo “tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định”, sau khi nộp thuế cho nước sở
tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có).
+ Mục đích hàng đầu của các doanh nghiệp FDI là tìm kiếm lợi nhuận. “Do
vậy, các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi
tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và
các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát
triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích
tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.”
+ Các doanh nghiệp FDI ngoài sự lưu chuyển của vốn thường kèm theo
chuyển giao công nghệ. “Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận
được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.” Tuy nhiên, nếu
việc quản lý từ các cơ quan nhà nước khơng kỹ càng, khơng đủ trình độ để xét
duyệt, thẩm định thì sẽ phải tiếp nhận những “công nghệ đã lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trường” và những hệ lụy tiêu cực khác từ các doanh nghiệp FDI.
Vì vậy, để giải quyết các vấn đề xung đột cơ bản trong quan hệ hợp tác kinh
tế giữa các doanh nghiệp FDI và bên nhận đầu tư, hay là làm thế nào để loại hình
doanh nghiệp này hoạt động “có hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế


9

- xã hội của địa bàn tiếp nhận đầu tư”, cần thiết phải có sự QLNN từ phía địa
phương nhận đầu tư đối với các doanh nghiệp FDI, cụ thể:
Thứ nhất, QLNN đối với doanh nghiệp FDI để đảm bảo “các doanh nghiệp
này hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật” của nước nhận đầu tư, tránh vì mục
đích kiếm lời mà ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển chung của địa bàn tiếp nhận
đầu tư.

Thứ hai, QLNN đối với các doanh nghiệp FDI còn nhằm giúp địa bàn nhận
đầu tư thực hiện được các mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài trong quá trình
phát triển chung, trong đó việc thu hút vốn, cơng nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý tiên tiến của nước ngoài phải đặt lên hàng đầu như: “ưu tiên thu hút các dự án
FDI có cơng nghệ hiện đại, tiết kiệm ngun liệu, năng lượng, thân thiện với môi
trường.”
Thứ ba, QLNN đối với các doanh nghiệp FDI “đóng vai trị quan trọng trong
việc thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế”, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu,
chú trọng, hiệu quả và tính bền vững của địa bàn nhận đầu tư.
Thứ tư, QLNN đối với doanh nghiệp FDI có vai trị đảm bảo mơi trường kinh
doanh lành mạnh, cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp dựa trên khuôn khổ
của pháp luật nước nhận đầu tư.
Thứ năm, QLNN đối với các doanh nghiệp FDI nhằm tạo mơi trường pháp
lý, mơi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, những điều kiện cần thiết và thuận
lợi cho sự ra đời và hoạt động kinh doanh có hiệu quả của doanh nghiệp FDI. Đồng
thời nhằm bảo hộ sở hữu, “bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ đầu tư nước ngoài,
khuyến khích họ hăng hái, yên tâm đầu tư, kinh doanh và hợp tác rộng rãi có hiệu
quả với nhà đầu tư trong nước”.
Như vậy, để “các nhà đầu tư nước ngoài” tham gia hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nước một cách bình đẳng, có hiệu quả; đồng thời các doanh
nghiệp FDI hoạt động đúng định hướng, tác động tích cực đến đời sống chính trị,
kinh tế - xã hội của địa bàn nhận đầu tư; ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp


10

nhất những ảnh hưởng tiêu cực, những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hợp
tác đầu tư thì rất cần thiết phải có sự QLNN đối với các doanh nghiệp FDI.

1.2. Đặc điểm quản lý nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp FDI

1.2.1. Chủ thể, đối tượng và khách thể của quản lý nhà nước đối
với các doanh nghiệp FDI
Chủ thể của QLNN là các cơ quan nhà nước mà trước hết là các cơ quan
QLNN, các “cán bộ cơng chức nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức và cá nhân
được Nhà nước” trao quyền quản lý hành chính trong một số trường hợp cụ thể.
Trong đó, chủ thể QLNN đối với các doanh nghiệp FDI là các “cán bộ công chức,
tổ chức, cơ quan nhà nước” được trao quyền lực nhà nước để quản lý chung hay chỉ
một lĩnh vực cụ thể đối với doanh nghiệp FDI.
Đối tượng của QLNN bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống, sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia chịu sự quản lý của chủ
thể QLNN. “Và đối tượng QLNN đối với các doanh nghiệp FDI tại một địa phương
chính là các doanh nghiệp FDI thực hiện đầu tư, sản xuất, kinh doanh trên địa bàn
đó.”
Khách thể của QLNN là nhữ

chủ thể

, mong muốn thiết lập để đạt được mục tiêu quản lý

: trật tự quản lý

hành chính trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và hành vi, hoạt động của cá nhân,
tổ chứ

ằm thiết lập trậ

. Trong

đó, khách thể của QLNN đối với các doanh nghiệp FDI là “các trật tự quản lý hành
chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, là các hành vi, hoạt động của các doanh

nghiệp FDI trong quá trình thực hiện đầu tư kinh doanh”.
“Để xem xét được mối quan hệ giữa chủ thể, đối tượng và khách thể của
QLNN cần xem xét mối quan hệ này trong từng lĩnh vực cụ thể”. Vậy, QLNN đối
với các doanh nghiệp FDI là việc “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” (chủ thể quản
lý) tác động tới các hành vi, hoạt động (khách thể quản lý) của doanh nghiệp FDI
“đối tượng quản lý” nhằm đạt được mục tiêu quản lý.


11

Tại Việt Nam, chủ thể QLNN đối với các doanh nghiệp FDI được phân cấp
như sau:
“Cấp Trung ương:
- Chính phủ thống nhất QLNN đối với các doanh nghiệp FDI trong phạm vi
cả nước.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN
đối với các doanh nghiệp FDI.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm thực hiện QLNN đối với các doanh nghiệp FDI về lĩnh vực được phân
cơng.
Cấp địa phương:
- UBND cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện QLNN đối với các doanh nghiệp
FDI trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước UBND cấp tỉnh thực hiện
QLNN đối với các doanh nghiệp FDI ngồi Khu cơng nghiệp (KCN), Khu chế xuất
(KCX), Khu cơng nghệ cao (KCNC) và Khu kinh tế (KKT).
- Ban Quản lý KCN, KCX, KCNC, KKT chịu trách nhiệm trước UBND cấp
tỉnh thực hiện QLNN các doanh nghiệp FDI trong KCN, KCX, KCNC và KKT.
- Các sở, ban, ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách
nhiệm trước UBND cấp tỉnh thực hiện QLNN đối với các doanh nghiệp FDI về lĩnh

vực được phân công.”
(Chi tiết tại Phụ lục 01)

1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp FDI
Áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử trong bối cảnh Việt Nam là
thành viên của WTO, các nguyên tắc QLNN đối với các doanh nghiệp FDI được áp
dụng theo nguyên tắc QLNN đối với các doanh nghiệp nói chung tại Việt Nam.


12

Nguyên tắc QLNN đối với các doanh nghiệp nói chung tại Việt Nam được
quy định tại Điều 17, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Doanh nghiệp như sau:
“Điều 17. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
- Cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ, tuyên truyền và tạo
điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tuân thủ đúng quy định pháp luật.
- Cán bộ, công chức không được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp
thêm các giấy tờ, đặt ra thêm các thủ tục, điều kiện ngồi quy định và có hành vi
gây khó khăn, phiền hà đối với tổ chức, cá nhân trong tiếp nhận hồ sơ và giải quyết
thủ tục cho doanh nghiệp.
- Tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan nhà nước về tình
hình hoạt động của doanh nghiệp; tạo thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức có liên
quan trong tiếp cận các thơng tin về hoạt động của doanh nghiệp được lưu trữ tại cơ
quan, đơn vị, trừ trường hợp phải bảo đảm bí mật theo quy định pháp luật.
- Mỗi cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ quan đại
diện chủ sở hữu chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát hoạt động của các doanh
nghiệp trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ được giao. Hoạt động theo dõi, giám
sát, thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan đại diện chủ sở hữu
không được gây ảnh hưởng bất lợi hoặc cản trở hoạt động bình thường của doanh

nghiệp” [3]
Bên cạnh các nguyên tắc chung, công tác QLNN đối với các doanh nghiệp
FDI cần đảm bảo một số nguyên tắc đặc thù vì đối tượng có yếu tố nước ngồi như:
đảm bảo và tơn trọng các quy định pháp luật của nước đi đầu tư; đảm bảo an tồn
tính mạng và tài sản của người nước ngoài trên địa bàn nhận đầu tư.
Như vậy trong quá trình thực hiện QLNN đối với các doanh nghiệp FDI, các
cán bộ cơng chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các nội dung quản lý
phải bảo đảm các nguyên tắc trên để cho hoạt động quản lý đạt hiệu lực và hiệu quả
tốt nhất.


13

1.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp FDI trên
địa bàn tỉnh
Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005, được sửa đổi năm 2014 và “quy
định chi tiết trong Nghị định hướng dẫn số 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ” thì
hoạt động QLNN “đối với các doanh nghiệp FDI trên địa bàn cấp tỉnh do UBND
tỉnh” thực hiện bao gồm các nội dung sau đây ( Chi tiết xem Phụ lục 02):

1.3.1. “Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về đầu
tư; Lập và cơng bố Danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa phương”
Trước hết, QLNN đối với doanh nghiệp FDI trên địa bàn cấp tỉnh để đạt
được hiệu quả cao thì nhiệm vụ quan trọng của UBND cấp tỉnh đó là phải “xây
dựng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách phù hợp với mục tiêu phát
triển kinh tế của đất nước, của địa phương, đồng thời phù hợp với nhu cầu của các
nhà đầu tư nước ngồi”.
Với mục đích vì lợi nhuận, hầu hết nhà đầu tư nước ngồi chỉ đầu tư vào
những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, khả năng thu hồi vốn nhanh, ở những nơi có
cơ sở hạ tầng thuận lợi. Chính điều này dẫn đến sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư

và thiệt hại chung cho nền kinh tế. Để các doanh nghiệp FDI phát triển theo hướng
“lành mạnh”, cân đối trong phạm vi địa bàn tiếp nhận đầu tư giữa các ngành kinh tế
và giữa các vùng thì ngay từ ban đầu, việc “xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách thu hút FDI đóng một vai trị rất quan trọng trong QLNN đối với
loại hình doanh nghiệp này”. Nhiệm vụ của QLNN đối với doanh nghiệp FDI là
phải định hướng, điều tiết vốn FDI trên cơ sở xây dựng các quy hoạch, kế hoạch,
chính sách về đầu tư một cách chi tiết và rõ ràng sao cho “phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội” của địa bàn tiếp nhận. Đồng thời, chiến lược thu hút FDI
phải thoả mãn nhu cầu và “lợi ích của nhà đầu tư nước ngồi”, cũng khơng thể buộc
các doanh nghiệp FDI hoàn toàn theo ý muốn của địa bàn tiếp nhận đầu tư, mà phải
quan tâm tới lợi ích của họ khi ban hành chính sách, khéo léo hài hồ lợi ích giữa
các bên.


14

Từ đó, UBND cấp tỉnh “xây dựng và cơng bố các Danh mục dự án kêu gọi
đầu tư vào địa bàn tỉnh, Danh mục các dự án trọng điểm để trình Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, trình Chính phủ đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm mục đích
tun truyền đến doanh nghiệp FDI các ngành nghề, lĩnh vực, vùng ưu tiên đầu tư”.

1.3.2. Tổ chức và thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư
Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư là một trong những nội dung quan
trọng của QLNN đối với các doanh nghiệp FDI, nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp này tìm hiểu và hiểu rõ hơn về các cơ hội đầu tư tại cơ sở. “Ở cấp trung
ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất
QLNN về hoạt động xúc tiến đầu tư. Ở cấp địa phương: Sở Kế hoạch và Đầu tư làm
đầu mối giúp UBND cấp tỉnh QLNN về xúc tiến đầu tư ở cấp địa phương.”
Các nội dung tổ chức, thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư trên địa bàn tỉnh
bao gồm:

“- Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thị trường, xu hướng và đối tác đầu tư
- Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, cơ sở dữ liệu và phát hành các
các ấn phẩm, tài liệu phục vụ cho hoạt động xúc tiến đầu tư
- Các hoạt động tun truyền, quảng bá, giới thiệu về mơi trường, chính
sách, tiềm năng, cơ hội và xúc tiến đầu tư
- Đào tạo, tập huấn, tăng cường năng lực về xúc tiến đầu tư”

1.3.3. Chủ trì tổ chức việc đăng ký đầu tư, thẩm định, cấp, điều
chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc
thẩm quyền
Theo Luật Đầu tư 2005, “UBND cấp tỉnh có thẩm quyền thực hiện việc đăng
ký đầu tư, thẩm tra, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự
án FDI ngồi KCN, KCX KCNC, KKT. Cịn các dự án FDI trong KCN, KCX,
KCNC, KKT do Ban Quản lý KCN, KCX, KCNC, KKT tiếp nhận, cấp, điều chỉnh,
thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư”.


15

Sở Kế hoạch và Đầu tư được UBND giao trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ các dự
án đầu tư mới thuộc thẩm quyền UBND tỉnh quản lý, “kiểm tra tính hợp lệ của hồ
sơ và gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm định của sở, ngành liên quan; trường hợp cần thiết
thì gửi hồ sơ lấy ý kiến các Bộ, ngành liên quan”. Sau khi nhận được văn bản ý kiến
thấm định về những vấn đề của dự án thuộc chức năng quản lý của các Bộ, sở,
ngành, Sở Kế hoạch và Đầu tư lập báo cáo thẩm định, trình UBND cấp tỉnh quyết
định.Theo Luật Đầu tư 2005 quy định: “Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được báo cáo thẩm định, UBND cấp Giấy chứng nhận đầu tư; Đối với dự án
do Ban Quản lý cấp Giấy chứng nhận đầu tư, trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ
ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ban Quản lý tổng hợp ý kiến thẩm định các cơ quan
được hỏi ý kiến để quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư.”

Tuy nhiên, Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 đã có sự thay đổi, “UBND chỉ
thống nhất quản lý, quyết định chủ trương đầu tư, và phân cấp cho Sở Kế hoạch và
Đầu tư có thẩm quyền tiếp nhận, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư đối với các dự án đầu tư ngoài KCN, KCX, KKT hoặc các dự án đầu tư thực
hiện ở trong và ngoài KCN, KCX, và KKT, ở nhiều tỉnh, thành có trụ sở đặt tại địa
phương đó; Ban Quản lý KCN, KCX, KKT có thẩm quyền tiếp nhận, cấp, điều
chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án đầu tư trong KCN,
KCX, KKT.”
Trong quá trình cấp phép, khâu thẩm định dự án FDI là một khâu quan trọng
trong hoạt động QLNN đối với doanh nghiệp FDI. Thông qua thẩm định, cơ quan
QLNN đánh giá được mức độ phù hợp với quy hoạch tổng thể chung của ngành, địa
phương; các mặt lợi hại của FDI nếu triển khai; cũng như thực hiện tốt hơn vai trị
điều tiết vĩ mơ đối với doanh nghiệp FDI trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Và
tương tự đối với cấp địa phương, thông qua thẩm định các địa phương đánh giá
được sự cần thiết của “các dự án đầu tư FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh mình” dựa trên sự phù hợp quy hoạch. Vì vậy, chất lượng của công tác
thẩm định dự án FDI sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả QLNN đối với doanh
nghiệp FDI. Nếu thẩm định dự án FDI khơng tốt thì trong tương lai sẽ có những


16

doanh nghiệp FDI hoạt động kém hiệu quả, nguy cơ các doanh nghiệp giải thể trước
thời hạn rất cao.
Khi thẩm định, Nhà nước và cấp địa phương cần tôn trọng, đảm bảo lợi ích
chính đáng của các doanh nghiệp FDI trong quan hệ “hài hồ với lợi ích chung xã
hội” và cần phải đưa ra các kết luận rõ ràng, chính xác về tồn bộ dự án FDI được
thẩm định xong. Trong quá trình thẩm định, các cơ quan cấp giấp phép thường xem
xét kỹ các nội dung như: tư cách pháp lý, năng lực tài chính của đầu tư nước ngoài;
mức độ phù hợp của mục tiêu dự án FDI với quy hoạch chung; “trình độ kỹ thuật,

cơng nghệ áp dụng phù hợp với địa bàn tiếp nhận đầu tư; hiệu quả kinh tế - xã hội
do doanh nghiệp FDI đi vào hoạt động tạo ra”. Ngoài bốn nội dung trên, ở Việt
Nam các doanh nghiệp FDI trước khi được cấp phép còn phải xem xét đến mức độ
hợp lý của việc sử dụng đất, phương án đền bù giải phóng mặt bằng và vấn đề định
giá tài sản.
Trong quá trình triển khai, thực hiện “dự án được cấp giấy chứng nhận đầu
tư, nhà đầu tư có quyền tiến hành điều chỉnh các nội dung tại giấy chứng nhận đầu
tư đã được cấp”. Việc thẩm định điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư cũng gần như
tương tự như quá trình cấp giấy chứng nhận đầu tư lần đầu.
Trường hợp doanh nghiệp FDI tự chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư hoặc
không thực hiện đúng quy định trong việc triển khai dự án đầu tư, “UBND cấp tỉnh
quyết định chấm dứt hoạt động đầu tư và thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư theo quy
định của Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn”.

1.3.4. Tổ chức thực hiện việc giải phóng mặt bằng cho các dự án
thuộc doanh nghiệp FDI
Cơng tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng lấy quỹ đất sạch cho các dự án
FDI là một trong những khâu vô cùng quan trọng trong việc QLNN đối với các
doanh nghiệp FDI, quyết định việc tiến độ, việc thực thi của mỗi dự án.
“Theo điều 69 Luật đất đai 2013 thì khi cấp tỉnh muốn thu hồi đất thì phải
thực hiện những bước sau:


17

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo
đạc, kiểm đếm.
UBND cấp tỉnh ban hành thông báo thu hồi đất. Thông báo thu hồi đất được
gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất
thu hồi và thơng báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở

UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; UBND
cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm
đếm.
- Lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phối hợp với UBND cấp huyện, xã nơi
có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo
hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng
thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND
cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
trước khi trình UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất.
- Quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư
UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối
hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt
chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư đến từng người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, bố trí
nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ;


18

thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi
cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
UBND cấp tỉnh tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư

theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt cho người có đất
thu hồi.
Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện. Trường
hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành
việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì
Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức
thực hiện việc cưỡng chế.” [18]

1.3.5. Kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động của doanh nghiệp
FDI
Hoạt động của doanh nghiệp FDI được Nhà nước kiểm tra, thanh tra và giám
sát chặt chẽ trên nhiều hình thức và phương pháp. Trên địa bàn tỉnh, UBND cấp
tỉnh thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp FDI
theo các nội dung sau:
“Theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện mục tiêu đầu tư quy định tại Giấy
chứng nhận đầu tư, tiến độ góp vốn và triển khai dự án đầu tư; giám sát, kiểm tra việc
thực hiện các nghĩa vụ tài chính, quan hệ lao động tiền lương, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động và người sử dụng lao động, hoạt động của các tổ chức chính
trị - xã hội, bảo vệ mơi trường sinh thái; chủ trì hoặc tham gia cùng các Bộ, ngành thực
hiện thanh tra các dự án đầu tư trên địa bàn” [1, tr 41]
Các cơ quan nhà nước kiểm tra, thanh tra, giám sát bằng cách thành lập các
đoàn kiểm tra, thanh tra đột xuất, thường xuyên, đoàn thanh tra liên ngành hoặc yêu
cầu báo cáo từ các doanh nghiệp.


19


Mục đích của cơng tác kiểm tra, thanh tra, giám sát là hướng dẫn doanh
nghiệp FDI chấp hành đúng pháp luật, phát hiện những bất hợp lý, sai sót trong quá
trình thực hiện pháp luật để Nhà nước kịp thời có biện pháp hướng dẫn, sửa chữa và
xử lý các sai phạm của doanh nghiệp FDI trên địa bàn.
Đồng thời thông qua việc thanh tra, kiểm tra và giám sát, cịn tạo ra nguồn
thơng tin phản hồi từ doanh nghiệp FDI để các cơ quan QLNN có căn cứ đánh giá
hiệu quả và mức độ hợp lý của hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách đã ban hành,
từ đó kịp thời điều chỉnh hoặc kiến nghị việc điều chỉnh pháp luật, chính sách về
đầu tư nước ngồi theo quy định của pháp luật..
Thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp FDI là hoạt động thường xuyên liên tục
của các cơ quan QLNN, nhưng không can thiệp quá sâu vào hoạt động tác nghiệp,
làm mất quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, Nhà nước thực hiện
chức năng thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với doanh nghiệp FDI không chỉ đảm bảo
sự nghiêm minh của pháp luật mà nhằm tạo điều kiện giúp đỡ và hỗ trợ doanh nghiệp
FDI tháo gỡ khó khăn.
“Ngồi ra, việc thẩm tra để sàng lọc bớt các nhà đầu tư thiếu năng lực là cần
thiết nhưng để quản lý các dự án đầu tư FDI hiệu quả, khâu hậu kiểm sau cấp phép
là quan trọng nhất. Đặc biệt, các văn bản pháp luật sửa đổi trong thời gian tới cần
theo hướng xử lý mạnh tay hơn với các hành vi sai phạm; đồng thời cần quy định cụ
thể hơn trách nhiệm của từng cơ quan QLNN, cơ quan chuyên ngành trong hoạt
động giám sát các dự án đầu tư nước ngoài.”

1.3.6. Giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư; kiến nghị
giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền
Trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp FDI sẽ gặp rất
nhiều khó khăn, vướng mắc do làm việc ở một mơi trường chính trị, luật pháp, kinh
tế khác với quốc gia mình. Điều này địi hỏi cơ quan QLNN đối với các doanh
nghiệp này, mà cơ quan chủ quản tại địa bàn tỉnh là UBND tỉnh, thực hiện việc



20

hướng dẫn, hỗ trợ, giải quyết vướng mắc, yêu cầu của các doanh nghiệp FDI nhằm
giúp cho hoạt động đầu tư được thuận lợi và hiệu quả hơn.
Đồng thời, UBND tỉnh là cơ quan chủ quản tại địa bàn cấp tỉnh, chỉ đạo các
cơ quan chức năng liên quan khác giải quyết khiếu nại trong hoạt động của các
doanh nghiệp FDI trên địa bàn.
Theo Khoản 3, Điều 86, Luật Đầu tư 2005 quy định về khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động đầu tư:
“Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về đầu tư các cấp có trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền giải quyết
của mình; trong trường hợp nhận được khiếu nại, tố cáo khơng thuộc thẩm quyền
của mình thì có trách nhiệm chuyển kịp thời đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
giải quyết và thơng báo bằng văn bản cho người khiếu nại, tố cáo biết.” [4]

1.3.7. Đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI trên
địa bàn tỉnh
Bên cạnh việc hỗ trợ, hướng dẫn cũng như kiểm tra, giám sát đối với các
doanh nghiệp FDI thì UBND cấp tỉnh cần phải đánh giá hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp FDI trên địa bàn để có những định hướng và giải pháp tiếp theo trong
công tác QLNN về FDI. Theo quy định tại điều 69, Luật Đầu tư số Số:
67/2014/QH13, hoạt động đánh giá đầu tư gồm các nội dung: “đánh giá dự án đầu
tư; đánh giá tổng thể đầu tư”:
“Trách nhiệm đánh giá đầu tư của cơ quan QLNN về đầu tư, cơ quan QLNN
chuyên ngành thực hiện đánh giá tổng thể đầu tư và đánh giá dự án đầu tư thuộc
phạm vi quản lý. Cơ quan đăng ký đầu tư đánh giá dự án đầu tư thuộc thẩm quyền
cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Như vậy, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm
đánh giá và tổng hợp đánh giá tổng thể tình hình đầu tư trong đó có FDI và đánh
giá các dự án FDI trên địa bàn tỉnh.
Nội dung giám sát, đánh giá dự án FDI của UBND tỉnh: mục tiêu, sự phù

hợp của dự án với quy hoạch và chủ trương đầu tư đã được cấp có thẩm quyền chấp


21

thuận, tiến độ đầu tư, việc thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường, sử dụng đất
đai, tài nguyên khác theo quy định của pháp luật;
Nội dung giám sát, đánh giá tổng thể FDI của UBND tỉnh:
- Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành và thực hiện các quy định của pháp luật về đầu tư;
- Tình hình thực hiện các dự án FDI;
- Đánh giá kết quả thực hiện FDI tại địa phương, các dự án đầu tư theo phân
cấp;
- Kiến nghị cơ quan QLNN về đầu tư cấp trên về kết quả đánh giá đầu tư và
biện pháp xử lý những vướng mắc và vi phạm pháp luật về đầu tư.”
Công tác đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại địa bàn
cấp tỉnh cần được tích cực thực hiện một cách hiệu quả nhằm đánh giá những tác
động tích cực, tiêu cực và “hiệu quả kinh tế vĩ mô của hoạt động của các doanh
nghiệp FDI tới sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng như cả nước”.
[20]

1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc đối với các doanh
nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh
1.4.1. Các yếu tố bên ngoài tỉnh
Đây là những yếu tố khách quan bên ngồi tỉnh có ảnh hưởng trực tiếp cơng
tác QLNN đối với các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh.

1.4.1.1. Tình trạng của nền kinh tế
“Bất cứ nền kinh tế nào cũng có chu kỳ và có sức lan tỏa ảnh hưởng tới các
nền kinh tế nước khác, đặc biệt trong thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu mạnh mẽ

như hiện nay. Mỗi giai đoạn nhất định của chu kỳ nền kinh tế thế giới”, trong khu
vực hay mỗi quốc gia, các doanh nghiệp và Nhà nước sẽ có những quyết định phù
hợp để tận dụng cơ hội hoặc phịng tránh những thách thức. Do vậy tình trạng nền
kinh tế, đặc biệt là giai đoạn bùng nổ hoặc giai đoạn suy thoái, sẽ ảnh hưởng tới


22

quyết định đầu tư của các doanh nghiệp FDI, cũng như ảnh hưởng tới quyết định
“chiến lược, kế hoạch, chính sách về đầu tư” của mỗi quốc gia, mỗi địa phương .

1.4.1.2. Luật pháp, chính sách về đầu tư của Trung ương
Luật pháp và chính sách cho cấp Trung ương ban hành thường áp dụng trên
phạm vi cả nước, nên các doanh nghiệp cũng như các cơ quan nhà nước dù ở địa
phương nào sẽ bắt buộc phải tuân theo các luật pháp và chính sách đó.
Yếu tố này thường phân tích các khía cạnh sau:
+ Các văn bản pháp luật liên quan: “Luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật lao
động”, ...càng chặt chẽ, hợp lý, theo thông lệ quốc tế, có văn bản hướng dẫn rõ ràng
thì “cơng tác QLNN đối với các doanh nghiệp” FDI càng thuận lợi.
+ Chính sách: “Các chính sách của Trung ương sẽ có ảnh hưởng tới doanh
nghiệp. Chúng có thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp. Có thể kể
đến các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách thương mại, chính sách
phát triển ngành, phát triển kinh tế, các chính sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ
người tiêu dùng...” Các chính sách áp dụng chung cho cả nước, do đó sẽ ảnh hưởng
tới hoạt động xúc tiến đầu tư nói riêng và cơng tác QLNN nói chung đối với doanh
nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh.

1.4.1.3. Cơ chế phân cấp quản lý FDI của Trung ương
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu thu hút đầu tư nước ngoài, việc thực hiện phân
cấp QLNN đối với hoạt động FDI là một sự thay đổi có tính quyết định trong việc

điều chỉnh hệ thống QLNN tại Việt Nam. Cơ chế này nhằm giảm thiểu việc “quyền
lực tập trung quá mức vào một cơ quan quản lý duy nhất, dễ dẫn đến tình trạng
quan liêu, độc đốn, đồng thời làm tăng tính năng động và mức độ tự chủ của các
địa phương” trong việc quản lý đối với hoạt động FDI. Trong việc phân cấp có hai
khía cạnh, đó là: “cấp được trao quyền gia tăng thẩm quyền và cấp được ủy quyền
thực hiện những nhiệm vụ chưa từng có trước đây”. Tuy nhiên, việc phân cấp
không hiệu quả sẽ dẫn đến sự lạm quyền hoặc bỏ trống, chồng chéo chức năng của


23

các địa phương nhằm đạt được lợi ích của mình mà ảnh hưởng hưởng tới lợi ích
quốc gia.

1.4.1.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ở nước ta, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra
những thế và lực mới cả bên trong lẫn bên ngoài để chúng ta bước vào một thời
kỳ phát triển mới. Vị thế Việt Nam ngày càng được củng cố và khẳng định trên
chính trường quốc tế và cũng là tiền đề cần thiết cho công cuộc phát triển đất
nước. Quan hệ đối ngoại của nước ta hiện nay với các quốc gia, vùng lãnh thổ và
các tổ chức quốc tế đang được mở rộng hơn bao giờ hết.
Những năm qua, việc thực hiện đường lối đối ngoại với các chính sách
“hội nhập kinh tế quốc tế” trên tinh thần chủ động, sẵn sàng hội nhập đã góp
phần đưa Việt Nam lên một vị thế mới trên trường quốc tế. Một mặt, Việt Nam
thực hiện các chính sách mở cửa, nhiều ưu đãi đối với doanh nghiệp nước ngoài
nhằm thu hút lượng vốn FDI ồ ạt đổ vào các địa phương, giúp các địa phương
tiếp thu những thành tựu mới về khoa học, công nghệ cũng như kinh nghiệm và
kỹ năng quản lý; Mặt khác, Việt Nam chủ động phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực tại địa phương từng bước thích ứng với điều kiện và mơi trường
mới tạo tiền đề để tham gia một cách tích cực hơn, chủ động hơn trong thời kỳ

hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Như vậy, việc hội nhập kinh tế quốc tế đã
tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi trong công tác quản lý các doanh nghiệp FDI tại các
địa phương.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đưa lại Việt Nam khơng ít khó
khăn, thách thức. Chính sách mở cửa tạo môi trường cạnh tranh khốc liệt sẽ gây sức
ép lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, anh hưởng tới tình hình kinh tế
trong nước.
Do vậy, “việc tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức từ hội nhập kinh tế quốc
tế” là sự cần thiết mà các cơ quan QLNN cần chú trọng để tăng cường cơng tác
quản lý của mình.


24

1.4.1.5. Sự cạnh tranh giữa các địa phương trong thu hút vốn FDI
“Nguồn vốn FDI đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự phát triển kinh
tế - xã hội chung của mỗi địa phương, do vậy không thể tránh khỏi việc cạnh
tranh nhằm thu hút FDI giữa các tỉnh, thành phố”. Ngoài việc tận dụng các lợi
thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mình, mỗi địa phương phải xây
dựng các chính sách ưu đãi nhằm tăng cường thu hút các nhà đầu tư. Đặc biệt, từ
khi được phân cấp quản lý, các địa phương đã có quyền tự quyết định các chính
sách ưu đãi đặc biệt hấp dẫn nhằm cạnh tranh với những địa phương khác. Bên
cạnh đó, chỉ số PCI của mỗi địa phương cũng là một yếu tố quan trọng quyết
mức độ hấp dẫn các nhà đầu tư. Chỉ số PCI càng cao sẽ tạo mơi trường đầu tư
thơng thống, thu hút ngày càng nhiều hơn các doanh nghiệp FDI . Điều này tạo
động lực cho các địa phương tích cực cải thiện, nâng cao chỉ số PCI của mình.

1.4.2. Các yếu tố bên trong tỉnh
Bên cạnh các yếu tố bên ngoài tỉnh, cịn có các yếu tố xuất phát từ bên
trong địa bàn tỉnh có ảnh hưởng đến cơng tác QLNN đối với các doanh nghiệp

FDI trên địa bàn.

1.4.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
“Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của mỗi địa phương là một trong
những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng tới cơng tác QLNN đối với các doanh
nghiệp FDI trên địa bàn đó, nhất là trong hoạt động xúc tiến, kêu gọi các nhà đầu
tư nước ngồi.” Một địa phương có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thơng,
vận chuyển với các địa phương, các quốc gia khác là một lợi thế so sánh hấp dẫn
các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các điều kiện tự nhiên như khống sản, đất, rừng,
nước, biển, khí hậu hay khơng gian của địa phương nhận đầu tư không những
ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố đầu vào mà cịn quyết định tính chất đầu ra
của các doanh nghiệp. Do vậy, yếu tố vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của địa
bàn nhận đầu tư luôn được các doanh nghiệp FDI quan tâm hàng đầu trước khi
đưa ra quyết định đầu tư.


25

1.4.2.2. Thủ tục hành chính
“Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều
kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công
việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức”. Đây là công việc đầu tiên mà nhà đầu
tư cần phải làm khi quyết định đầu tư. Thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp
FDI bao gồm các khâu như thủ tục đất đai, thủ tục xét duyệt cấp giấy phép đầu tư,
thủ tục thẩm định dự án, thủ tục sau cấp phép khác… Sự linh hoạt, minh bạch, dể
hiểu, dễ tiếp cận thơng tin trong các thủ tục hành chính sẽ tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục đầu tư, nhất là đối với các doanh nghiệp FDI
chưa nắm rõ các quy định, pháp luật của nước sở tại. Từ đó giúp phía cơ quan nhà
nước quản lý các doanh nghiệp FDI một cách dễ dàng và thuận tiện hơn. Ngược lại,
với các quy trình, thủ tục quá rườm rà, phải qua nhiều phòng ban, nhiêu khê sẽ ảnh

hưởng tới hiệu quả trong công tác QLNN.
1.4.2.3. Năng lực đội ngũ cán bộ công chức
Đội ngũ cán bộ, công chức chịu trách nhiệm QLNN đối với các doanh



nghiệp FDI tại địa phương là những người trực tiếp thực hiện việc hướng dẫn, kiểm


tra, giám sát, xử lý các vấn đề trong phạm vi QLNN đối với các doanh nghiệp FDI.
Năng lực, trình độ, phẩm chất của các cán bộ, công chức là một trong những yếu tố
trực tiếp ảnh hưởng đến việc thực hiện các nội dung QLNN đối với doanh nghiệp
FDI trên địa bàn. Do đó, độ ngũ “cán bộ công chức làm công tác quản lý” địi hỏi
phải có năng lực, trình độ chun mơn cao, có đạo đức, phẩm chất tốt và am hiểu
các văn bản chính sách pháp luật của nhà nước, có kinh nghiệm thực tế nhằm góp
phần thành cơng vào việc quản lý hiệu quả các doanh nghiệp FDI trên địa bàn.

1.4.2.4. Vận hành hệ thống thông tin quốc gia về FDI
“Hệ thống thơng tin quốc gia về đầu tư nước ngồi” được xây dựng nhằm
chuẩn hóa và tin học hóa các nghiệp vụ quản lý hoạt động FDI đồng thời thiết lập
một kho dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp, dự án FDI và dự án đầu tư của Việt Nam
ra nước ngoài, đồng thời thiết lập hệ thống thu thập, cập nhật thông tin về hoạt động


×