Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.34 KB, 132 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng
trường THPT tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk”, tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Khoa Quản lý Giáo dục, Ban giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk , Lãnh
đạo và giáo viên ba trường: THPT Buôn Ma Thuột, THPT Hồng Đức, THPT Lê Quý
Đôn và đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Hà Nhật Thăng.
Tôi xin biết ơn đến tất cả các thầy, cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù, tôi đã cố gắng hết sức nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Kính mong Hội đồng Khoa học lượng thứ.
Tác giả
Phạm Văn Sinh
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chuyên môn: CM
Cơ sở vật chất CSVC
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá CNH-HĐH
Giáo dục và Đào tạo GD&ĐT
Hiệu trưởng HT
Hoạt động dạy học HĐDH
Hội đồng nhân dân HĐND
Khoa học - Công nghệ KHCN
Quản lý giáo dục QLGD
Quản lý hoạt động dạy học QL HĐDH
Sách giáo khoa SGK
Trung học Phổ thông THPT
Trung học Phổ thông THCS
Phương pháp dạy học PPDH
Ủy ban nhân dân UBND
Công nghiệp xây dựng CNXD
Cán bộ quản lý CBQL


Cán bộ - Giáo viên CB – GV
Trung ương TW
Xã hội hóa giáo dục XHHGD
MỤC LỤC
Tác giả 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Đội ngũ HT 3 trường THPT được nghiên cứu: 56
Bảng 2.2: Đội ngũ cán bộ quản lý các trường THPT được nghiên cứu năm học (2011 -
2012) 57
Bảng 2.3: Đội ngũ tổ trưởng CM các trường được nghiên cứu 57
Bảng 2.4: Đội ngũ GV các trường THPT được nghiên cứu năm học (2011 - 2012) 58
Bảng2. 5: Kết quả xếp loại học lực của HS năm 2011-2012 59
Bảng 2.6: Kết quả thi HS giỏi cấp tỉnh ( Năm học 2011-2012) 60
Bảng 2.7: HT các trường THPT nhận thức về tầm quan trọng của các nội dung QL HĐDH
trong trường THPT 62
Bảng 2.8: Tự đánh giá của HT về mức độ thực hiện QL chương trình giảng dạy 63
Bảng 2.9: Tự đánh giá của HT về mức độ thực hiện biện pháp QL việc soạn bài và chuẩn
bị lên lớp của GV 64
Bảng 2.10: Tự đánh giá của HT về mức độ thực hiện biện pháp QL giờ lên lớp, nền nếp
giảng dạy và dự giờ của GV 65
Bảng 2.11: Tự đánh giá của HT về mức độ thực hiện các biện pháp QL về kiểm tra, thi cử
của GV 66
Bảng 2.12: Tự đánh giá của HT về mức độ thực hiện biện pháp QL sử dụng và bồi dưỡng
GV 67
Bảng 2.13: Nhận thức của cán bộ QL cấp dưới và GV về tầm quan trọng của các nội dung
QL HĐDH của các HT: 68
Bảng 2.14: Đánh giá của cán bộ QL cấp dưới và GV về các biện pháp QL của HT trong
việc thực hiện chương trình giảng dạy 69

Bảng 2.15: Cấp dưới đánh giá HT về mức độ thực hiện các biện pháp QL soạn bài và
chuẩn bị lên lớp. 70
Bảng 2.16: cấp dưới đánh giá HT về mức độ thực hiện các biện pháp QL thực hiện giờ
lên lớp, nền nếp giảng dạy và dự giờ 71
Bảng 2.17:Cán bộ QL cấp dưới và GV đánh giá HT về các biện pháp kiểm tra HĐDH và
thi cử 73
Bảng 2.18:Cán bộ QL cấp dưới và GV đánh giá HT về mức độ thực hiện các biện pháp sử
dụng và bồi dưỡng đội ngũ GV 73
Bảng 2.19: Đánh giá về mối quan hệ giữa HT với các cán bộ QL cấp dưới (phó HT, Tổ
trưởng CM) 75
Bảng 2.20: Cán bộ QL cấp dưới và GV tự đánh giá việc họ thực hiện các biện pháp QL
HĐDH của HT 77
Bảng2.21: Thực trạng GD các môn ở trường THPT 78
Bảng 2.22: Tổng hợp chung về đánh giá mức độ nhận thức tầm quan trọng của các nội
dung QL HĐDH của HT trường THPT 80
Bảng 2.23: Đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp QL của HT đối với nội dung quản lý
chương trình giảng dạy 83
Bảng 2.24: Tổng hợp đánh gía mức độ thực hiện các biện pháp QL của HT đối với nội
dung quản lý soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp của GV. 84
Bảng 2.25: Tổng hợp đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp QL của HT đối với nội
dung quản lý thực hiện giờ lên lớp, nền nếp giảng dạy, dự giờ. 85
Bảng 2.26: Tổng hợp đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp QL của HT đối với nội
dung quản lý các biện pháp kiểm tra, thi cử. 86
Bảng 2.27: Tổng hợp đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp QL của HT đối với nội
dung quản lý sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ GV 87
Bảng 3.1. Kết quả đánh giá mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất:
115
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1 : Mối liên hệ giữa các chức năng 39
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ so sánh mức độ thực hiện 88

Sơ đồ 3.1 : Mối quan hệ giữa các biện pháp QL HĐDH 114
Biểu đồ 3.1. Quan hệ tính cần thiết và khả thi 116
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI có nhiều công trình nghiên cứu về
giáo dục của các nước phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc Từ đó, UNESCO đi
đến khẳng định “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Vì thế, nhiều nước
cạnh tranh nhau về giáo dục và diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều quốc gia coi việc
phát triển giáo dục là “chìa khoá vàng”, để đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước, coi
đây là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của một Quốc gia.
Đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến phát triển giáo
dục. Trong công cuộc đổi mới, để tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, Đảng ta đã xác định: “Cùng với KHCN, giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã khẳng định:
“GDĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam. Phát triển GDĐT cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu; đầu tư cho GDĐT là đầu tư phát triển. Ðổi mới căn bản và toàn diện
GDĐT theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Ðẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho
mọi công dân được học tập suốt đời”.
GDĐT là nền móng để tạo ra nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu
cầu đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước. Vì thế, mục tiêu và nhiệm vụ của ngành
Giáo dục - Đào tạo là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Việc “bồi dưỡng nhân tài” là một trong ba nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi ba bậc học:
phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học phải chú trọng,
trong đó cấp học THPT là cấp học tiền đề phát hiện và bồi dưỡng để tạo nguồn cho
các bộ phận giáo dục khác thực hiện nhiệm vụ này.
Chiến lược phát triển Giáo dục 2011 - 2020 của ngành GDĐT cũng đã đề ra

mười một nhóm giải pháp lớn để đổi mới và phát triển giáo dục, trong đó "đổi mới
1
phương pháp giảng dạy và công tác QLGD" là giải pháp đột phá.
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, khó về giao thông, nghèo
về tài nguyên và tiềm lực, kinh tế chậm phát triển, nguồn nhân lực có trình độ cao
còn ít, nhân tài hiếm và khó thu hút. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh, để có
thể đi tắt, đón đầu, ngày càng rút ngắn khoảng cách với các tỉnh miền xuôi, hơn bao
giờ hết, Đắk Lắk cần có một nguồn nhân lực có trình độ và một đội ngũ nhân tài
ngày càng đông đảo để phục vụ nhu cầu phát triển nhanh và bền vững. Chính vì
vậy, nhiệm vụ của ngành GD&ĐT Đắk Lắk nói chung và của các trường THPT trên
địa bàn thành phố nói riêng, hơn bao giờ hết đang đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá Đắk Lắk.
Trong những năm gần đây, giáo dục Đắk Lắk đã có nhiều bước tiến trong
quá trình đổi mới. Tuy nhiên, ngành giáo dục Đắk Lắk vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu ngày càng cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Đặc biệt việc
đổi mới quản lý của các nhà trường trong địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột chưa
đáp ứng được yêu cầu nâng cao chiến lược phát triển giáo dục.Công tác quản lý
hoạt động dạy học của HT trong các nhà trường còn chậm đổi mới, nghiệp vụ quản
lý ở trình độ còn thấp so với yêu cầu thực tiễn. Đó là một trong những tồn tại cần
nghiên cứu để nâng cao chất lượng giáo dục ở thành phố.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn công tác quản lý của HT và đề xuất
các biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường là
rất cần thiết trong điều kiện hiện nay đối với ngành giáo dục Đắk Lắk nói chung,
của Tp. Buôn Ma Thuột nói riêng. Riêng đối với cán bộ QLGD, nhất là người trực
tiếp quản lý là HT trong mỗi nhà trường THPT thì việc nghiên cứu thực trạng, tìm
ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học của chính nhà trường mình
đang trực tiếp quản lý là cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “ Quản lý hoạt động
dạy học của HT trường THPT tại Thành phố Buôn Ma Thuột, Tỉnh Đắk Lắk”, làm
luận văn tốt nghiệp cao học quản lý.

2
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề xuất các biện pháp về quản lý dạy học của HT, nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động dạy học trong giai đoạn hiện nay của các trường THPT
tại TP Buôn Ma Thuột, Tỉnh Đắk Lắk.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học của HT ở một số các trường THPT tại
TP Buôn Ma Thuột, Tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của HT các trường THPT tại TP Buôn
Ma Thuột, Tỉnh Đắk Lắk.
4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của HT
ở 3 trường THPT của TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk: Trường THPT Buôn Ma
Thuột, Trường THPT Lê Quý Đôn, Trường THPT Hồng Đức.
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Hoat động dạy học là một quá trình tổ chức, kiểm tra, đánh giá bị chi phối
bởi nhiều yếu tố. Muốn nâng cao chất lượng dạy học thì HT nhà trường phải có
những biện pháp quản lý tác động vào các khâu, các yếu tố, các lực lượng tham gia
vào quá trình đó. Bởi vậy, nếu xác được hệ thống biện pháp dựa trên quy luật của
hoạt động dạy học và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn thì hiệu quả quản lý hoạt
động dạy học mới góp phần nâng cao chất lượng dạy học .
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu lý luận quản lý hoạt động dạy của HT trường THPT
- Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học của HT các trường THPT
ở Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk lắk.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học của HT để nâng cao
chất lượng dạy học ở trường THPT trong giai đoạn hiện nay.
- Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.

3
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các công trình khoa học của những người đi trước, các tài liệu
các văn bản, tài liệu khoa học, các báo cáo tổng kết, các đề tài khoa học khác để tìm
hiểu các nội hàm các khái niệm, các vấn đề kiến thức lý luận liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1.Tổng hợp - phân tích
Nghiên cứu kế hoạch quản lý của HT, tổng kết của nhà trường, giáo án các
biện pháp quản lý hoạt động dạy học của các trường trung học phổ thông: Buôn Ma
Thuột, Hồng Đức, Lê Quý Đôn để đánh giá, tổng kết nhằm rút ra các kinh nghiệm
và đề ra các biện pháp quản lý hiệu quả hơn.
7.2.2. Phương pháp điều tra
Xây dựng phiếu điều tra với những câu hỏi để điều tra thực trạng quản lý
hoạt động dạy học của HT trường và kiểm nghiệm tính cấp thiết và khả thi của
những biện pháp đề xuất.
Thực hiện bằng phiếu trưng cầu ý kiến, thông qua việc xây dựng hệ thống câu
hỏi bằng phiếu điều tra đối với khách thể nghiên cứu. Phương pháp này nhằm nghiên
cứu thực trạng quản lý hoạt động dạy học của HT các trường được nghiên cứu.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
Học tập từ các bài giảng của các thầy giáo, cô giáo, từ cán bộ quản lý có kinh
nghiệm, trao đổi ý kiến với các chuyên gia để sửa đổi bổ sung cho đề tài đạt kết quả tốt.
Phương pháp này còn dùng dể trưng cầu ý kiến về mức độ cần thiết và tính khả thi của
các biện pháp đề xuất. Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn.
7.2.4. Phương pháp tọa đàm
Trao đổi với HT, phó HT, các tổ trưởng CM, các GV có kinh nghiệm, GV
dạy giỏi về biện pháp QL HĐDH của HT.
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm HĐDH
- Nghiên cứu sản phẩm HĐDH của GV: Hồ sơ, giáo án, đồ dùng giảng dạy,
kết quả học tập của HS

4
- Nghiên cứu sản phẩm quản lý của HT nhà trường: Kế hoạch năm học, kế
hoạch CM, phân công giảng dạy
7.2.6. Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập kinh nghiệm quản lý CM của HT ở các trường THPT trong những
năm gần đây qua các báo cáo tổng kết.
Tổng kết kinh nghiệm từ sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý hoạt
động dạy học của HT trường THPT, rút ra thực trạng công tác quản lý hoạt động
dạy học của HT các trường THPT Thành phố Buôn Ma Thuột, đồng thời đề xuất
những biện pháp mới cho phù hợp với thực tế của địa phương và thực tế giáo dục
THPT hiện nay.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu
7.3.1. Phương pháp thống kê
Nhằm mục đích, xử lý các số liệu điều tra qua các phiếu trưng cầu ý kiến, phân
tích kết quả nghiên cứu, đánh giá được mức độ tin cậy của phương pháp điều tra.
7.3.2. Phương pháp tính điểm trung bình, hệ số tương quan thứ bậc
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một cách phức hợp các
phương pháp nêu trên.
8. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Xác định những yếu tố ảnh hưởng tới việc quản lý hoạt động dạy học của HT.
- Nêu ra thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học của HT các trường
PTTH trên địa bàn Tp. Buôn Ma Thuột.
- Xây dựng các biện pháp để thực hiện hiệu quả công tác quản lý hoạt động
dạy học của HT các trường PTTH trên địa bàn Tp. Buôn Ma Thuột.
9. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung đề tài có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu quản lý hoạt động dạy học của HT
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học của HT trường THPT ở
Tp. Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk

- Chương 3: Đề xuất biện pháp quản lý dạy học của HT trường THPT ở Tp.
Buôn Ma Thuột
5
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG THPT
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động dạy học
Trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới quản lý QLGD THPT là một việc cấp
bách và cần thiết. Đổi mới giáo dục, trước hết là cải tiến về QLGD nói chung và
quản lý hoạt động dạy học nói riêng đang trở thành vấn đề thu hút không chỉ riêng
đối với nhà nghiên cứu giáo dục, mà còn thu hút sự quan tâm của nhiều người quan
tâm đến sự nghiệp trồng người.
Từ thời cổ đại, một triết gia nổi tiếng, một nhà giáo dục lỗi lạc của Trung
Quốc là Khổng Tử (551 - 479 TCN) đã cho rằng: Đất nước muốn phồn vinh, yên
bình và thịnh vượng thì người quản lý cần chú trọng đến ba yếu tố là Thứ (dân
đông), Phú (dân giàu), Giáo (dân được giáo dục). Khổng Tử cho rằng giáo dục là
một thành tố không thể thiếu được của mỗi dân tộc, của mỗi quốc gia; Ông cho rằng
việc giáo dục là cần thiết cho mỗi người “Hữu giáo vô loại”. Về phương pháp giáo
dục ông coi trọng việc tự học, tự rèn luyện, tu thân phát huy mặt tích cực, sáng tạo,
năng lực nội sinh, dạy học sát đối tượng, cá biệt hoá đối tượng. Kết hợp học với
thực hành, lý thuyết với thực tiễn, phát triển động cơ học tập đúng đắn, tạo hứng thú
và ý chí quyết tâm của người học. Đến nay, phương pháp giáo dục của Khổng Tử
vẫn còn nguyên giá trị, là bài học lớn cho các nhà trường trong công tác GDĐT của
mình.
Các nước phương Tây như Mỹ, Anh, Pháp, Phần Lan hay các nước Đông Á
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo đều rất quan tâm đến giáo dục, coi
đó là động lực để phát triển kinh tế, xã hội. Các quốc gia này lấy nguồn nhân lực
làm yếu tố quyết định trong việc thực hiện CNH - HĐH đất nước. Việc gia tăng sức
mạnh nguồn lực con người được các quốc gia này thực hiện thông qua các cuộc
cách mạng trong GDĐT.

Các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục Liên Xô trong những công trình của
mình cho rằng: “Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào
6
việc tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác hoạt động của đội ngũ GV”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất đề cao vai trò của giáo dục. Trong
thư gửi các thầy cô giáo, các cán bộ QLGD và các em HS nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người viết: “Non sông Việt Nam có
được vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không chính một phần lớn ở công học tập
của các em”.
Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là “Quốc sách hàng đầu” và “Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển”. Toàn xã hội đều chăm lo cho sự nghiệp giáo dục vì
giáo dục tạo nên nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế và xã hội.
Trong những năm vừa qua, nhiều nhà sư phạm ở nước ta đã tiến hành nghiên
cứu một cách toàn diện và sâu sắc về các vấn đề vị trí, vai trò của việc tổ chức quá
trình dạy học, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng dạy học trên lớp đối với hiệu
quả giáo dục. Những ưu điểm và nhược điểm của hình thức tổ chức dạy học trên
lớp, bản chất và mối liên hệ giữa các HĐDH của GV và học tập của HS, vai trò của
người dạy và người học; đổi mới nội dung và cách tổ chức thực hiện các hình thức
dạy học trên lớp (Hà thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Quang, Hoàng Đức
Nhuận, Nguyễn Cảnh Toàn, Phạm Văn Hoàn, Nguyễn Kỳ, Thái Duy Tuyên, Trần
Kiều, Hồ Ngọc Đại )
Trong những năm gần đây, trước nhiệm vụ đổi mới GDĐT nói chung và đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học nói riêng, nhiều nhà nghiên cứu trong đó có
những nhà giáo dục học, tâm lý học đã đi sâu vào nghiên cứu vấn đề về đổi mới nội
dung dạy học theo hướng nâng cao tính hiện đại và gắn khoa học với thực tiễn sản
xuất và đời sống, lấy HS làm trung tâm trong HĐDH và học tập (Trần Hồng Quân,
Phạm Minh Hạc, Phan Trọng Luận, Vũ Văn Tảo, Phạm Viết Vượng, Đặng Thành
Hưng…).
Như vậy, vấn đề nâng cao chất lượng dạy học đã được các nhà nghiên cứu

trong và ngoài nước quan tâm trong những năm cuối của thế kỷ XX; khi xã hội
bước vào giai đoạn phát triển vượt bậc thì vấn đề này càng được quan tâm của toàn
7
xã hội đặc biệt là các nhà nghiên cứu giáo dục và QLGD. Tựu chung, tất cả đều
khẳng định vai trò quan trọng trong công tác QLGD nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy và học tập ở tất cả các cấp học và bậc học. Đây cũng chính là tư tưởng
mang tính chiến lược về phát triển GD & ĐT của Đảng ta “Đổi mới mạnh mẽ nội
dung, phương pháp và QLGD đào tạo”.
Tỉnh Đắk Lắk trong những năm gần đây đã rất quan tâm đến chất lượng công
tác giảng dạy của GV ở tất cả các cấp học, bậc học trong đó có giáo dục THPT.
Ngành giáo dục đã thường xuyên tổ chức bồi dưỡng để nâng cao trình độ CM,
nghiệp vụ cho GV. Hằng năm, ngành giáo dục đã tổ chức hội thi GV giỏi cấp
trường, cấp tỉnh để khuyến khích tinh thần học hỏi, giao lưu, nâng cao trình độ CM
cho GV đồng thời cũng là để tôn vinh các GV có nhiều cố gắng và đóng góp cho sự
nghiệp giáo dục THPT của tỉnh. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng đại trà của các
GV thì rất cần có các biện pháp quản lý hữu hiệu về hoạt động dạy học của các nhà
quản lý ở các trường THPT.
Quản lý hoạt động dạy học là hoạt động trung tâm của người HT ở các nhà
trường, đồng thời cũng là quản lý cơ bản và quan trọng nhất trong công tác quản lý
trường học. Vì vậy, vấn đề quản lý hoạt động dạy học được các nhà nghiên cứu, các
nhà QLGD đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học của mình. Giáo trình
giảng dạy của Trường ĐHSP Hà Nội, Học viện QLGD Bộ GD & ĐT cũng đã có
các công trình nghiên cứu và giảng dạy về chuyên đề Quản lý hoạt động dạy học
của người HT. Các luận văn thạc sĩ chuyên ngành QLGD cũng đã có một số tác giả
nghiên cứu về đề tài này. Các công trình nghiên cứu, các luận văn thạc sĩ này chủ
yếu mang tính lý luận vĩ mô về quản lý hoạt động dạy học của người HT ở các
trường THPT, giải quyết vấn đề của các trường cụ thể mang đặc trưng từng vùng
miền nhất định.
Riêng nghiên cứu vấn đề này tại địa bàn TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
thì chưa có tác giả nào đề cập, vì vậy vấn đề chúng tôi đặt ra ở luận văn này là tìm

hiểu thực trạng quản lý hoạt động dạy học của người HT các trường THPT thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và từ đó đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt
8
động dạy học của HT nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong các trường THPT.
1.2. Một số khái niệm công cụ:
1.2.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống con
người. Ở đâu con người tạo nên nhóm xã hội là ở đó cần sự quản lý, bất cứ là nhóm
đó chính thức hay không chính thức, là nhóm nhỏ hay nhóm lớn, là nhóm bạn bè,
gia đình hay các đoàn thể, tổ chức xã hội, bất kể mục đích, nội dung hoạt động của
nhóm đó là gì.
Khái niệm quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lãnh vực khoa học,với
tầm quan trọng như vậy nên đã hình thành nên cả một ngành khoa học- Khoa học
quản lý. Do vậy có rất nhiều định nghĩa về khái niệm quản lý. Các nhà nghiên cứu
nhiều góc độ tiếp cận để có những quan niệm khác nhau về khái niệm này.
- Dưới góc độ khái quát nhất, quản lý là vạch ra mục tiêu cho một bộ máy,
lựa chọn phương tiện, điều kiện tác động đến bộ máy để đạt được mục tiêu.
- Dưới góc độ kinh tế thì quản lý là tính toán sử dụng hợp lý các nguồn lực
nhằm đạt mục tiêu tối ưu.
- Dưới góc độ chính trị -xã hội thì quản lý kết hợp giữa tri thức và lao động
- Dưới góc độ hành động thì quản lý là quá trình điều khiển của chủ thể quản
lý để đạt được mục tiêu đề ra.
Hoạt động lao động là khá phức tạp, phong phú và đa dạng, quản lý là một
hiện tượng lịch sử, xã hội. Có nhiều nhà nghiên cứu về quản lý đã nêu lên các khía
cạnh khác nhau của khái niệm “Quản lý”.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng (NXB GD-1998): Quản lý là tổ chức,
điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan.
Theo H.Koontz khẳng định: Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo đảm
phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm
hay tổ chức.

Theo quan điểm điều khiển học: Quản lý là chức năng của hệ có tổ chức với
bản chất khác nhau (sinh học, xã hội, kỹ thuật) nó bảo toàn cấu trúc các hệ, duy trì
9
chế độ hoạt động.
Theo C.Mac: Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào thực hiện ở
một quy mô tương đối lớn đều cần ở chừng mực nhất định đến sự quản lý. Quản lý
xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình thành những chức năng
chung xuất hiện trong toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của bộ phận
riêng lẻ của nó.
Theo Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức có định
hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về mặt văn hoá, chính trị, kinh tế,
xã hội bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp
và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của
đối tượng”.
Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định hướng,
quá trình có mục tiêu, quản lý là một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống
nhằm đạt được mục tiêu nhất định”.
- Theo Ômaror( Liên Xô) -1983: Quản lý là tính toán sử dụng hợp lý các
nguồn lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ của sản xuất và dịch vụ với hiệu quả kinh
tế tối ưu.
- Theo W. Taylor - Người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong từng
bộ phận của nó, nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa thời gian
lao động, sử dụng hợp lý nhất các công cụ và phương tiện lao động nhằm tăng năng
suất lao động thì “ Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và
làm cái gì đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất. Quản lý là các hoạt
động được thực hiện nhằm bảo vệ sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của
người khác.
- Theo Bùi Trọng Tuân – Nguyễn Kì: “Quản lý là chức năng của những hệ
thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (kỹ thuật, sinh vật, xã hội) , thực
hiện những chương trình mục đích hoạt động” .

- Trong sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường thì Quản lý được
hiểu là đảm bảo hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của
10
hệ thống và môi trường, là sự chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với
hoàn cảnh mới .
- “ Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người,
thành viên của hệ, làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt mục đích dự kiến”.
- Tác giả Trần Kiểm cho rằng :“Quản lý nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều
người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội”
- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người cộng
sự khác nhau cùng chung tổ chức.
- Quản lý là những tác động có mục đích lên những tập thể người, thành tố
cơ bản của hệ thống xã hội.
Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến, nhưng chưa có một định
nghĩa thống nhất, song đều có điểm chung ở bản chất của hoạt động quản lý đó là
sự tác động một cách có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu mong muốn bằng kế hoạch
hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Tất cả những định nghĩa về quản lý nêu trên có thể rút ra dấu hiệu chung là:
+ QL bao giờ cũng là một tác động có hướng đích, có mục tiêu xác định.
+ QL thể hiện mối quan hệ giữa bộ phận chủ thể quản lý và đối tượng quản
lý, đây là quan hệ ra lệnh-phục tùng, không đồng cấp, có tính bắt buộc, sự tác động
đó có ý nghĩa như sự điều khiển
+ QL bao giờ cũng là quản lý con người.
+ QL là sự tác động phù hợp với quy luật khách quan.
+ QL xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
+ QL có khả năng thích nghi giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
+ QL là sử dụng tốt các khả năng, tiềm năng và các nguồn lực.
+ QL là sự phối hợp, sự tác động lẫn nhau trong môi trường đầy biến động.
Từ đó có thể rút ra định nghĩa quản lý như sau:

Quản lý là quá trình tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý nhằm khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện có hiệu quả những nguồn
11
lực, những tiềm năng và cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu của tổ chức đã đề
ra trong một môi trường đầy biến động.
1.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục
1.2.2.1. Khái niệm về giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động. Trong lao
động và cuộc sống hàng ngày con người nhận thức thế giới xung quanh, tích luỹ
kinh nghiệm từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt những hiểu biết ấy cho nhau và phát
sinh hiện tượng giáo dục.
Lúc đầu giáo dục xuất hiện như là một hiện tượng tự phát, sau đó trở thành
một hoạt động có ý thức. Ngày nay giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ
chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có nội dung, chương trình, kế hoạch và phương
pháp hiện đại thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Như vậy: giáo dục là một hiện tượng xã hội, bản chất của nó là sự truyền đạt
và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục
mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc, nhân loại được thừa
kế, bổ sung và trên cơ sở đó xã hội loài người không ngừng tiến lên.
1.2.2.2. Khái niệm về quản lý giáo dục
Nếu nói giáo dục là hiện tượng xã hội, vĩnh hằng thì cũng có thể nói như
thế về quản lí giáo dục. Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh
nghiệm lịch sử - xã hội của loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để
thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã
hội và bản thân con người phát triển không ngừng. Để đạt được mục đích đó,
quản lí được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên.
Quản lí giáo dục, trước hết, cũng như quản lí xã hội nói chung; quản lí
giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm thay đổi những mục đích
của mình. Chỉ có con người mới có khả năng khách thể hóa mục đích, nghĩa là
thể hiện nguyên mẫu lí tưởng của tương lai và được biểu hiện trong mục đích

đang ở trạng thái tiềm ẩn sang trạng thái hiện thực. Như đã biết, mục đích giáo
dục cũng chính là mục đích quản lí. Đây cũng là mục đích có tính khách quan.
12
Nhà quản lí, cùng với đông đảo đội ngũ GV, các lực lượng xã hội v.v… bằng
hành động của mình thực hiện hóa mục đích đó trong hiện thực.
Về thuật ngữ “ quản lí giáo dục” cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Ở đây
chỉ nêu quan niệm được nhiều người sử dụng và coi là phù hợp. Quản lí giáo dục có
hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Hãy thống nhất quy ước: quản lí giáo
dục cấp vĩ mô là quản lí một nền/hệ thống giáo dục; còn quản lí giáo dục cấp vi mô
xem như quản lí trường học/tổ chức giáo dục cơ sở.
Đối với cấp vĩ mô: Quản lí giáo dục được hiểu là những tác động tự giác ( có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật ) có chủ thể quản lí đến
tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cao cấp nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường ) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. Hoặc: Quản lí giáo dục là sự tác động liên
tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra
tính vượt trội/ tính trồi của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ
hội của hệ thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện
đảm bảo sự cân bằng đối với môi trường bên ngoài và luôn biến động. Hoặc: Có thể
định nghĩa quản lí giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lí nhằm huy động,
tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát…một cách có hiệu quả nguồn lực giáo dục
(nhân lực, vật lực, tài lực ) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế- xã hội.
Đối với cấp vi mô, trong phạm vi nhà trường, hoạt động quản lí bao gồm
nhiều loại, như quản lí các hoạt động giáo dục: hoạt động dạy học, hoạt động giáo
dục ( theo nghĩa hẹp ), hoạt động xã hội, hoạt động văn thể, hoạt động lao động,
hoạt động ngoại khóa, hoạt động giáo dục hướng nghiệp, hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp, hoạt động giáo dục kĩ năng sống,v.v…; quản lí các đối tượng khác nhau
như: quản lí GV, quản lí HS, quản lí tài chính, quản lí CSVC,v.v…; quản lí ( thực ra
là tác động ) đến nhiều khách thể khác nhau: quản lí thực hiện xã hội hóa giáo dục,

điều tiết và điều chỉnh ảnh hưởng từ bên ngoài nhà trường, tham mưu với Ban đại
diện cha mẹ HS,v.v…
13
Trên bình diện vi mô, quản lí giáo dục trong phạm vi nhà trường có thể xem
đồng nghĩa với quản lí nhà trường. Ta hãy điểm qua các định nghĩa dưới đây về
quản lí nhà trường.
- Quản lí vi mô là quản lí hoạt động giáo dục trong nhà trường bao gồm hệ
thống tác động có hướng đích của HT đến các hoạt động giáo dục, đến con người
(GV, cán bộ nhân viên và HS), đến các nguồn lực (CSVC, tài chính, thông tin,
v.v…), đến các ảnh hưởng ngoài nhà trường một cách hợp quy luật ( quy luật quản
lí, quy luật giáo dục, quy luật tâm lí, quy luật kinh tế, quy luật xã hội, v.v…) nhằm
đạt được mục tiêu giáo dục ( Những vấn đề cơ bản Khoa học quản lí giáo dục- Nhà
xuất bản Đại học Sư phạm- tr 9-10-11 ).
- Quản lí giáo dục là quản lý con người nên đòi hỏi phải tuân theo những
nguyên tắc giáo dục. Những nguyên tắc giáo dục là những yêu cầu, những tiêu
chuẩn, những luận điểm cơ bản chỉ đạo việc tổ chức của chủ thể quản lí giáo dục.
Các cơ quan quản lý trong ngành giáo dục, dù ở cấp nào, dù đảm nhận chức năng
nào đều phải có tổ chức và phải hoạt động theo đúng các nguyên tắc giáo dục; đó là
tính khoa học và thực tiễn, tập trung và dân chủ, kết hợp nhà nước và nhân dân .
Chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý dạy học phụ thuộc một phần rất
quan trọng vào việc xác định đúng đắn và cụ thể mục tiêu quản lí. Trong công tác
giáo dục, mỗi loại mục tiêu (lớn - nhỏ, lâu dài - ngắn hạn, chung – riêng ) đều có vị
trí nhất định và tầm quan trọng của nó. Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ biện
chứng giữa mục đích và phương tiện.
Như vậy, về cơ bản hoạt động quản lí giáo dục cũng giống như mọi hoạt
động quản lí kinh tế - xã hội nói chung, song quản lí giáo dục mang những đặc điểm
đặc thù. Sở dĩ có sự sai khác là do "Mục tiêu của giáo dục rất khó xác định rõ ràng,
tường minh; sản phẩm của giáo dục là nhân cách con người, nên rất khó đo lường,
đánh giá được; trong giáo dục mối quan hệ giữa nhà giáo với HS là những mối quan
hệ rất đặc biệt. Những điểm sai khác này là cơ sở để xây dựng các thiết chế, các

chính sách phù hợp cho công tác quản lí giáo dục".
+ QLGD có nhiều định nghĩa:
14
- QLGD là tập hợp các biện pháp kế hoạch hoá nhằm đảm bảo sự vận hành
bình thường của cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng
hệ thống cả về số lượng và chất lượng.
- QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật
của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên tắc giáo
dục của Đảng, thực hiện các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến
tới trạng thái mới về chất.
Theo GS Phạm Minh Hạc: “Việc quản lý nhà trường phổ thông (có thể mở
rộng ra là việc QLGD nói chung) là quản lý hoạt động dạy- học tức là làm sao đưa
hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới mục tiêu giáo
dục” [12; tr 71]’.
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động
điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh công tác đào tạo
thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội”.[5; tr 31].
Trong cuốn: “Cơ sở lý luận của khoa học QLGD” tác giả M.I.Kônđacốp định
nghĩa: “QLGD là tập hợp các biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài
chính nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục
để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng và chất lượng”.[18; tr 22]
* Qua các định nghĩa trên ta có thể hiểu về QLGD như sau:
- QLGD là một hệ thống tác động có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản
lý lên đối tượng bị quản lý.
- QLGD là sự tác động lên tập thể GV, HS và các lực lượng giáo dục trong
và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng phối hợp tác động tham gia vào các
hoạt động giáo dục của nhà trường để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Tóm lại: QLGD chính là quá trình tác động có định hướng của nhà QLGD
trong việc vận dụng nguyên lý, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm đạt

được những mục tiêu đề ra.
Những tác động đó là những tác động khoa học đến nhà trường, làm cho nhà
15
trường tổ chức một cách khoa học, có kế hoạch quá trình giảng dạy và học tập theo
mục tiêu đào tạo.
Hay có có thể hiểu cách khác QLGD : Những tác động có chủ định, có kế
hoạch của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nằm đạt được mục tiêu giáo dục đặt
ra. QLGD không những là nhân tố quyết định đến sự phát triển giáo dục mà còn là
yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng giáo dục-đào tạo.
1.2.3. Khái niệm quản lý nhà trường
1.2.3.1. Khái niệm nhà trường
Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, nó thế hiện những chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm cần thiết cho một nhóm dân cư nhất định của xã hội đó
Từ khi con người hình thành các tổ chức tới nay, nhà trường luôn tồn tại và
phát triển. Nhà trường được hiểu như sau: Nhà trường được tổ chức sao cho việc
kiến tạo những kinh nghiệm đạt được các tiêu chuẩn mà xã hội đó đặt ra cho nhóm
dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm chung
của xã hội.
Trong bối cảnh hiện tại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như là một thiết
chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân
hữu ích trong tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, được
cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức năng của mình mà không
một thiết chế nào có thể thay thế được.
Nhiệm vụ của nhà trường cũng được đề cập từ nhiều khía cạnh khác nhau,
việc quản lý nhà trường cũng có nhiều cách tiếp cận. Khi nhà trường thực hiện các
chức năng giáo dục trong một xã hội cụ thể, bản sắc văn hoá dân tộc in dấu sâu đậm
trong toàn bộ hoạt động của nhà trường. Điều đó có thể thấy rằng bản chất giai cấp
của nhà trường được thực hiện thông qua tính mục đích cũng như cách thức vận
hành của nó. Dấu hiệu phân biệt nhà trường với các thiết chế khác ở chỗ tính mục
đích tập trung hay tính hẹp được “chiết suất”; tính tổ chức và tính kế hoạch hoá cao;

tính hiệu quả giáo dục cao nhờ quá trình truyền thụ có tổ chức; tính biệt lập tương
đối hay tính lý tưởng hoá các giá trị xã hội; tính chuyên biệt cho từng đối tượng hay
16
tính chất phân biệt đối xử theo sự phát triển tâm lý và thể chất.
Vậy: Nhà trường là một thiết chế xã hội thể hiện chức năng tái tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát triển của xã hội, thiết chế chuyên biệt này
hoạt động trong tính quy định của xã hội và theo những dấu hiệu phân biệt nói trên.
1.2.3.2. Khái niệm quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người. Điều dó tạo cho các
chủ thể( người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt chẽ không
những chỉ bởi cơ chế hoạt động của những tính quy luật khách quan của một tổ
chức xã hội nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động quản lý của
chính bản thân GV và HS. Trong nhà trường GV và HS vừa là đối tượng vừa là chủ
thể quản lý. Với tư cách là đối tượng quản lý, họ là đối tượng tác động của chủ thể
quản lý(HT). Với tư cách là chủ thể quản lý, họ là người tham gia chủ động, tích
cực vào hoạt động quản lý chung và biến nhà trường thành hệ tự quản lý.
Như đã biết, quản lý gồm các yếu tố: chủ thể quản lý, đối tượng bị quản lý,
khách thể quản lý và mục tiêu quản lý
Đối tượng bị quản lý trong nhà trường thì nhiều, trước hết có GV và HS.
Nhưng, trong một tổ chức mang tính xã hội như nhà trường thì GV và HS vừa là đối
tượng bị quản lý, lại vừa là chủ thể quản lý.
Xét về bản chất, quản lý con người trong nhà trường là tổ chức một cách hợp
lý lao động của GV và HS, là tác động đến họ sao cho hành vi, hoạt động của họ
đáp ứng được yêu cầu của việc đào tạo con người. Cần nhấn mạnh rằng, khác với
lĩnh vực kỹ thuật, ở đó các hệ thống quản lý và bị quản lý tác động lẫn nhau một
cách máy móc, cứng nhắc; nhưng trong quản lý con người sự tương tác này lại
mang tính chất mềm dẻo, linh hoạt, bởi vì con người không thụ động phản ứng lại
các tác động quản lý.
Lại nữa, trong thực tế, GV và HS gắn với nhiều quan hệ xã hội trong cộng
đồng. Điều này đặt ra yêu cầu quản lý nhà trường phải gắn liền với quản lý xã hội

và nhiệm vụ quan trọng của nó là phải thiết lập một quan hệ tối ưu giữa các lợi ích,
tình trạng và sự phát triển của cá nhân, của cộng đồng và của xã hội để có thể điều
17
hòa những yêu cầu của sự phát triển của cá nhân, của cộng đồng và của xã hội. Từ
góc độ này, quản lý nhà trường thực chất là việc xác định vị trí của mỗi người
trong hệ thống xã hội, là quy định chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ, quan hệ cùng
vai trò xã hội của họ mà trước hết là phạm vi nhà trường với tư cách là một tổ chức
xã hội. (Những vấn đề khoa học QLGD – Trần Kiểm 259).
Một vài tác giả đã đưa ra khái niệm quản lý nhà trường như:
Tác giả Phạm Minh Hạc viết: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và từng HS”.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt
động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo duc”
Trong cuốn “Cơ sở lý luận khoa học quản lý giáo dục”. tác giả M. Ị Konđakôp
đô viết: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh chúng ta hiểu quản lý nhà trường
(công việc nhà trường) là một hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi
hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả
các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt kinh tế
– xã hội, tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên”.

Theo tác giả Bùi Trọng Tuân: Quản lí nhà trường bao gồm quản lí bên trong
nhà trường ( quản lí các thành tố như mục đích, nội dung, phương pháp dạy học,
phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học, đội ngũ GV, cán bộ, tập thể HS,
CSVC, thiết bị dạy học, các thành tố này quan hệ qua lại với nhau, tất cả đều thực
hiện chức năng giáo dục) và quản lí mối quan hệ giữa nhà trường với môi trường xã
hội bên ngoài nhà trường.
Tác giả Đặng Quốc Bảo khi nghiên cứu về quản lý nhà trường quan niệm:

“Quản lí nhà trường là quản lý một thiết chế vừa có tính sư phạm, vừa có tính kinh tế
trong đó nhà trường trung học phải xác định sứ mệnh là đào tạo HS trở thành người
lớn có trách nhiệm tự lập với ba giấy thông hành đi vào đời là: giấy thông hành học
18
vấn, giấy thông hành kỹ thuật nghề nghiệp và giấy thông hành kinh doanh”.
Trường học là tổ chức giáo dục, là đơn vị cấu trúc cơ sở của hệ thống giáo
dục quốc dân. Do đó, xét về bản chất, trường học là một tổ chức mang tính nhà
nước- xã hội- sư phạm thể hiện bản chất giai cấp, bản chất xã hội và bản chất sư
phạm. Cho nên một cách khác có thể hiểu:
- Quản lí trường học là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi
trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục, để
đến mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ với
từng HS. Hoặc:
- Quản lí nhà trường, quản lí giáo dục là hoạt động dạy học…Có tổ chức
được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông
Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lí được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối
giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu nhân dân,
của đất nước. Hoặc:
- Quản lí nhà trường là hệ thống xã hội sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi
hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lí lên tất cả
các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội- kinh tế và tổ
chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục các thế hệ đang lớn lên. Hoặc:
- Quản lí giáo dục (vi mô) được hiểu là hệ thống tác động tự giác (có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lí đến tập thể
GV, cán bộ nhân viên, tập thể HS, cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong và
ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của
nhà trường.
- Cũng có thể định nghĩa quản lí giáo dục (vi mô) thực chất là những tác
động của chủ thể quản lí vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể GV và
HS, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội nhằm hình thành và phát triển

toàn diện nhân cách HS theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Mặc khác quản lí trường học về bản chất là quản lí con người. Điều đó tạo
cho các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặc chẽ
19

×