Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Vai trò của tri thức đối với ý thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.45 KB, 16 trang )

MỤC LỤC:
ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………………..2
PHẦN I: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI Ý THỨC…………………………..3
1. QUAN NIỆM TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN VỀ Ý THỨC...……………….3
1.1. NGUỒN GỐC CỦA Ý THỨC……………………………………3
1.1.1. NGUỒN GỐC TỰ NHIÊN CỦA Ý THỨC……………..3
1.1.2. NGUỒN GỐC XÃ HỘI CỦA Ý THỨC………………...4
1.2. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC………………………………………4
1.3. KẾT CẤU CỦA Ý THỨC………………………………………...5
2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI Ý THỨC…………………………..6
PHẦN II: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI Ý THỨC………………………….7
1. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ…………………….7
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC…………..7
1.2. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM………8
1.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM...9
2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC………………………..10
2.1. THỰC TRẠNG CỦA NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM……………...10
2.2. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC………………………………………….11
3. VAI TRỊ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI CHÍNH TRỊ…………………………12
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………..14
TƯ LIỆU…………………………………………………………………...…………...15

1


ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường phái triết học nghiên cứu một
cách chi tiết, với những cách giải thích khác nhau, ý thức lại mang những quan niệm vô
cùng khác nhau, và từ đó trở thành cơ sở để hình thành các trường phái triết học khác
nhau, hai đường lối cơ bản đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Khi
xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các q trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu biết


của con người về thế giới khác quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí…; trong đó,
tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất.
Ý thức đóng vai trị vơ cùng to lớn đối với đời sống con người, nó chỉ đạo hành động,
hoạt động của con người; quyết định tính đúng – sai, thành – bại của hoạt động. Ý thức
vừa là kim chỉ nam cho thực tiễn vừa là động lực của thực tiễn. Sự thành công hay thất
bại của thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự
nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trị
của khoa học văn hố và tư tưởng. Theo bước tiến phát triển của xã hội ngày nay, ý thức
càng có vị trí quan trọng trong thời đại thơng tin, nền kinh tế tri thức, các cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại. Tri thức khoa học giờ đây đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Trong xu hướng tồn cầu hóa hiện nay, tri thức nói chung và tri thức khoa học, tư
tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn nói riêng mang tầm ảnh hưởng vơ cùng lớn lao đối với
đời sống xã hội của con người.
Tại Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang thực hiện q trình cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa, thúc đẩy nền kinh tế nước nhà và phát triển đời sống an sinh xã hội
cho nhân dân, tri thức đóng vai trị cốt lõi trong những nỗ lực thúc đẩy sự phát triển toàn
diện cho Tổ quốc. Với xuất phát điểm thấp về kinh tế, tiềm năng công nghệ cịn yếu kém,
tri thức chính là một trong những yếu tố quyết định cho công cuộc hội nhập quốc tế của
nước ta trong sự phát triển vô cùng nhanh của nền khoa học – kĩ thuật và kinh tế trên thế
giới.
Trong bài tiểu luận này, em xin phép được phân tích đề tài “Vai trị của tri thức đối với ý
thức. Ở Việt Nam, tri thức có vai trị gì trong hoạt động của con người?

2


PHẦN I: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI Ý THỨC
1. Quan niệm của Triết học Mác Lê-nin về ý thức:
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

1.1.1. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, hai
yếu tố căn bản nhất là bộ óc người và quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo
nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là chức năng của bộ óc người, đồng thời cịn là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh
của bộ óc. Sự phát triển của bộ óc càng hồn thiện thì các hoạt động sinh lý thần kinh
càng hiệu quả dẫn đến ý thức của con người càng đặc sắc và có chiều sâu. Từ đó ta suy
giải được tại sao sự tiến hóa và phát triển của con người lại là quá trình phát triển khả
năng suy luận, nhận thức và vì sao có sự bất ổn và hỗn loạn trong đời sống tinh thần khi
thần kinh của con người khơng bình thường do bị tổn hại bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng
động, sáng tạo: Ngay từ khi con người xuất hiện, mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan là mối quan hệ tất yếu. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan được
phản ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, từ đó, ý
thức được hình thành.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, đồng thời, cũng được thể hiện dưới
nhiều hình thức, trình độ khác nhau: phản ánh vật lý, hóa học; phản ánh sinh học; phản

3


ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo. Những hình thức này tương ứng với q
trình tiến hóa của các dạng vật chất tự nhiên.
1.1.2. Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý thức, trong đó, hai yếu tố cơ bản nhất
và trực tiếp nhất chính là lao động và ngơn ngữ.
Lao động là q trình tác động của loài người vào tự nhiên để tạo ra các sản phẩm cần

thiết nhằm phục vụ cho nhu cầu tồn tại và sự phát triển của mình. Đồng thời, lao động
vừa là quá trình thay đổi cấu trúc cơ thể người, vừa khiến cho giới tự nhiên bộ lộ ra
những quy luật vận động, kết cấu, thuộc tính,… của nó qua những hiện tượng mà loài
người đã quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan,
tác động đến bộ óc người và bằng hoạt động của bộ óc, tri thức nói riêng, ý thức nói
chung về thế giới khách quan hình thành và phát triển.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thơng tin mang nội dung ý thức. Khơng
có ngơn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Ngay từ đầu, lao động đã mang tính xã hội.
Trong quá trình lao động, các mối quan hệ giữa các thành viên đã tạo ra nhu cầu về
phương tiện giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Từ đó, ngơn ngữ được sinh ra và phát triển chính
ngay trong q trình lao động, Nhờ vậy, con người khơng chỉ có năng lực giao tiếp, trao
đổi mà còn biết khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt tư tưởng và kinh nghiệm
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp, mang tính quyết
định quan trọng nhất về sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và
đồng thời với lao động là ngơn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ
óc của lồi vượn cổ, dần dần, qua q trình lao động tiến hóa, đã trở thành bộ óc lồi
người, biến tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
1.2. Bản chất của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người; là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

4


Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm –
sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thơng tin và trên cơ sở những
thơng tin đã có, nó có thể tạo ra những thơng tin mới và phát hiện ý nghĩa của thơng tin
được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh còn được thể hiện ở quá
trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại,… trong đời sống tinh thần

của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mơ hình tư tưởng,
tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó thể hiện ở chỗ: Ý thức là
hình ảnh về thế giới khách quan, bị thế giới khách quan quy định về cả nội dung và hình
thức biểu hiện, nhưng nó khơng cịn y ngun như thế giới khách quan mà nó đã cải biến
thơng qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu
cầu,…) của con người. Theo C.Mác, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển
vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà
còn (và chủ yếu là) của các quy luật xã hội; được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội
và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
1.3. Kết cấu của ý thức:
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao hàm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau như:
ý chí, tri thức, tình cảm, niềm tin,… Trong đó, tri thức là nhân tố cơ bản và cốt lõi nhất.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là
sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ. Tri
thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Tuy nhiên,
không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật. Căn cứ vào lĩnh vực phản
ánh, tri thức có thể chia thành nhiều loại như: tri thức tự nhiên, tri thức về con người và
xã hội. Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành: tri thức

5


đời thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính
và tri thức lý tính…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát

những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu
hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức
mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn. Tùy vào đối tượng nhận
thức và sự rung động của con người về đối tượng đó mà tình cảm được biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, như: tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tơn
giáo…
Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu
hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý thức được mục đích của hành
động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa
chọn. Muốn vượt q khó khăn để đạt được mục đích, chủ thể nhận thức phải có ý chí,
quyết tâm cao. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng
trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra.
Nhận rõ vị trí, vai trị của các nhân tố cấu thành ý thức và mối quan hệ giữa các yếu tố
đó, địi hỏi mỗi chủ thể phải ln tích cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức,
tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức cải tạo thế giới.
2. Vai trò của tri thức đối với ý thức:
Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó.
Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. Ý thức mà
không bao hàm tri thức, khơng dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống
rỗng, khơng giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Theo C.Mác, “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với
ý thức là tri thức…, cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức

6


biết cái đó”. Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quan là yêu cầu thường
xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới.
Tri thức đóng vai trị thiết yếu trong đời sống xã hội của con người.

PHẦN II: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1. Vai trò của tri thức đối với kinh tế - Nền kinh tế tri thức:
1.1. Khái quát chung về nền kinh tế tri thức:
Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri
thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. Kinh tế tri thức là nền kinh tế
trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nền kinh tế tri thức có 4 động lực chính:


Mơi trường kinh tế và thể chế xã hội



Giáo dục và đào tạo



Mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố vấn,
doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng



Hạ tầng cơ sở thơng tin, từ radio đến Internet, đặc biệt là hệ thống viễn thông.

Nền kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ bản như:
1.Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn;
2. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các
thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao;

3. Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức có những biến đổi như Lao động tri thức chiếm
tỷ trọng cao (70-90%), nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi

7


mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người. ở đỉnh cao của nó, xã
hội của nền kinh tế tri thức sẽ trở thành xã hội học tập;
4. Trong nền kinh tế tri thức, quyền sở hữu đối với tri thức trở nên quan trọng;
5. Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều liên quan đến vấn đề tồn cầu hóa.
1.2. Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút
tất cả các nước khác nhau”. Gần đây nhất, Đảng ta đã xác định gắn cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường”. (Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng
sản Việt Nam), trong đó Đảng ta khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ thực sự là
động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Như vậy có thể thấy ngay
từ thời kỳ đầu, Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo ra động lực cho việc hình thành và phát
triển kinh tế tri thức. Tuy nhiên, hiện nay về cơ bản nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh
tế mang những dấu ấn của kinh tế nông nghiệp, đang chuyển dần sang kinh tế cơng
nghiệp. Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số
về kinh tế tri thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI của Việt
Nam hiện đang là 3,51, trong đó chỉ số sáng tạo chỉ là 2,72, trong khi đó chỉ số KEI của
một số nước trong khu vực là rất cao: Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07; Thái Lan là
5,52.
Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ cấu kinh
tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công
nghiệp trong GDP cịn hạn chế, ngành nơng nghiệp cịn cao. Cơ cấu lao động cũng chưa
chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nơng nghiệp cịn chiếm tỷ trọng rất cao,

chất lượng lao động cịn nhiều hạn chế. Trong khi đó hiện nay ở Mỹ khoảng 80% lực
lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng và triển khai.

8


Hiện nay, hàm lượng chất xám trong sản phẩm của Việt Nam là rất thấp, “đến 2020 giá
trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong
tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản
phẩm công nghiệp”. (Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam).
Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh tương quan với các quốc gia trong
khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam chỉ dành khoảng 0,3% GDP cho hoạt động khoa
học, cơng nghệ, trong khi đó con số này ở Malaysia là 1%, Singapore là 3%.
Theo Robert Walter Global – một công ty chuyên về tuyển dụng: năm 2012 mặc dù kinh
tế khó khăn, nhiều cơng ty phá sản hoặc giảm quy mơ hoạt động, Việt Nam vẫn “khát”
nhân sự có trình độ. Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam đạt khoảng 35%,
đây là con số rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những tiêu chí quan trọng của kinh tế tri thức là sự ứng dụng công nghệ vào
sản xuất kinh doanh và quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta đều thiếu thông tin
về công nghệ. Theo một khảo sát của Viện Nghiên cứu và Quản lý TW trên 82 doanh
nghiệp, chỉ có 16 doanh nghiệp có ý tưởng đổi mới cơng nghệ. Xét một cách tổng quát,
những yếu tố cho sự ra đời và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ hình
thành.
1.3. Giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang q độ sang kinh tế cơng nghiệp. Vì vậy, để tạo điều kiện và
thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển cần quán triệt và thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất,phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và tri thức. Sự phát
triển của khoa học, cơng nghệ là điều kiện cần để hình thành và phát triển kinh tế tri thức.
Cần đầu tư hơn nữa cho khoa học, cơng nghệ; tạo ra chính sách phát triển khoa học, công
nghệ.

Thứ hai,nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh tế tri thức.
Nghiên cứu khoa học được coi là nền tảng của tăng trưởng kinh tế, đóng vai trị quan
trọng trong các quá trình hình thành kinh tế tri thức. Theo một nghiên cứu mới nhất, hiện
9


nay nếu khơng có gì thay đổi thì Việt Nam cần khoảng thời gian là 60 năm mới có thể
theo kịp về số lượng bài báo ở thời điểm năm 2005. Việt Nam vẫn đang thiếu chuyên gia
nghiên cứu khoa học tầm cỡ quốc tế, chất lượng lao động Việt Nam đạt 4/10 điểm (theo
WEF).
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa hướng đến
việc phát huy vai trị của khoa học, cơng nghệ, hướng đến kinh tế tri thức. Cần tạo ra môi
trường pháp lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, khuyến khích các chủ thể kinh
tế phát huy tối đa tiềm năng của mình, trong đó nhấn mạnh các vấn đề về sở hữu trí tuệ,
chuyển giao cơng nghệ, bản quyền...
Thứ tư, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng
sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu. Cần kết hợp hợp lý
phát triển kinh tế theo hai mơ hình này, một mặt khai thác những lợi thế sẵn có về lao
động, tài nguyên; mặt khác phải “đi tắt, đón đầu”, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo mơ hình “hiện đại”, “rút ngắn” để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
2. Vai trò của tri thức đối với giáo dục:
Tri thức cũng có vai trị rất lớn đến văn hố -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con
người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người được
nâng cao, nền văn hoá ngày càng lành mạnh, có những hiểu biết về tầm quan trọng của
giáo dục, từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh. Giáo dục có trách
nhiệm tạo ra nền tảng tri thức, đào tạo ra nguồn nhân lực, tức là trực tiếp tạo ra vốn con
người. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, hiện đại hóa ngày nay, sự cạnh tranh giữa các nước
sẽ là sự cạnh tranh về giáo dục.
2.1. Thực trạng giáo dục tại Việt Nam:
- Không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động; các trường hầu như thiếu tín hiệu từ thị

trường về cơ cấu ngành nghề xã hội cần, về số lượng lao động cần tuyển, về trình độ,
năng lực người lao động cần có, về triển vọng ngành nghề. Tuyển sinh chủ yếu dựa vào
chỉ tiêu Bộ cho phép.

10


- Tâm lý “khoa cử” quá nặng nề: Học để thi, thi đỗ đại học để có bằng cấp tiến thân, để
được tuyển vào các cơ quan của Nhà nước nên chọn ngành dễ để học, để dễ được bằng
tốt nghiệp đại học
- Chưa giải quyết đúng đắn vấn đề: Học để làm gì? Để thi hay để thành người toàn diện,
biết làm việc (học để biết, để làm,...). Cả xã hội đang coi trọng bằng cấp, học để lấy bằng,
bằng càng cao càng tốt. Xu hướng này chi phối toàn bộ mọi hoạt động của ngành giáo
dục từ trước tới nay. Có thể thấy cịn có khoảng cách giữa đào tạo của các trường đại học
và yêu cầu xã hội.
- Dạy lý thuyết nhiều, nhiều mục trong bài giảng vô bổ, lý thuyết suông, không gắn với
thực tế (ngay cả mơn Tốn, cố PGS.TS Văn Như Cương cũng thấy thừa nhiều nội dung).
- Sau giờ học, học sinh không hoặc ít đến thư viện đọc sách, giáo viên giảng xong là hồn
thành nhiệm vụ.
- Chương trình chưa bám sát quan điểm chỉ đạo: Thực học, thực nghiệp. Do đó, sau khi ra
trường cử nhân bỡ ngỡ với thực tiễn.
- Đọc, nhìn (do có trường hiện nay đã sử dụng thiết bị tin học trong giảng dạy, song trò
cũng sử dụng máy điện thoại chụp lại bài của thầy), chép vẫn là phổ biến, ít thảo luận
nhóm.
- Phương pháp thi cử cũng đã lạc hậu bởi chưa tăng tính đối thoại trong thi cử.
- Nhiều trường cũng đã áp dụng phương pháp dạy nêu vấn đề, thảo luận nhóm... nhưng
chưa phải là số đông các trường. Phương pháp giảng dạy trực tuyến, E-learning... chưa
được nhiều trường áp dụng.
2.2. Giải pháp khắc phục:
Đảng, Chính phủ cần có kế hoạch quản lý tri thức tốt, cần tuyên truyền mạnh để chuyển

biến nhận thức của xã hội, trước tiên là lãnh đạo các cấp về tầm quan trọng của vốn tri
thức trong phát triển đất nước. Song song với kế hoạch này là các chỉ đạo cụ thể lộ trình,
các biện pháp, yêu cầu và bắt buộc các trường đại học phải chuyển đổi mạnh mẽ phương
pháp đào tạo vì khâu cơ bản nhất trong quản lý tri thức là phải tạo ra tri thức cho người
lao động. Vậy chính các trường đại học phải giúp Chính phủ tạo ra tri thức theo hướng
giáo dục mở để tất cả người lao động có thể nạp tri thức ở bất cứ đâu, thời gian nào.
11


Cần tiến hành đào tạo lại đội ngũ một cách căn bản. Nghiên cứu lại cách tập huấn nâng
cao trình độ ở một số trường, nghề...như hiện nay. Vì nâng cao trình độ theo cách mở lớp,
tập trung người có nhu cầu, lại dạy lý thuyết bằng phương pháp thuyết trình thì khó có
hiệu quả.
Bộ Giáo dục - Đào tạo và các trường cần đẩy mạnh nghiên cứu để có chương trình hướng
nghiệp tương đối sát với nhu cầu thị trường (Marketing đào tạo), để chỉ tiêu tuyển sinh
giao cho các trường có căn cứ thực tiễn. Đồng thời mở rộng đối tượng phục vụ hướng tới
tất cả những ai có nhu cầu học vấn đại học.
Việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng
cao là nhiệm vụ hàng đầu, là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển bền vững
của đất nước. Chính vì vậy việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW là hết sức
cấp bách, trước tiên phải đổi mới tư duy về quản lý giáo dục. Việc đổi mới phải có lộ
trình, kế hoạch cụ thể hơn. Đặc biệt, phải tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường đại
học để các trường kém chất lượng được chuyển đổi, xây dựng hệ thống đại học Việt Nam
đẳng cấp quốc tế.
3. Vai trò của tri thức đối với chính trị:
Nhà văn Francis Bacon nói: “Tri thức là sức mạnh”. Sau này Lê-nin, một nhà triết học,
nhà chính trị vĩ đại đã phát triển thành: “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức người đó có
sức mạnh”. Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận ,khả năng phân tích tiếp cận
vấn đề một cách sát thực, đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những
con người như vậy để điều hành cơng việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của

một quốc gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong
nhận thức về nguồn lực con người. Đại hội nhấn mạnh: ”Phát huy yếu tố con người và
lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” chiến lược phát
triển con người đang là chiến lược cấp bách. Chúng ta cần có những giải pháp trong việc
đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức: Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ
trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi
dưỡng cho họ những tri thức cịn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch
định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể
về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích. Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học 12


công nghệ và giáo dục - đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo
liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại
học và gắn kết trường đại học và các cơng ty, xí nghiệp. Các cơ quan nghiên cứu và đào
tạo được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình, kế hoạch và kinh phí dựa trên
luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan. Hàng năm theo định
kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà khoa học đầu
nganh của các cơ quan giáo dục - đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia, liên
hiệp các hội khoa học Việt Nam… với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch, sự tham gia của
các thành viên Hội đồng giáo dục - đào tạo và khoa học -công nghệ quốc gia về những ý
kiến tư vấn, khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định
hướng phát triển giáo dục-đào tạo. Phát triển khoa học - công nghệ, cách tuyển chọn và
giao chương trình đề tài, giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo
trình, làm chủ nhiệm chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt, thẩm định
nghiệm thu các chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước. Liên hiệp các hội khoa học
Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa học, dân chủ thảo luận
để đưa ra được những ý kiến tư vấn, những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng,
Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh
vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thốt khỏi tình trạng

nghèo và kém phát triển.

13


KẾT LUẬN
Như vậy, tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức thường
gắn liền với sự hình thành của xã hội lồi người. Do đó, khơng thể tách trí thức ra khỏi xã
hội để định nghĩa xem tri thức là gì cũng như mong muốn hiểu sâu hơn về tri thức, đó là
việc làm khơng tốt, tách tri thức ra khỏi xã hội giống như việc tách những con cá ra khỏi
dịng nước đề tìm sự thích nghi hay hoạt động của cá. Vai trò của tri thức trong xã hội là
rất cần thiết và quan trọng.
Để trở thành công dân có tri thức tốt khơng phải ngày một ngày hai, mà cần một quá trình
dài, cần sự quyết tâm cao, có được tri thức cho bản thân là một lợi thế tốt để mọi người
có nhiều cơ hội trong xã hội, lợi thế đi kèm có kết quả, phải biết vận dựng lợi thế đó như
thế nào là đúng là chính xác thì khó khăn đối với chủ thể càng nâng cao. Phải giáo dục và
nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình ý chí cách mạng cho
cán bộ đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, nền
kinh tế tri thức, tồn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo
đức cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức
khoa học.
Để thực hiện ngun tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ
quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan khoa
học, không vụ lợi trong nhận thức và hành động của mình.

14


TƯ LIỆU

1. Giáo trình Triết học Mác Lê-nin.
2. Tuyên giáo – Tạp chí của ban tuyên giáo trung ương
3. Tài liệu của Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử
4. Tài liệu của Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thơng tin thị trường TP. Hồ Chí
Minh
5. Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương
6. />
15


16



×