Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

báo cáo quy hoạch siwr dụng đất huyện hưng hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.92 KB, 96 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
I. SỰ CẦN THIẾT LẬP QUY HOẠCH, KẾ HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
Cùng với Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - Xã hội của huyện
Hưng Hà, quy hoạch chung Nông thôn mới và các quy hoạch chuyên ngành
khác; Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm
kỳ đầu (2011- 2015) sẽ tạo thuận lợi, mở ra hành lang pháp lý quan trọng cho
việc thực hiện các mục tiêu phát triển Kinh tế - Văn Hóa - Xã hội trên địa bàn
huyện theo quy hoạch, kế hoạch.
Quy hoạch sử dụng đất huyện Hưng Hà giai đoạn trước được UBND tỉnh
phê duyệt, đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất để thực hiện các chương
trình, dự án mục tiêu đề ra, góp phần tích cực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của huyện, đảm bảo quản lý, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên
đất đai theo quy hoạch và pháp luật.
Tuy nhiên, Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn trước do không dự báo sát tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong những năm vừa qua, nên không đáp
ứng được các nhu cầu sử dụng đất của các địa phương và các ngành nên phải bổ
sung quá nhiều.
Căn cứ quy định Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản chỉ đạo của cấp
trên về Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, huyện Hưng Hà cần phải Lập Quy
hoạch sử dụng đất mới cho 10 năm tới từ 2011 đến 2020; phù hợp với Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 đã được phê duyệt,
nhằm đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Từ những lý do trên, UBND huyện Hưng Hà tiến hành xây dựng Quy
hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu
(2011 – 2015) nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu về đất cho những mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả theo đúng
các quy định của Luật Đất đai.
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu
(2011 – 2015) huyện Hưng Hà phải đáp ứng nhu cầu đất đai cho mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, mục tiêu phát triển của các ngành, các lĩnh
vực, các địa phương trong huyện đến năm 2020, đảm bảo sử dụng tiết kiệm, hợp lý,


có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của các địa phương trong huyện.
- Phù hợp với Quy hoạch sử dụng đất đến 2020 về kế hoạch sử dụng đất 5
năm kỳ đầu (2011 – 2015) của tỉnh Thái Bình.
1
II. CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LẬP QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN
NĂM 2020 HUYỆN HƯNG HÀ
- Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày 12 tháng 03 năm 2003 của Ban chấp
hành Trung ương về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính
phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 Ban chấp hành Trung
ương “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”;
- Nghị quyết số 17/2011/QH13 ngày 22/11/2011 của Quốc hội khóa XIII kỳ họp
thứ 2 về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 –
2015) cấp quốc gia;
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ
quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư;
- Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2012 của Chính phủ
về quản lý, sử dụng đất trồng lúa;
- Thông tư 19/2009/TT-BTNMT ngày 02/11/2009 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất;
- Thông tư 06/2010/TT-BTNMT ngày 15/03/2010 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về việc quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật lập và điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;

- Thông tư số 13/2011/TT-BTNMT ngày 15/04/2011 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường quy định về ký hiệu bản đồ hiện trạng sử dụng đất phục vụ quy
hoạch sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
- Hướng dẫn áp dụng mức sử dụng đất trong công tác lập và điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (kèm theo công văn số 5763/BTNMT-ĐKTK
ngày 25 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường);
- Công văn số 23/CP-KTN ngày 23/02/2012 của Chính phủ về việc hướng
phân bổ chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia;
- Công văn số 429/TCQLĐĐ-CQHĐĐ ngày 16/4/2012 của Tổng cụ Quản
lý đất đai về việc hướng dẫn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Quyết định số 643/UBND-NN ngày 09/4/2013 của UBND tỉnh Thái
Bình về phân bổ chỉ tiêu quy hoạch đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm
kỳ đầu (2011 – 2015) của tỉnh Thái Bình;
2
- Báo cáo chính trị số 152-BC/HU ngày 06 tháng 07 năm 2010 của Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện lần VIII trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Hưng
Hà lần thứ XIV nhiệm kỳ 2010 – 2015;
- Niên giám thống kê huyện Hưng Hà từ năm 2000 đến năm 2009;
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Hưng Hà đến năm 2020;
- Các quy hoạch phát triển ngành công nghiệp; nông nghiệp; dịch vụ -
thương mại; đô thị; giao thông - vận tải; y tế; giáo dục - đào tạo đến năm 2020
trên địa bàn huyện Hưng Hà;
- Quy hoạch chung các xã, theo mô hình xây dựng nông thôn mới.
III. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA VIỆC LẬP QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
ĐẾN NĂM 2020 HUYỆN HƯNG HÀ
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu
(2011 – 2015) huyện Hưng Hà nhằm đáp ứng nhu cầu đất đai cho mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, mục tiêu phát triển của các ngành, các lĩnh
vực, các địa phương trong huyện đến năm 2020 đảm bảo sử dụng tiết kiệm, hợp lý,
có hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái.

- Làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của các địa phương trong huyện.
IV. NỘI DUNG CỦA QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN NĂM 2020 HUYỆN
HƯNG HÀ
- Điều tra, phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
- Đánh giá tình hình sử dụng đất, biến động sử dụng đất, kết quả thực hiện
quy hoạch sử dụng đất kỳ trước và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất.
- Đánh giá tiềm năng đất đai và định hướng dài hạn về sử dụng đất.
- Xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất.
- Đánh giá tác động của phương án quy hoạch sử dụng đất đến kinh tế, xã
hội và môi trường.
- Phân kỳ quy hoạch sử dụng đất và lập kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu.
- Đề xuất các giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng.
V. BỐ CỤC CỦA BÁO CÁO
Ngoài phần Đặt vấn đề, phần Kết luận, kiến nghị, Báo cáo bao gồm các
phần sau:
- Phần I: Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
- Phần II: Tình hình quản lý sử dụng đất đai.
- Phần III: Đánh giá tiềm năng đất đai và định hướng dài hạn sử dụng đất.
- Phần IV: Phương án quy hoạch sử dụng đất.
3
PHẦN I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Hưng Hà nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Thái Bình, bao gồm 35 xã và thị
trấn (33 xã và 02 thị trấn) với tổng diện tích tự nhiên là 21.028,68 ha, chiếm
12,96% tổng diện tích tỉnh Thái Bình. Ranh giới của huyện được xác định
như sau:

- Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên.
- Phía Nam giáp huyện Vũ Thư.
- Phía Đông giáp huyện Quỳnh Phụ và huyện Đông Hưng.
- Phía Tây giáp tỉnh Hà Nam.
Huyện có ba mặt tiếp giáp với 3 con sông lớn (sông Hồng phía Tây, sông
Luộc phía Bắc và sông Trà Lý phía Tây Nam). Có 5 tuyến quốc lộ và tỉnh lộ
chạy qua địa bàn huyện (trong đó tuyến quốc lộ 39 chạy qua 7 xã và 2 thị trấn)
và đặc biệt khi đường cao tốc Thái Hà hoàn thiện cùng với hệ thống giao thông
nông thôn, huyện lộ và giao thông thủy đã tạo thành hệ thống giao thông quan
trọng nối liền huyện Hưng Hà với thành phố Thái Bình, các huyện trong tỉnh và
thành phố Hưng Yên. Hưng Hà là huyện thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm
trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng -
Quảng Ninh. Vị trí địa lý của huyện đã tạo những điều kiện rất thuận lợi cho
huyện trong buôn bán, trao đổi, vận tải hàng hóa, hành khách và giao lưu văn
hóa, phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Địa hình, địa mạo
Huyện Hưng Hà thuộc vùng châu thổ sông Hồng, địa hình tương đối bằng
phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1% (trên 1km), cao trình biến thiên từ 1 - 2m so với
mặt nước biển. Nhìn chung, địa bàn huyện có độ cao bình quân lớn nhất tỉnh,
hướng đất thấp dần từ Bắc xuống Nam. Đất Hưng Hà thuộc khu vực phía Bắc
sông Trà Lý được hình thành sớm và chịu ảnh hưởng của phù sa sông Hồng và
sông Luộc nên là vùng đất tương đối cao hơn, độ cao trung bình từ 1,3 - 2,5 m
so với mực nước biển.
1.1.3. Khí hậu
Huyện Hưng Hà nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, và có sự ảnh
hưởng của biển. Đặc điểm khí hậu thời tiết của huyện như sau:
4
- Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm từ 23,5
0
C, cao nhất là 39

0
C, nhiệt độ
thấp nhất là 4
0
C.
- Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình năm xấp xỉ 2.000mm, biên độ giao
động 1.200 - 3.000mm, phân bố theo mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài 7 tháng (tháng
5 đến tháng 11).
- Độ ẩm không khí: Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm là 84%, mùa
mưa độ ẩm cao có thể đạt tới 88%, độ ẩm thấp nhất là 24%.
- Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình trong năm khoảng 2.372 giờ, các
tháng có số giờ nắng cao từ tháng 3 đến tháng 9 trung bình đạt 260 giờ/tháng (cao
nhất vào tháng 5), các tháng có số giờ nắng thấp từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau
trung bình 120 - 130 giờ/tháng (thấp nhất vào tháng 12).
- Gió: Hướng gió thịnh hành là gió Đông từ tháng 11 đến tháng 4; gió
Đông Nam tháng 5; gió Tây tháng 6 đến tháng 9; gió Tây Nam tháng 10. Tốc độ
gió trung bình năm là 3,9m/s, trung bình tháng lớn nhất là 4,9m/s, trung bình
tháng nhỏ nhất là 3,1m/s.
1.1.4. Thủy văn
Huyện Hưng Hà chịu ảnh hưởng chủ yếu của các sông là sông Hồng, sông
Luộc và sông Trà Lý.
- Sông Hồng chảy ven theo địa giới hành chính các xã Tiến Đức, Hồng
An, Minh Tân, Độc Lập, Hồng Minh; với chiều dài khoảng 14 km. Vào mùa
mưa từ tháng 6 đến tháng 10 mực nước sông lên nhanh và cao hơn mặt ruộng từ
2 - 5m. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau mực nước sông xuống thấp
hơn mặt ruộng từ 2 - 3m. Sông Hồng đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung
cấp nước sinh hoạt và sản xuất, đồng thời cũng cung cấp lượng phù sa không
nhỏ phục vụ việc cải tạo đồng ruộng.
- Sông Luộc là một nhánh của sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt
đầu từ xã Tân Lễ đến xã Điệp Nông qua địa phận các xã: Tân Lễ, Canh Tân,

Cộng Hòa, Hòa Tiến, Tân Tiến, Điệp Nông có chiều dài 21km. Lưu lượng
dòng chảy phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm. Sông Luộc cũng góp phần tích
cực vào việc tưới, tiêu và bồi đắp phù sa cho đồng ruộng.
- Sông Trà Lý là một nhánh của sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu
từ xã Hồng Minh đến xã Chí Hòa (qua địa phận 2 xã: Hồng Minh, Chí Hòa); có
chiều dài 4,5km. Lưu lượng dòng chảy phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm.
1.2. Các nguồn tài nguyên
1.2.1. Tài nguyên đất
Đất đai huyện Hưng Hà được hình thành qua quá trình biển lùi và bồi tụ
5
phù sa của sông Hồng và sông Trà Lý, cùng với việc quai đê, lấn biển, khai
hoang của cư dân từ xưa đến nay. Do đó, đất Hưng Hà phì nhiêu màu mỡ, nổi
tiếng “Bờ xôi, ruộng mật” với 93% là đất phù sa. Đất phù sa ở huyện Hưng Hà có
thành phần cơ giới chủ yếu là đất cát pha và đất cát, địa hình đất lại tương đối cao,
70% diện tích canh tác nằm ở bề mặt cao và trung bình nên ngoài diện tích cấy lúa,
đất đai ở Hưng Hà còn thích hợp cho phát triển cây vụ đông, cây công ngiệp ngắn
ngày (cây đay, cây dâu, cây đậu tương…), cây ăn quả nhiệt đới (cam, táo, nhãn,
chuối…), cây thực phẩm và cây lương thực… có năng suất cao. Nhìn chung, đất
đai Hưng Hà thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng, đất đai huyện Hưng Hà được chia làm
3 nhóm chính:
- Nhóm đất phù sa, diện tích 11.440,37 ha chiếm 93% diện tích đất điều
tra. Là nhóm đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt nặng, với khả năng
hấp thu các chất hữu cơ khá cao.
- Nhóm đất cát, diện tích 723.58 ha, khả năng giữ nước kém, nghèo chất
dinh dưỡng.
- Nhóm đất phèn, diện tích 66,45 ha nằm xen kẽ rải rác ở các xã.
Ngoài ra còn có nguồn đất sét, nguồn tài nguyên cát lòng sông rất phong
phú để phục vụ sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng.
1.2.2. Tài nguyên nước

- Nước mặt: Bao gồm nước mưa và nước trong hệ thống sông ngòi, ao,
hồ, trên địa bàn nhưng chủ yếu là nguồn nước sông Hồng, sông Luộc, sông Trà
Lý… Nhìn chung nguồn nước mặt khá phong phú, đáp ứng được nhu cầu phát
triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên,
nguồn nước mặt ở Hưng Hà đang bị ô nhiễm.
- Nước ngầm: Theo tư liệu dự án Quy hoạch nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn Thái Bình đến năm 2020 cho biết nguồn nước ngầm ở Hưng
Hà có 2 tầng đặc trưng:
+ Tầng chứa nước Thái Bình: Đây là tầng phát triển không đồng đều, rất
mỏng ở phía Bắc với chiều dày tầng chứa nước lớn nhất đạt tới 25 m, trung bình
5 - 10 m và lưu lượng từ 0,1 - 0,7 l/s, mực nước giao động từ 1 - 2m. Tầng chứa
nước Thái Bình thuộc tầng nghèo nước, điều kiện thủy hóa phức tạp.Tuy nhiên,
với các dải nước ở Hưng Hà có ý nghĩa về cấp nước cho các hộ khai thác đơn
lẻ, mỗi giếng có thể đạt từ 40 - 60 m
3
/ngày, mặt nước tĩnh nông, gần mặt đất,
chất lượng khá.
+ Tầng chứa nước Hải Hưng được ngăn cách với tầng chứa nước Thái
Bình bởi lớp sét, có chiều sâu gặp từ 2 - 40m, chiều dày phát triển không đều.
6
Tầng được tạo bởi nhiều nguồn gốc trầm tích Sông - Biển; Biển - Đầm lầy, đất
đá chủ yếu là sét, bột cát, bột - sét lẫn cát, nhiều vỏ sò sinh vật biển. Tầng có lưu
lượng từ 0,025 - 0,59 l/s, mực nước giao động từ 0,5 - 1m. Tầng chứa nước Hải
Hưng thuộc tầng nghèo nước, chất lượng kém, phần lớn đều bị lợ đến mặn.
- Nguồn nước nóng ở xã Duyên Hải: Theo tư liệu của khoa sinh hóa
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cho biết tại vùng đất xã Duyên Hải ở độ
sâu 50m có nguồn nước nóng 50
0
C; ở độ sâu 178m có nguồn nước nóng 72
0

C.
Tuy trữ lượng chưa được xác định nhưng 6 năm gần đây chính quyền xã
Duyên Hải đã đưa vào quản lý giao cho tư nhân khai thác bằng máy khoan
bơm điện, bể chứa xử lý với mục đích cung cấp nước nóng phục vụ ngành
thủy sản nuôi giữ cá bố mẹ qua đông và đẻ sớm, đã góp phần cung cấp lượng
cá giống cho khu vực.
Nhìn chung, tài nguyên nước của huyện rất dồi dào, chất lượng nước
tương đối tốt, ít bị ô nhiễm vì thế có giá trị rất lớn trong việc phát triển kinh tế
xã hội và đời sống nhân dân, nếu được khai thác và sử dụng hợp lý sẽ đáp ứng
đủ nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, đời sống của
nhân dân giúp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của huyện.
1.2.3. Tài nguyên khoáng sản
Hưng Hà là huyện thuộc vùng đồng bằng ven biển, đất đai của huyện
được hình thành do quá trình bồi đắp của trầm tích biển nên tài nguyên khoáng
sản của huyện rất nghèo về trủng loại và ít về trữ lượng, chủ yếu là khoáng sản
cát lòng sông, đất sét trắng, gạch ngói, than nâu và sa khoáng.
Ngoài ra huyện còn phát hiện được mỏ nước nóng 57
0
C ở độ sâu 50m và
72
0
C ở độ sâu 178m thuộc xã Duyên Hải. Hai mỏ nước nóng này hiện đang
được đầu tư khai thác phục vụ chăn nuôi thủy sản, phát triển du lịch và chữa
bệnh cho nhân dân. Trong lòng đất huyện Hưng Hà nói riêng và tỉnh Thái Bình
nói chung còn có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng, được
đánh giá có trữ lượng lớn (toàn tỉnh Thái Bình có tới trên 30 tỷ tấn), nhưng
phân bố ở độ sâu 600 - 1000 m nên chưa đủ điều kiện về vốn, khoa học công
nghệ để khai thác.
1.2.4. Tài nguyên nhân văn
Hưng Hà là vùng đất có truyền thống văn hoá, truyền thống yêu nước và

cách mạng. Nhân dân Hưng Hà đã tạo dựng được nhiều công trình văn hóa có ý
nghĩa lịch sử như tôn miếu, lăng mộ nhà Trần, đền Tiên La,… gắn liền với các
công trình mang tính lịch sử đó là các danh nhân: Thái sư Trần Thủ Độ, "Nữ tướng
hậu cần" của nhà Trần - Trần Thị Dung, Bát Nạn Tướng Quân - Vũ Thị Thục
(tướng quân phá nạn cho dân - một nữ tướng của Hai Bà Trưng), bác học Lê Quý
Đôn Nhân dân trong huyện có tinh thần đoàn kết yêu quê hương, có đức tính cần
cù, chăm chỉ, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để vững bước đi lên. Đó là những
nhân tố cơ bản và sức mạnh tinh thần để hướng tới sự phát triển kinh tế xã hội,
7
trong xu hướng hội nhập với cả nước, khu vực và quốc tế; là thuận lợi để Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện vững bước đi lên trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng huyện giàu, đẹp, văn minh.
1.3. Thực trạng môi trường
1.3.1. Hiện trạng môi trường và nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
Hiện trạng môi trường của huyện nhìn chung còn trong lành, tuy nhiên
cũng đã xuất hiện một số nguy cơ gây ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái giảm tính
đa dạng sinh học như: một số khu dân cư như thị trấn Hưng Hà, thị trấn Hưng
Nhân,… có dân số tập trung cao, mật độ xây dựng lớn và các khu chợ dịch vụ, cơ
sở y tế có lượng chất thải nhiều nhưng lại chưa được thu gom và xử lý triệt để,
tập quán sử dụng các chất đốt dạng thô (than đá, củi, rơm rạ ), các sản phẩm
nhựa, nilon trong sinh hoạt của nhân dân, sử dụng các chế phẩm hoá học để trừ
sâu, diệt cỏ dại và phân hoá học trong sản xuất nông nghiệp, các chất thải trong
quá trình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, trong chăn nuôi
Trong những năm vừa qua; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng
nghề, các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà hàng đang làm ảnh hưởng lớn tới môi
trường của huyện; mặt khác trên địa bàn của huyện có 2 Bệnh viện Đa khoa
(Bệnh viện Đa khoa Hưng Hà và Bệnh viện Đa khoa Hưng Nhân), 01 Trung tâm
y tế, 35 Trạm y tế xã và các cơ sở y tế khác đang có nguy cơ phát sinh rác thải
nguy hại cần được quan tâm xử lý kịp thời. Đặc biệt đối với các cơ sở làng
nghề cần được quan tâm; như làng dệt nhuộm Phương La (xã Thái Phương),

khu vực bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu ở
xã Hòa Tiến đã gây ô nhiễm về môi trường rất nghiêm trọng. Theo ước tính, cả
xã Thái Phương có trên 90% hộ gia đình làm nghề dệt nhuộm với 7 công ty, xí
nghiệp dệt nhuộm, 20 tổ sản xuất kinh doanh, trong đó 12 cơ sở tẩy nhuộm xả
thải từ 1.000 - 1.500 m
3
/ngày đêm, hàm lượng chất rắn lửng, ôxy hóa, sulfua
vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 3 - 10 lần. Hầu hết các chất thải này đều xả
thẳng ra môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người dân.
Trong tương lai khi kinh tế phát triển sẽ hình thành các khu đô thị mới, khu
sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các trang trại chăn nuôi tập trung
với một lượng không nhỏ các chất thải công nghiệp, chăn nuôi, sinh hoạt không
thể tránh khỏi sẽ có tác động nhất định đến môi trường của huyện. Vì vậy, cần
phải dự kiến trước các biện pháp để kịp thời ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục ô
nhiễm, bảo vệ và phát triển bền vững các nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, môi
trường sinh thái trên địa bàn huyện.
1.3.2. Một số giải pháp bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện
- Khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đưa tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, tích cực trồng cây xanh, bảo vệ nguồn lợi thuỷ
sản, hạn chế và chấm dứt tình trạng dân sống rải rác tự phát không theo quy
hoạch. Xử lý nghiêm các hành vi huỷ hoại môi trường sinh thái.
8
- Có các giải pháp cơ bản lâu dài xử lý nước thải ở khu làng nghề, tiểu thủ
công nghiệp, các bệnh viện, hệ thống thoát nước các khu dân cư đặc biệt là các
khu dân cư đô thị.
- Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động môi trường đối với các dự
án đầu tư, các công trình, nghiên cứu ứng dụng các quy trình, giải pháp kỹ thuật
để ngăn ngừa xử lý ô nhiễm môi trường, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện
và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình bảo vệ môi trường.

Thực tế cho thấy song song với đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề
bảo vệ môi trường sống có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo cho sự phát triển kinh
tế - xã hội bền vững và lâu dài, đảm bảo đời sống tinh thần, vật chất và sức khoẻ
cho nhân dân. Để bảo vệ môi trường, trước hết là phải bảo vệ thảm thực vật, đồng
thời hạn chế suy thoái môi trường do biến động tài nguyên đất, tài nguyên nước,
hạn chế ô nhiễm môi trường đô thị, môi trường nông thôn. Có như vậy mới có thể
phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
2.1. Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Trong những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai song
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Uỷ ban nhân dân huyện, cùng với lợi thế về
tiềm năng thiên nhiên, nguồn lực con người, nền kinh tế của huyện Hưng Hà
đã dần đi vào hướng phát triển ổn định, đạt bình quân trong giai đoạn 2001-
2010
(1)
là 10,94%. Trong đó giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng 4,61%
(giai đoạn 2001-2010); giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng 18,21%
(giai đoạn 2001-2010); giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ tăng 9,62% (giai
đoạn 2001-2010).
2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Khu vực nông nghiệp - ngư nghiệp có tỷ trọng giảm đều trong cơ cấu giá trị
sản xuất của huyện từ 49,68% năm 2000 xuống còn 29,1% năm 2010.
- Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 31,17% trong cơ cấu giá trị sản
xuất năm 2000 lên 53,52% vào năm 2010.
- Khu vực thương mại, dịch vụ, chịu nhiều ảnh hưởng của biến động thị trường
giá cả song cơ cấu giá trị sản xuất đạt ở mức 17,39% vào năm 2010.
Nhìn chung, trong thời kỳ 2000 - 2010, cơ cấu kinh tế của huyện có sự
1
Theo Báo cáo chính trị số 152-BC/HU ngày 06 tháng 07 năm 2010 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần VIII

trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIV nhiệm kỳ 2010 – 2015. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
giai đoạn 2005-2010

là 13,06%; trong đó giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng 3,94%, giá trị sản xuất công
nghiệp – xây dựng tăng 21,13%, giá trị sản xuất thương mại – dịch vụ tăng 12,43%. Trung bình cả tỉnh tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005 – 2010 đạt 11%.
9
chuyển dịch đúng hướng, cơ cấu kinh tế thay đổi đều ở cả ba khu vực theo hướng
tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ và giảm
dần tỷ trọng ngành nông lâm - nghiệp. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch kinh tế hiện
nay diễn ra vẫn còn chậm, tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng thấp hơn
nhiều so với cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp.
2.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
2.2.1. Khu vực kinh tế nông nghiệp
Nhận thức được vai trò quan trọng của khu vực kinh tế nông nghiệp trong
việc ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế, trong thời gian qua, huyện đã có
nhiều chủ trương đầu tư cho các vùng sản xuất trọng điểm, triển khai ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra các hành lang cơ chế phù hợp
với điều kiện thực tế của địa phương nên ngành nông nghiệp, thuỷ sản của
huyện phát triển khá toàn diện.
2.2.1.1. Ngành sản xuất nông nghiệp
Năm 2010 giá trị sản xuất nông nghiệp - thủy sản đạt 888,9 tỷ đồng (giá
1994) tăng 327 tỷ đồng so với năm 2000 (561,9 tỷ đồng).
Biểu 01: Giá trị sản xuất và cơ cấu các phân ngành của khối ngành sản xuất
Nông nghiệp huyện Hưng Hà thời kỳ 2000 - 2010
(2)
Chỉ tiêu Đơn vị
Năm
2000
Năm

2005
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
- GTSX (giá 1994) Tỷ đồng
561,9
707 771 802,2 845,28 888,9
- Nông nghiệp
Tỷ đồng
541,9
667 724,4 753,2 788,96 831,1
- Thuỷ sản
Tỷ đồng
20
40 46,6 49 56,32 57,8
- Cơ cấu %
100
100 100 100 100 100
- Nông nghiệp
%
96,44
94,34 93,96 93,89 93,34 93,50
- Thuỷ sản
%
3,56

5,66 6,04 6,11 6,66 6,50
- Trồng trọt: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt (theo giá so sánh 1994) đã
tăng từ 418,1 tỷ đồng năm 2000 lên 516,5 tỷ đồng năm 2010.
2
Số liệu tổng hợp, điều tra từ phòng Tài Chính – Kế Hoạch huyện Hưng Hà
10
Biểu 02: Giá trị sản xuất và cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Huyện Hưng Hà thời kỳ 2000 - 2010
Chỉ tiêu Đơn vị
Năm
2000
Năm
2005
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
- GTSX (giá 1994) Tỷ đồng 541,9 667 724,4 753,2
788,9
6 831,1
+ Trồng trọt Tỷ đồng 418,1 483 483,1 490,9
498,6
6 516,5
+ Chăn nuôi Tỷ đồng
105
162 220,8 241,2 268,35 290,8

+ Dịch vụ nông nghiệp Tỷ đồng
18,8
22 20,5 21,1 21,95 23,8
- Cơ cấu % 100 100 100 100 100 100
+ Trồng trọt %
77,15
72,41 66,69 65,18 63,20 62,15
+ Chăn nuôi %
19,38
24,29 30,48 32,02 34,01 34,99
+ Dịch vụ nông nghiệp %
3,47
3,30 2,83 2,80 2,78 2,86
Ngành nông nghiệp phát triển lấy sản xuất lương thực làm trọng tâm, tích cực
phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi tiếp tục
có sự chuyển dịch tích cực, đúng hướng và đảm bảo sự phát triển bền vững, theo
hướng phát triển sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất cây màu vụ hè và hè thu
được coi trọng, diện tích bình quân 5 năm đạt 1.900 ha. Là huyện có truyền thống và
kinh nghiệm thâm canh sản xuất vụ đông, diện tích bình quân hàng năm đạt 6.500
ha, chiếm 50% diện tích đất canh tác; Cây đậu tương đã trở thành cây trồng chủ lực
trong sản xuất vụ đông. Giá trị sản xuất trồng trọt năm 2010 đạt 502 tỷ đồng, chiếm
56,85% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, trong đó giá trị sản xuất vụ đông
bình quân đạt 100,417 tỷ đồng, chiếm 20,3% so với tổng giá trị ngành trồng trọt.
Ngoài cây lúa, huyện đã thực hiện phát triển các loại cây ngắn ngày như:
cây ngô có diện tích 2.400 ha, năng suất bình quân đạt 53,72 tạ/ha, sản lượng
13.000 tấn; Khoai Lang có diện tích 650 ha, năng suất bình quân đạt 134 tạ/ha,
sản lượng đạt 8.600 tấn; Cây Lạc có diện tích 119 ha, sản lượng đạt mức 376 tấn.
Ngoài ra trên địa bàn huyện còn trồng thêm một số loại cây hoa màu khác như đỗ,
thuốc lào, rau các loại… cũng cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
- Chăn nuôi: Ngành chăn nuôi những năm qua đã có những tiến bộ rõ rệt,

đàn gia súc, gia cầm phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đàn gia súc, gia
cầm phát triển ổn định, công tác phòng chống dịch được chú trọng, tăng cường
kiểm soát giết mổ và kiểm dịch đại gia súc. Tổng đàn gia súc, gia cầm ước đạt
283.496 con, trong đó: Đàn trâu, bò 15.230 con; Đàn lợn 154.942 con; Đàn gia
cầm 1.448.500 con. Hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm có mức tăng trưởng
khá và ổn định trong giá trị sản xuất nông nghiệp.
2.2.1.2. Ngành thủy sản
Hiện tại, toàn huyện có tổng diện tích chuyên nuôi trồng thủy sản khoảng
1.357 ha, được phân bố ở tất cả các xã trên địa bàn huyện Giá trị sản xuất của
11
ngành năm 2010 đạt 57,8 tỷ đồng (giá cố định 94) tăng 17,8 tỷ đồng so với năm
2000 (40 tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 – 2010 là
8,90%/năm. Huyện có nhiều trang trại nuôi trồng thủy sản theo quy mô vừa và nhỏ.
Chủ trang trại từng bước đưa một số giống cá cho năng suất, sản lượng thu hoạch
cao, thời gian cho thu hoạch nhanh hơn, do đó tình hình sản xuất thủy sản toàn
huyện nhìn chung có xu hướng phát triển hơn nữa và đạt được những kết quả cao.
2.2.2. Khu vực kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng
Thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của nhà nước và chủ
trương của tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp của huyện đã từng bước phát triển. Giá trị sản xuất công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp năm 2010 đạt 1.629 tỷ đồng, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2005
và tăng 5,3 lần so với năm 2000 (307 tỷ đồng), với tỷ lệ lao động trong ngành công
nghiệp chiếm khoảng trên 40% trong các ngành. Huyện đã tập trung chỉ đạo thực
hiện việc xây dựng cụm công nghiệp - thương mại, dịch vụ xã, thị trấn theo Nghị
quyết 01 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, giữ vững 3 cụm công nghiệp ở 2 thị
trấn và xã Thái Phương với diện tích 72 ha và xây dựng mới 2 điểm công nghiệp ở
các xã Minh Tân, Điệp Nông với diện tích 19,4 ha và giao hơn 6 ha đất cho các dự
án đầu tư vào sản xuất tại các cụm, điểm công nghiệp và làng nghề nâng số dự án
đầu tư vào sản xuât CN - TTCN lên 160 dự án với tổng số vốn đầu tư là 480 tỷ đồng,
tăng 156,8% về số dự án và tăng 213,7% về vốn đầu tư so với năm 2005

(3)
.
Nhìn chung, ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp bước đầu phát
triển khá tốt, đã khai thác được tiềm năng thế mạnh của địa phương, vượt qua
những thử thách của cơ chế thị trường để đi vào ổn định và phát triển sản xuất.
Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng bình quân 16,06% năm. Năm 2010,
ước đạt 172 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2005. Công tác quy hoạch và thực
hiện quy hoạch được coi trọng. Công tác xây dựng cơ bản đã được triển khai
thực hiện đúng quy định, đảm bảo công khai dân chủ, tránh thất thoát, lãng phí,
phát huy tốt hiệu quả sử dụng, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhìn
chung các công trình được bố trí phù hợp, các thủ tục hồ sơ được chuẩn bị chu
đáo, công tác giám sát chặt chẽ nên chất lượng công trình được đảm bảo, các
công trình thi công đúng tiến độ theo kế hoạch.
2.2.3. Khu vực kinh tế dịch vụ - thương mại
Trong những năm qua, cùng với sự chuyển biến của các ngành sản xuất
vật chất, ngành dịch vụ - thương mại của huyện Hưng Hà đã có nhiều cố gắng
vươn lên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Giá trị sản xuất thương mại, dịch
vụ năm 2010 ước đạt 467 tỷ đồng, tăng 79,6% so với năm 2005.
3
Theo Báo cáo chính trị số 152-BC/HU ngày 06 tháng 07 năm 2010 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần VIII
trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIV nhiệm kỳ 2010 – 2015
12
Hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển đa dạng, hàng hoá tiêu dùng
phong phú, thị trường sôi động, đã hình thành hệ thống mạng lưới chợ rộng
khắp trên địa bàn tạo ra sự lưu thông hàng hoá theo cơ chế thị trường đạt hiệu
quả cao. Huyện đã xây mới, cải tạo được 6 chợ khu trung tâm và chợ nông thôn,
với kinh phí 7,8 tỷ đồng; quy hoạch khu đô thị và trung tâm thương mại tại thị
trấn Hưng Hà, tổ chức các hội chợ để quảng bá, giới thiệu và tìm kiếm đối tác
tiêu thụ sản phẩm.
Việc tuyên truyền, quảng bá về du lịch gắn với các giá trị văn hóa truyền

thống được chú trọng. Các dịch vụ bảo hiểm, vận tải, viễn thông… phát triển với
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và
đời sống .
Công tác quản lý thu, chi ngân sách từng bước đi vào nề nếp, cơ bản đảm
bảo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Nhiều địa phương, cơ quan,
đơn vị đã thực hiện công khai thu, chi tài chính, hạn chế tiêu cực trong quản lý,
sử dụng ngân sách. Tổng thu ngân sách toàn huyện bình quân đạt 277,6 tỷ
đồng/năm, trong đó thu trên địa bàn đạt 69,8 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách bình
quân đạt 273 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển 59 tỷ đồng, chiếm 21,6%
tổng chi ngân sách.
Dịch vụ vận tải: Hệ thống giao thông được nâng cấp và ngày càng hoàn
thiện đã tạo điều kiện cho dịch vụ vận tải phát triển, mở rộng sản xuất kinh
doanh đáp ứng nhu cầu sản xuất, mức lưu chuyển hàng hoá, hành khách tăng
đáng kể trong những năm gần đây
(4)
.
2.3. Dân số, lao động, việc làm, thu nhập
(5)
Do làm tốt công tác kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ, chăm sóc trẻ em luôn
được quan tâm. Giữ vững mức sinh thay thế, tỷ lệ sinh còn 1,4%. Tỷ lệ phát
triển dân số tự nhiên của Hưng Hà trong những năm vừa qua khoảng
0,95%/năm, chất lượng dân số và tuổi thọ bình quân ngày càng tăng.
Theo số liệu thống kê năm 2010, dân số toàn huyện là 258.168 người.
Trong đó, dân số thành thị là 21.440 người, chiếm 8,67% dân số toàn huyện.
Mật độ dân số toàn huyện là 1.234 người/km
2
(cao hơn mức trung bình của toàn
tỉnh là 1.154 người/km
2
). Dân cư tập trung đông ở các thị trấn và các làng nghề.

Về thực trạng giải quyết việc làm và thu nhập, huyện đã nhận thức rõ vai
trò quan trọng trong công tác giải quyết việc làm đối với người lao động, Đảng
bộ và chính quyền đã xây dựng và thực hiện tốt đề án giải quyết việc làm giai
đoạn 2006 - 2010, trong 5 năm qua đã giải quyết việc làm cho 28.039 người
(tăng 166% so với nhiệm kỳ trước); các cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp đều
4
Trong năm 2010, khối lượng vận chuyển hàng hóa của huyện đạt khoảng 1.800 nghìn tấn
5
Số liệu tổng hợp từ phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Hưng Hà.
13
quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động, số lao động qua đào tạo
đạt 19.743 người; tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 82,24%, tăng
4,2% so với năm 2005; bình quân giá trị sản xuất tính theo đầu người đạt 29,16
triệu đồng/ người năm 2010, tăng 18,76 triệu đồng/ người so với năm 2006.
Bảng 03: Dân số, lao động qua các năm
STT Chỉ tiêu
Đơn
vị
Năm
2006 2007 2008 2009 2010
1 Dân số trung bình Người 255.248 258.168 260.744 245.599 258.168
2
Dân số trong độ tuổi lao
động
Người
138.59
1
139.92
7
141.254 142.620 158.569

3 Số người được GQVL mới Người 2.150 6.141 7.120 6.128 6.500
4
Lao động trong độ tuổi có
VL
Người
118.77
8
124.63
4
130.82
9
135.68
9
150.799
5
Số lao động được đào tạo
nghề trong năm
Người 2.546 2.688 4.501 4.808 5.200
6 Tỷ lệ lao động chưa có VL % 14,3 11,0 7,4 5,0 4,9
2.4. Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn
2.4.1. Thực trạng phát triển đô thị
Huyện Hưng Hà có 2 thị trấn là thị trấn Hưng Hà và thị trấn Hưng Nhân. Cả 2
thị trấn đều nằm trên trục quốc lộ 39, có khả năng đô thị hóa nhanh và có điều kiện
thuận lợi phát triển kinh tế, xã hội với tổng diện tích đất đô thị (theo địa giới hành
chính) là 1.435,05 ha, chiếm 6,82% tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Diện
tích đất ở đô thị là 152,33 ha, chiếm 10,61% diện tích đất đô thị.
Trong những năm gần đây, hệ thống cơ sở hạ tầng của các thị trấn đã hình
thành và dần hoàn thiện, dáng vẻ hiện đại tập trung tại một số khu vực nội thị trấn,
nhất là dọc theo quốc lộ 39 và thường phát triển theo ven đường chính từ trung tâm lan
rộng ra xa.

Hạ tầng cấp, thoát nước đô thị: hệ thống thoát nước ở đô thị còn nhiều hạn
chế, hầu hết còn ở dạng tự chảy, chưa đảm bảo yêu cầu về thoát và xử lý nước
thải đô thị.
Hạ tầng cấp điện và viễn thông đô thị: cơ bản đáp ứng được nhu cầu sinh
hoạt cũng như sản xuất kinh doanh, bảo đảm cung cấp ổn định.
2.4.2. Thực trạng phát triển các khu dân cư nông thôn
Do đặc điểm hình thành và lịch sử phát triển, các khu dân cư nông thôn
trên địa bàn huyện được phát triển theo những hình thái khác nhau, tuỳ thuộc
vào điều kiện và mức độ phân bố trong từng khu vực. Các tụ điểm dân cư truyền
thống (như làng, xóm) được hình thành tập trung bên cạnh ở những nơi có giao
thông thuận tiện cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nhìn chung đời sống nhân
dân còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các lĩnh vực y tế, giáo dục.
14
Hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu kém, mặc dù đã được quan tâm đầu tư
song còn nhiều hạn chế do nguồn kinh phí hạn hẹp. Các tuyến đường giao thông
do địa phương quản lý hiện tại có nhiều đoạn đã xuống cấp, kích thước hình học
chưa đảm bảo tiêu chuẩn, phần lớn chỉ đạt tiêu chuẩn cấp IV, V, đường giao
thông nông thôn với 1 làn xe, nhiều đoạn đường chưa được rải đá, láng nhựa
hoặc bê tông hóa. Toàn huyện hiện chưa hoàn thiện hệ thống thu gom và xử lý
rác thải, thoát nước thải sinh hoạt chủ yếu là chảy tự do xuống các ao, hồ, sông
và thấm vào đất, đã phần nào gây ô nhiễm môi trường sống và đặc biệt gây ảnh
hưởng xấu đến chất lượng nguồn nước.
Các khu dân cư cũ ngày càng mở rộng, các khu dân cư mới đã bắt đầu phát
triển, đường điện và nước sinh hoạt đáp ứng được nhu cầu người dân. Tuy nhiên,
kiến trúc không gian khu dân cư còn bất hợp lý, chưa có hướng quy hoạch. Việc
xây dựng nhà ở hoàn toàn mang tính tự phát, không đảm bảo kiến trúc và mỹ quan.
Bình quân đất ở đạt 63,6 m
2
/người. Trong tương lai việc phát triển thêm
đất ở để đáp ứng nhu cầu là thực tế khách quan không thể tránh khỏi, nhưng cần

phải có sự điều chỉnh hợp lý các khu dân cư hiện có cũng như phải hạn chế tối
đa việc lấy đất nông nghiệp vào làm nhà ở nhất là những khu vực cho năng suất
cao. Đây là những vấn đề cần được quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế
lâu dài của huyện.
2.5. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng
Trong những năm qua, Huyện được Tỉnh và Trung ương tập trung hỗ trợ
giải quyết một số nhu cầu bức thiết về kết cấu hạ tầng, bổ sung nhiều năng lực
cho sản xuất, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân … mang lại những
khởi sắc quan trọng cho bộ mặt nông thôn.
Tuy vậy, việc huy động nội lực trong nhân dân để thực hiện các công trình
xây dựng cơ bản như kiên cố hoá trường học, kiên cố hoá thủy lợi, cứng hoá
đường giao thông nông thôn còn hạn chế.
2.5.1. Giao thông
* Giao thông đường bộ
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, hệ thống
giao thông huyện Hưng Hà đã được đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng, đã tạo
phần nào đáp ứng được nhu cầu đi lại và thông thương hàng hoá của nhân dân.
Nhìn chung mạng lưới giao thông trong huyện đến nay đã hình thành và phân bố
tương đối hợp lý. Tuy nhiên chất lượng đường giao thông vẫn còn thấp, nhiều
tuyến đường bị xuống cấp, còn nhiều tuyến giao thông chưa được nâng cấp, nên
đã ảnh hưởng lớn tới việc đi lại, vận chuyển hàng hoá của nhân dân, ảnh hưởng
lớn đến phát triển kinh tế xã hội của huyện.
15
- Quốc lộ: Có 1 tuyến Quốc lộ 39 chạy qua với tổng chiều dài 19,5 km, đi
qua Triều Dương nối với Hưng Yên. Hiện trạng đường thuộc đường cấp IV, V.
- Đường tỉnh: Có 4 tuyến với tổng chiều dài 44,1 km, bao gồm tỉnh lộ
452, 453, 454, 455. Các tuyến tỉnh lộ thuộc đường cấp IV và V.
- Đường huyện: Có 22 tuyến với tổng chiều dài 79,5 km, do huyện quản
lý. Các tuyến đường thuộc đường cấp IV và V.
- Hệ thống đường xã: Các tuyến đường do xã quản lý có tổng chiều dài

234,7 km.
- Hệ thống đường thôn xóm: Các tuyến đường do xóm quản lý có tổng
chiều dài 59 km.
Huyện Hưng Hà là một trong những địa phương cấp huyện có thành tích
tốt nhất trong cả nước về xây dựng cơ sở vật chất, với hệ thống điện, đường,
trường, trạm khá phát triển. Đến nay, mật độ trung bình cho các loại đường từ
đường xã trở lên đã đạt 2,12km/km
2
. Đường trục từ thị trấn huyện lỵ về các
trung tâm xã cơ bản đã được rải nhựa. Một số đoạn của tuyến đường đê và các
tuyến đường quan trọng phục vụ phòng, chống lũ bão đã được đầu tư xây dựng
kè đá, chống sạt lở.
Nhìn chung mạng lưới đường bộ của huyện phân bố tương đối đều trên
địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu với các vùng lân cận, nối liền
trung tâm của huyện với trung tâm các huyện trong tỉnh, từ trung tâm huyện đến
các xã. Song chất lượng đường còn ở mức thấp, cần tiếp tục đầu tư nâng cấp. Hệ
thống cầu cống được xây dựng ở nhiều giai đoạn khác nhau, nên sức tải trọng
khác nhau và nhiều cầu có tải trọng nhỏ không còn phù hợp với nhu cầu vận tải
hiện nay, cần thay thế cầu có tải trọng cao hơn.
* Giao thông đường thủy
Mạng lưới giao thông đường thủy trong huyện gồm có:
- Ba tuyến sông lớn do trung ương quản lý: Sông Hồng, sông Luộc, sông
Trà Lý có tổng chiều dài là 40,1km.
- Sông do tỉnh quản lý có 9 tuyến với tổng chiều dài 96,4 km (sông Tiên
Hưng 16,5 km, sông Sa Lung 12,4 km, sông Việt Yên 5km, sông Đô Kỳ 10 km,
sông Đào Thành 4,1 km, sông Lão Khê 5,1 km, sông 224, 223 và sông Tà Sa).
Hệ thống bến cảng trên các tuyến sông có 11 bến cảng, hầu hết các bến
cảng này đều có quy mô nhỏ, tự phát chưa có quy hoạch. Lượng tàu thuyền đi
lại tương đối lớn, chủ yếu là vận chuyển hàng hóa.
16

2.5.2. Thủy lợi
Hưng Hà là huyện nông nghiệp do đó việc xây dựng, nâng cấp các công
trình thuỷ lợi hàng năm là rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp.
Năm 2010 huyện đã nâng cấp, đào mới được các công trình thuỷ lợi, đảm bảo
phục vụ tưới trên 80% diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
Nhìn chung hệ thống thuỷ lợi ở huyện Hưng Hà mới chỉ đáp ứng cơ
bản về tưới, về tiêu nước phần nào còn hạn chế. Do đã khai thác, sử dụng từ
nhiều năm nên phần nào hệ thống thuỷ lợi của huyện đã bị xuống cấp. Huyện
đã tập trung gia cố hệ thống kênh chính, các hồ đập đã có, ngoài ra huyện đã
hỗ trợ và khuyến khích các xã thực hiện từng bước việc kiên cố hoá hệ thống
kênh mương.
2.5.3. Năng lượng, bưu chính viễn thông
- Năng lượng: Hưng Hà là một huyện có mạng lưới điện phát triển khá
sớm, mật độ lưới điện cao so với các huyện. Từ năm 1995, 100% số xã, thị trấn
trong huyện được sử dụng điện lưới. Trước năm 2005 nguồn điện cung cấp cho
Hưng Hà qua trạm 110KV/35KV/11KV Long Bối. Từ năm 2005 cho đến nay.
Trên địa bàn huyện đã xây dựng xong 1 trạm 110/35/10KV tại ngã tư La, dung
lượng máy biến áp 25 MVA, trạm này được cung cấp nguồn điện từ trạm
220KV/110KV Nguyên Xá, Đông Hưng, Thái Bình.
Tình trạng cung cấp điện trên địa bàn huyện khá ổn định, đảm bảo đủ
công suất, sản lượng theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện (có 98%
số hộ dân sử dụng điện lưới phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất, bình quân mỗi xã
có từ 4-5 trạm biến áp tiêu thụ các loại).
Tuy nhiên, một số vùng do lưới điện xây dựng khá lâu, phụ tải phát triển
quá nhanh nên chất lượng điện chưa được đảm bảo, nhưng nhìn chung tốc độ
tăng trưởng điện thương phẩm hàng năm vẫn tăng cao, tạo điều kiện thuận lợi
cho các ngành kinh tế phát triển tốt và có tốc độ phát triển nhanh.
- Bưu chính - Viễn thông:
Đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân;
duy trì phát hành báo các loại đảm bảo 100% các cơ quan, đơn vị, các xã, thị trấn

có báo đọc trong ngày; phát triển tổng số thuê bao điện thoại cố định trên địa bàn
toàn huyện đạt bình quân 11 máy/100 dân. Ngoài ra trên địa bàn huyện đã phủ
sóng các mạng điện thoại di động. Năm 2010, huyện đã làm thủ tục cấp phép cho
15 trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS). Đến nay trên địa bàn huyện có 72
trạm thu phát sóng thông tin di động, trong đó 67 trạm đã có giấy phép xây dựng.
Toàn huyện đã có 19 xã, thị trấn đã được cấp phép sử dụng tần số và khai
thác hệ thống Đài truyền thanh không dây, trong năm 2010 có 4 đài được xây
dựng mới là: Chi Lăng, Cộng Hòa, Hòa Bình, Chí Hòa.
17
2.5.4. Giáo dục - đào tạo
Đến nay toàn huyện đã có 148 cơ sở giáo dục, tăng 4 cơ sở so với năm
2005, với 57.862 học sinh, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của học
sinh và nhân dân trong huyện. Chất lượng giáo dục – đào tạo ngày càng được
nâng cao, chất lượng học sinh giỏi có chuyển biến tích cực. Bình quân 5 năm
2006 - 2010 có 78% học sinh tốt nghiệp THCS vào học THPT, tăng 17,8% so
với giai đoạn 2001 - 2005. Học sinh thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng,
Trung học chuyên nghiệp ngày càng tăng. Chất lượng đội ngũ giáo viên ngày
càng được nâng lên theo hướng chuẩn hóa. Đến năm học 2009 - 2010 có 1/5
trường THPT, 11/36 trường mầm non, 36/36 trường tiểu học, 17/34 trường
THCS đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 7 trường tiểu học và 1 trường mầm
non đạt chuẩn quốc gia mức độ 2. Công tác xã hội hóa giáo dục, hoạt động
của trung tâm học tập cộng đồng, góp phần quan trọng vào phát triển sự
nghiệp giáo dục – đào tạo.
2.5.5. Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
Trên địa bàn huyện có 2 Bệnh viện Đa khoa (Bệnh viện Đa khoa Hưng
Hà và Bệnh viện Đa khoa Hưng Nhân), 01 Trung tâm y tế, 35 Trạm y tế xã, với
trên 470 cán bộ trong ngành (tổng số bác sỹ trong toàn huyện là 84, trong đó
tuyến huyện có 70 bác sỹ, tuyến xã có 14 bác sỹ; có 386 cán bộ y tế thôn). Công
tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm đúng mức. Công tác y tế dự
phòng có nhiều cố gắng trong giám sát và quản lý tốt dịch bệnh; Bệnh viện

tuyến huyện đã khám chữa bệnh kịp thời cho nhân dân. Mạng lưới y tế cơ sở xã,
thôn không ngừng được củng cố và hoàn thiện; các chương trình y tế quốc gia
triển khai có hiệu quả. Năm 2010, có 23/35 xã đạt chuẩn y tế quốc gia, khám
điều trị cho 292,903 lượt người, trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh là
11.816 lượt trẻ. Công tác quản lý nhà nước về y tế và hành nghề y dược tư nhân
được chú trọng. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện quy chế về an toàn dược tại các
trạm y tế xã, thị trấn và các đại lý.
2.5.6. Văn hoá - thể dục thể thao và truyền thanh
Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, thể dục - thể thao, văn nghệ chào
mừng thành công Đại hội Đảng các cấp và kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước;
phát động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
Ngày 8/06/2010 UBND huyện đã tổ chức Hội nghị Tổng kết 10 năm thực
hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (2001-2010) và 4
năm thực hiện Đề án “Đẩy mạnh xây dựng gia đình, dòng họ, làng xã, cơ quan, đơn
vị văn hóa” giai đoạn 2006 - 2010. Tại Hội nghị này UBND huyện tặng giấy khen
và tiền thưởng cho 59 cơ quan, đơn vị; 14 thôn, làng; 22 dòng họ đạt danh hiệu văn
hóa năm 2009; 23 tập thể, cá nhân; 35 hộ gia đình đạt thành tích xuất sắc trong
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2001 - 2010.
18
Tổ chức tốt công tác tuyên truyền các hoạt động về lễ hội, phối hợp cùng
đội thông tin lưu động của Tỉnh tổ chức các đợt tuyên truyền về cơ sở các xã vùng
khó khăn. Trung tâm văn hoá hướng dẫn các hoạt động về cơ sở thông qua công
tác xây dựng các đội văn nghệ, các câu lạc bộ, phối hợp với các cơ quan, đơn vị,
thôn, xã để tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ. Mức hưởng thụ văn hoá của
nhân dân trong huyện có nhiều biến chuyển tích cực, số người được tham khảo
sách báo tăng nhanh.
Hoạt động truyền thanh - truyền hình được cải thiện, nâng cao chất lượng
tiếp, phát sóng các đài địa phương và trung ương đến từng thôn. Duy trì thường
xuyên chương trình trên đài huyện, kịp thời sửa chữa hệ thống loa truyền thanh và
loa FM ở các xã, thị trấn. Nâng tỷ lệ phủ sóng truyền thanh đạt 95 ÷ 100%, tỷ lệ

phủ sóng truyền hình đạt 90 ÷ 95%, các khu dân cư có loa truyền thanh đạt 100%.
Đối với hoạt động thể dục thể thao, tiếp tục duy trì cơ chế phối hợp với
phòng Giáo dục – đào tạo tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ và các hoạt động
thể dục - thể thao tại khối trường học. Chỉ đạo tổ chức các hoạt động thể dục –
thể thao chào mừng các ngày lễ lớn, đại hội Đảng bộ các cấp và các sự kiện
chính trị trọng đại diễn ra trong năm 2010. Tổ chức lực lượng tham gia đại hội
thể dục thể thao lần thứ VI của tỉnh chào mừng thành công Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIX. Duy trì tổ chức các lớp năng khiếu thể dục thể thao và hoạt động
bơi lặn trong lứa tuổi thanh thiếu niên.
2.5.7. Quốc phòng - An ninh
Công tác quân sự địa phương luôn được các cấp uỷ, chính quyền từ huyện
đến cơ sở quan tâm chỉ đạo. Tinh thần cảnh giác và nhận thức về nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh trong tình hình mới được nâng lên. Các phương án, kế hoạch
phòng thủ khu vực được chỉ đạo thường xuyên và bổ sung kịp thời. Phát huy
mạnh mẽ phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, kết hợp đẩy mạnh các
biện pháp tấn công, trấn áp tội phạm hình sự và các tệ nạn xã hội; nắm chắc tình
hình, điều tra, giải quyết kịp thời các vụ việc ngay từ khi mới phát sinh, không để
xảy ra điểm nóng…
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ
MÔI TRƯỜNG
3.1. Về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường
* Thuận lợi
Có vị trí nằm cách không xa Thành phố Thái Bình và thành phố Hưng
Yên, trên địa bàn huyện có QL39 và nhiều tuyến giao thông thủy bộ huyết mạnh
của tỉnh chạy qua là điều kiện thuận lợi tạo ra nhiều cơ hội cho huyện trong việc
giao lưu kinh tế, văn hóa, kinh tế chính trị và thu hút đầu tư.
Quỹ đất còn khá lớn để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhất là phát
triển sản xuất công nghiệp chế biến, đô thị, cơ sở hạ tầng.
19
Nguồn lao động dồi dào với trên 158 nghìn lao động trong độ tuổi, nhân

dân có truyền thống cần cù, sáng tạo là lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội.
* Khó khăn
Kết cấu hạ tầng được huy động đầu tư xây dựng, nâng cấp đã có nhiều
thay đổi về diện mạo nhưng còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông.
Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng của huyện chưa đồng bộ cũng tạo ra sức
ép lớn trong việc dành quỹ đất để mở rộng, nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới các
tuyến đường, cũng như các công trình công cộng trên địa bàn trong thời gian tới.
Hiện tại vấn đề ô nhiễm môi trường tuy chưa bị ảnh hưởng nhiều, song
cũng đã phần nào ảnh hưởng đến sản xuất, chất lượng cuộc sống và sức khoẻ
của nhân dân.
3.2. Về thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
* Những kết quả đạt được
Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện đang dần đi vào nề nếp là
bước chuẩn bị tốt cho sự phát triển những năm tiếp theo, chuyển đổi mạnh từ
nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp trong những năm tới, đẩy nhanh tốc
độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá trở thành huyện công nghiệp theo hướng hiện
đại đến năm 2020.
Kết quả nổi bật về phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ vừa qua:
- Huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao so với các huyện trong
tỉnh và được duy trì liên tục, đóng góp của huyện vào GDP của tỉnh ngày càng tăng.
- Phát huy được thế mạnh về điều kiện sản xuất nông nghiệp trong trồng
trọt và chăn nuôi, nhờ đó huyện đã đẩy nhanh được tốc độ phát triển kinh tế, xoá
đói giảm nghèo đồng thời đóng góp vào thành tựu phát triển nông nghiệp, đảm
bảo an ninh lương thực và kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản của cả tỉnh.
- Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong huyện ngày càng được
nâng lên. Mức sống của nhân dân từng bước được cải thiện, tính tới tháng 8 năm
2010 thu nhập bình quân đạt 9,9 triệu đồng/người/năm. Nhiều chủ trương, chính
sách và chương trình quốc gia về phát triển lĩnh vực văn hoá - xã hội được thực
hiện đạt kết quả tích cực như giảm nghèo, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng,

thực hiện phổ cập giáo dục, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư.
- Cải cách hành chính, đổi mới cơ chế chính sách quản lý được đẩy mạnh,
vai trò quản lý Nhà nước được củng cố và ngày càng phát huy hiệu quả, góp
phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
huyện thời kỳ vừa qua.
20
- Nhiệm vụ quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội trong điều kiện đặc thù của huyện đa dạng về văn hoá, tôn giáo được thực
hiện tốt, bảo đảm môi trường ổn định để phát triển kinh tế - xã hội.
* Những hạn chế cần khắc phục
Phát triển công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn hạn chế, thiếu các nhà
máy có quy mô sản xuất lớn, hiện đại đóng vai trò thúc đẩy mạnh phát triển công
nghiệp và tạo ra nhiều việc làm cho lao động ở địa phương.
Sự nghiệp phát triển văn hoá - xã hội đạt nhiều kết quả tiến bộ, song chưa
tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của huyện và chậm so với nhịp độ công
nghiệp hoá - hiện đại hoá của cả tỉnh. Một số chỉ số phát triển về quy mô và chất
lượng các mặt như giáo dục, đào tạo, y tế còn thấp hơn so với mức bình quân
chung của cả tỉnh.
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua cùng với sự gia
tăng dân số, mật độ phân bố dân cư không đồng đều, mức độ sử dụng đất trong
từng khu vực khác nhau đã tạo nên những áp lực đối với đất đai của huyện. Trong
giai đoạn từ nay đến năm 2020, cùng với thực hiện các chính sách hợp lý khuyến
khích đầu tư phát triển các ngành kinh tế; từng bước xây dựng, cải tạo và hoàn
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng… theo dự báo trong tương lai sức ép đối với sử dụng
đất của huyện ngày càng có tính cấp thiết, cần xác định lại cơ cấu sử dụng đất, bố
trí sử dụng đất theo kết quả quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt.
Từ thực trạng phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có những bước đi đột
phá để tránh tụt hậu và bắt nhịp được với sự phát triển chung của tỉnh Thái Bình
cũng như của cả nước. Những yêu cầu khách quan đòi hỏi phải có những thay đổi
đáng kể trong việc bố trí lại quản lý và sử dụng đất trong toàn huyện.

Trong những năm tới, sản xuất nông nghiệp được chuyển mạnh sang sản
xuất hàng hóa, đảm bảo an ninh lương thực và nguyên liệu công nghiệp tại chỗ.
Nhu cầu quỹ đất để phát triển công nghiệp, dịch vụ, phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng (giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, văn hoá, thể thao…) là rất lớn. Những
nhu cầu đó đòi hỏi phải có những hoạch định, chính sách và biện pháp sử dụng
đất cụ thể, khoa học, chính xác nhằm thoả mãn những nhu cầu phát triển kinh tế,
nhu cầu nơi ăn chốn ở và đời sống văn minh tinh thần của dân cư, an ninh quốc
phòng trên địa bàn huyện.
21
PHẦN II
TÌNH HÌNH QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
I. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển nền kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống của nhân dân trong huyện đã từng bước
được cải thiện, bộ mặt đô thị và nông thôn đã có nhiều thay đổi, nhu cầu sử dụng đất
cho các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt cho xây dựng cơ sở hạ tầng và nhà ở, khu buôn bán
nhỏ và hệ thống chợ phát triển. Kết quả bước đầu đạt được như sau:
1.1. Tình hình thực hiện các văn bản pháp quy
Nhằm cụ thể hoá các quy định về công tác quản lý đất đai của Chính phủ
cũng như của tỉnh Thái Bình, huyện đã ban hành một số quyết định, văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn triển khai đến các xã, thị trấn và các đơn vị
quản lý sử dụng đất trên địa bàn huyện cũng như các văn bản được ban hành
phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, làm cơ sở để quản lý và chỉ đạo
thực hiện công tác quản lý đất đai ngày càng tốt hơn.
1.2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính
Thực hiện Chỉ thị 364/CT-HĐBT ngày 06/11/1991 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) về việc hoạch định địa giới hành chính ở cả 3 cấp tỉnh,
huyện, xã. Đến nay đã hoàn thành việc phân định ranh giới hành chính giữa các
xã trong huyện và với các huyện trong tỉnh. Hiện tại huyện có 35 đơn vị hành

chính cấp cơ sở, trong đó có 33 xã và 02 thị trấn. .
1.3. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập bản đồ địa chính,
bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất
Công tác khảo sát, đánh giá, phân hạng đất của huyện được triển khai khá
tốt, cơ bản đáp ứng được mục tiêu của ngành. Việc đánh giá, phân hạng đất đã
được thực hiện trên hầu hết diện tích đất nông, lâm nghiệp tạo cơ sở cho việc định
giá, thu thuế, đền bù, bồi thường về đất đai. Hàng năm UBND tỉnh Thái Bình đều
đã ban hành bảng giá các loại đất để làm cơ sở tính thuế chuyển quyền sử dụng
đất, thực hiện công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bảo đảm các quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất trên địa bàn huyện.
Từ năm 2001 đến nay đã tập trung biên tập bản đồ hành chính phục vụ
nhu cầu của các cơ quan trong huyện, xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất
năm 2010 cấp xã, huyện, bản đồ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện
đến năm 2010, cấp xã đến năm 2015; biên tập các bản đồ chuyên đề cho các
ngành: Nông nghiệp, Thuỷ sản
Đo đạc lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1/1000 là 7.985,82 ha (ở tất cả các xã,
thị trấn trong huyện) và tỷ lệ 1/2000 là 13.042,86 ha.
22
1.4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của huyện cũng như
quy hoạch cấp xã, thị trấn được lập theo đúng quy định theo từng giai đoạn.
Việc lập kế hoạch sử dụng đất đã được các cấp các ngành nhận thức rõ tầm quan
trọng trong công tác quản lý và dần đi vào nề nếp, hàng năm UBND các xã, thị
trấn lập kế hoạch sử dụng đất trình UBND huyện phê duyệt. Việc giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đều thực hiện
theo kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Hiện tại việc sử dụng đất của một số ngành trên địa bàn huyện còn lãng
phí, chồng chéo thiếu đồng bộ, chưa được quan tâm đúng mức về kiến trúc
không gian cảnh quan môi trường.
1.5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục

đích sử dụng đất
Thực hiện Nghị định 64/CP, ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc giao
đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích
sản xuất đất nông nghiệp; Nghị định 88/CP, ngày 17/8/1994 của Chính phủ về
quản lý và sử dụng đất đô thị; Nghị định 84/2008/NĐ-CP, ngày 25/5/2008 của
Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị
định 60/CP, ngày 5/7/1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất ở tại đô thị; Nghị định 85/CP ngày 17/12/1996 của Chính phủ quy
định việc thi hành Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và Chỉ thị 245/TTg, ngày 22/4/1996 của
Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm
2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Đến nay toàn bộ diện tích trên địa
bàn huyện đã được khai thác sử dụng, cụ thể:
+ Tổng diện tích đất giao cho hộ gia đình cá nhân là 15.566,34 ha
+ UBND xã Quản lý, sử dụng 1.599,15 ha
+ Tổ chức kinh tế sử dụng 99,55 ha
+ Tổ chức khác sử dụng 75,66 ha
+ Cộng đồng dân cư sử dụng 44,85 ha.
23
1.6. Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Việc đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính được thực
hiện theo đúng quy định pháp luật. Kết quả cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định từ năm 1993 đến năm 2010 tổng số giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp là 9.784 giấy (diện tích cấp được là 565,43 ha), đạt khoảng
59,76% diện tích phải cấp giấy.
Nhìn chung trong giai đoạn tới khối lượng giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất cần phải cấp cho các loại đất trên địa bàn huyện là khá lớn, đặc biệt là
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất cho các tổ chức.
1.7. Công tác thống kê, kiểm kê đất đai
Được sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên
và Môi trường và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Bình công tác thống kê,
kiểm kê đất đai trên địa bàn huyện được triển khai khá tốt và đồng bộ. Chất lượng
của công tác thống kê, kiểm kê đất đai đã từng bước được nâng cao, đất đai của
huyện đã được thống kê hàng năm theo quy định của ngành. Huyện đã thực hiện
tốt công tác kiểm kê đất đai định kỳ 5 năm theo chỉ thị số 28/2004/CT-TTg ngày
15/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ; Thông tư số 28/2004/TT-BTNMT ngày
01/11/2004.
Hoàn thành công tác thống kê, kiểm kê đất đai năm 2005 và công tác kiểm
kê quỹ đất công theo Chỉ thị 31/2007/CT-TTg ngày 14/12/2007 của Thủ tướng
Chính Phủ. Hiện nay đã hoàn thành công tác kiểm kê đất đai năm 2010 theo Chỉ thị
618/CT-TTg ngày 15/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn toàn huyện.
Nhìn chung, chất lượng công tác kiểm kê, thống kê về đất đai đã được nâng
cao dần, tình trạng bản đồ, số liệu về đất đai thiếu hoặc không khớp giữa các năm,
các đợt thống kê, kiểm kê từng bước được hạn chế.
1.8. Tình hình quản lý tài chính về đất đai
Huyện trong những năm qua đã thực hiện tốt công tác quản lý tài chính về
đất đai trong việc cấp quyền sử dụng đất, cho thuê quyền sử dụng đất, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
1.9. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất
Trước đây, công tác quản lý đất đai của các cấp chính quyền trong huyện
đã có phần bị buông lỏng; vai trò quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa được quan tâm đúng mức. Đây là nguyên
nhân sâu xa dẫn đến kết quả thực hiện một số nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất
đai không cao, trong đó có công tác lập quy hoạch sử dụng đất, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.

24
Công tác thi hành các quy định pháp luật về đất đai đã được quan tâm,
bảo đảm thực hiện ngày càng nề nếp và đi vào ổn định. Tuy nhiên vẫn còn nhiều
hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến cố gắng, vai trò và hiệu quả của công tác
quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
1.10. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật
về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai
Uỷ Ban Nhân Dân huyện đã tổ chức các đợt thanh tra theo các Chỉ thị số
77/TTg và 247/TTg của Thủ tướng Chính phủ, thanh tra việc giao đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ở cơ sở, thanh tra sử dụng đất của các doanh
nghiệp, thanh tra quản lý nhà nước về đất đai đối với cấp xã
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành và xử lý các vi phạm pháp
luật về đất đai không chỉ giúp phát hiện và giải quyết các vi phạm pháp luật về
đất đai mà qua đó còn là dịp để tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân
về luật đất đai, giúp các nhà làm luật hiểu sâu sắc hơn sự phức tạp của mối quan
hệ đất đai, từ đó có chính sách điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn quản lý.
1.11. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các
vi phạm trong quản lý và sử dụng đất đai
Hàng năm trên địa bàn huyện xẩy ra từ 20 - 30 vụ khiếu nại tố cáo về đất
đai với nội dung chủ yếu về chính sách bồi thường khi nhà nước thu hồi đất giải
phóng mặt bằng và tranh chấp đất đai của các hộ gia đình cá nhân và đã được
giải quyết triệt để.
II. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT VÀ BIẾN ĐỘNG CÁC LOẠI ĐẤT
2.1. Phân tích hiện trạng sử dụng các loại đất
Theo số liệu thống kê đất đai tính đến ngày 01/01/2011, huyện có
21.028,68 ha đất tự nhiên, chiếm 12,96% so với diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh.
Trong đó, xã Hồng Minh có diện tích tự nhiên lớn nhất 898,40 ha, chiếm 4,27 %
tổng diện tích tự nhiên toàn huyện; xã Hòa Bình có diện tích tự nhiên nhỏ nhất
341,17 ha, chiếm 1,62% tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện. Bình quân diện
tích tự nhiên trên đầu người đạt 0,09 ha/người.

25

×