Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Copy of b6 mối quan hệ thầy thuốc bệnh nhân (edit)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.27 KB, 18 trang )

MỐI QUAN HỆ THẦY THUỐC – BỆNH NHÂN
I.
II.

III.

IV.
V.

VI.

Tổng quan về mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân
Đặc điểm tâm lý và phẩm chất người thầy thuốc
1. Tâm lý thầy thuốc
a. Trạng thái tâm lý
b. Hiệu ứng gương soi
c. Kiệt sức (burn out)
d. Cơ chế phòng vệ
2. Các phẩm chất
a. Tri thức và kỹ năng
b. Tơn trọng và giữ kín bí mật của bệnh nhân
c. Đạo đức nghề nghiệp
d. Có trách nhiệm
e. Đồng cảm, chia sẻ nỗi đau với bệnh nhân
3. Thái độ của người thầy thuốc:
a. Chấp nhận gặp bệnh nhân
b. Lưu tâm đến “sự không hiểu biết” của bệnh nhân
c. Quan tâm đến hoàn cảnh sống của bệnh nhân
d. Tơn trọng giới hạn của mình và của bệnh nhân
e. Cung cấp, chia sẻ thơng tin/ chẩn đốn/ tiên lượng cho bệnh nhân và
thân nhân


4. Những lợi ích và khó khăn của người thầy thuốc
Đặc điểm tâm lý người bệnh
1. Phản ứng tâm lý khi đối diện với căn bệnh và quá trình mắc bệnh
a. Cảm thấy mất an toàn
b. Nhạy cảm
c. Sợ hãi, lo âu
d. Mặc cảm về bệnh tật của mình
e. Phủ nhận bệnh
f. Bình tĩnh cùng thầy thuốc tìm phương thức điều trị (phản ứng tích
cực)
g. Suy sụp tinh thần
h. Trầm cảm
2. Nhu cầu tâm lý của bệnh nhân
Tầm quan trọng của buổi tiếp xúc đầu tiên
Cấu trúc buổi tiếp xúc
Các kênh quan hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc
1. Quan hệ cảm xúc
2. Quan hệ theo quyền lợi và nghĩa vụ
3. Quan hệ thông qua giao tiếp
Khó khăn trong quản lý chăm sóc
1. Duy trì mối quan hệ
2. Thời gian dành cho bệnh nhân ít
3. Bệnh nhân và người thầy thuốc mất niềm tin vào nhau
1


VII.

4. Bệnh nhân giảm lòng tin đối với dịch vụ y tế
Kết luận


MỤC TIÊU
1. Hiểu được tầm quan trọng của mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân.
2. Trình bày được đặc điểm tâm lý và phẩm chất của người thầy thuốc
3. Trình bày đặc điểm tâm lý của bệnh nhân
4. Trình bày cấu trúc của một buổi thăm khám
5. Trình bày các kênh quan hệ giao tiếp giữa bệnh nhân và thầy thuốc
6. Ứng dụng những hiểu biết vào thực tiễn
I.

Tổng quan
Mối quan hệ thầy thuốc và bệnh nhân đã được triết học, xã hội học, văn học từ
thời Hippocrates quan tâm và là chủ đề của nhiều bài báo, sách và các cơng
trình nghiên cứu trên thế giới. Đây là mối quan hệ đặc biệt mang tính chun
mơn giữa người bị bệnh và người chữa bệnh được xây dựng trên cơ sở nhân
đạo và trách nhiệm của người thầy thuốc đối với sức khỏe con người và là yếu
tố quyết định trong vấn đề chăm sóc người bệnh. Mối quan hệ này là một trong
những cách thức của việc tập hợp các dữ liệu, chẩn đoán và lên kế hoạch điều
trị, sự tuân thủ điều trị, sự chữa lành bệnh, sự kích hoạt bệnh nhân và các điều
kiện hỗ trợ. Sự hài lòng của bệnh nhân trong mối quan hệ này là một yếu tố
quan trọng để người dân quyết định tham gia điều trị trong hệ thống y tế. Giúp
người dân có cuộc sống thoải mái về sức khỏe thể chất và tinh thần.
Trước đây đối tượng của thầy thuốc chỉ đơn thuần là bệnh tật thì ngày nay, đối
tượng của người thầy thuốc là con người với căn bệnh của họ. Có nghĩa là con
người cụ thể với những tâm tư tình cảm, suy nghĩ, nguyện vọng, hoàn cảnh
sống và căn bệnh mà họ đang mang. 
Do mỗi con người có một nhân cách riêng nên sự nhận thức, thái độ và hành vi
thể hiện của mỗi người là khác nhau khi có cùng một căn bệnh. Giữa cơ thể và
nhân cách có sự thống nhất và chế ngự lẫn nhau rất phức tạp. Vì vậy, nó có
phần nào ảnh hưởng đến sự tiến triển bệnh và kết thúc bệnh. Nhân cách một

2


người cũng có thể thay đổi khi người đó mắc một căn bệnh; ví như người bệnh
tim mạch, tiểu đường, ung thư…tính tình có thay đổi so với trước khi họ biết về
căn bệnh của mình. Người bệnh là người đang có rối loạn về thích nghi sinh
học, đau khổ với căn bệnh, họ có cảm giác bị phụ thuộc vào bệnh. Do đó, người
làm cơng tác chăm sóc sức khỏe cần nuôi dưỡng một mối quan hệ tin tưởng với
người bệnh để họ có niềm tin vào người chăm sóc, tuân thủ điều trị tốt hơn.
Khi người bệnh vào viện, nhất là ở lần đầu tiên, họ đặt hết niềm tin vào hệ
thống y tế nơi họ đến. Đây là yếu tố thuận lợi cho hiệu quả điều trị. Vì vậy
ngồi kiến thức chun mơn, người thầy thuốc cần chú ý đến chất lượng thăm
khám và thái độ phục vụ. Sự mất lòng tin nơi người bệnh đối với thầy thuốc dễ
lây lan sang người nhà của họ, những người bệnh khác và hệ quả là họ sẽ không
muốn trở lại bệnh viện lần sau. V.M. Betcherep nói rằng “Nếu sau khi được
thăm khám và trò chuyện với thầy thuốc mà người bệnh khơng thấy dễ chịu hơn
thì người đó chưa phải là thầy thuốc”. Vì vậy trên cùng một người bệnh với
cùng một phương pháp điều trị giống nhau nhưng người thầy thuốc tạo được
mối quan hệ tin cậy thì hiệu quả điều trị sẽ tốt hơn rất nhiều.
II.

Khía cạnh tâm lý và phẩm chất của người thầy thuốc
1. Tâm lý người thầy thuốc:
Mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân là mối quan hệ đặc biệt. Người thầy
thuốc nắm tồn bộ sức khỏe, tính mạng của người bệnh, cịn người bệnh
chịu sự chi phối hồn tồn từ người chữa bệnh. Vì vậy, người thầy thuốc
có thể có một số đặc điểm tâm lý:
a. Các trạng thái tâm lý:
-


Tự tin và tự tôn: Tự tin là trạng thái cần thiết trong quan
hệ chăm sóc mà hệ quả của nó là việc thực thi các hành
động chăm sóc, đây là mặt tích cực của sự tự tơn.
Sự tự tơn là tơn cao giá trị bản thân, có nguy cơ xuất hiện
khi thầy thuốc thể hiện sự hiểu biết của mình trước bệnh
nhân, những con người xa lạ trong mơi trường y khoa và
3


các thuật ngữ chuyên môn, không thể hiểu những điều thầy
thuốc muốn chuyển tải.
Để tránh sự tự tôn, người thầy thuốc nên dành thời gian để
giải thích bệnh, kế hoạch điều trị bằng những từ rõ ràng và
đơn giản.
-

Bất lực: trái ngược với tự tơn. Bất lực có thể có khi người
thầy thuốc đối diện với một số bệnh nan y hoặc căn bệnh
đưa đến tử vong.
Sự bất lực có thể dẫn đến hai hậu quả :
+ Mệt mỏi, tuyệt vọng (« tơi khơng làm gì được cả »)
+ Thúc đẩy người chăm sóc làm nhiều hơn, tình trạng
tăng động.
Trong cả hai trường hợp, người thầy thuốc chỉ được giải
tỏa với sự nâng đỡ của các đồng nghiệp hoặc với các nhà
chuyên môn khác nếu có thể.

-

Chịu trách nhiệm: Trước cái chết của một bệnh nhân,

trước sự bất lực để chẩn đoán hay điều trị khơng hiệu quả,
người thầy thuốc có thể cảm thấy chịu trách nhiệm thậm
chí mặc cảm tội lỗi. Nhưng thầy thuốc không phải là thần
thánh nên không thể luôn luôn ngăn cản được cái chết và
quản lý tất cả những việc ngồi khả năng của mình. Vì thế,
cần thiết giữ một “khoảng cách gần vừa đủ” (trấn an và
thấu hiểu) để bảo vệ mình khỏi những xúc động quá mãnh
liệt làm ảnh hưởng đến công việc.
Những cảm xúc đi kèm với trạng thái này là: sự thông cảm,
lo lắng, sợ hãi, gắn bó, giận dữ, phiền muộn.

-

Chán nản: Phương tiện vật chất khơng đầy đủ, giờ giấc gị
bó, số lượng bệnh nhân cần chăm sóc q lớn, mơi trường
4


làm việc áp lực, cảm giác thất bại, không được biết ơn và
kính trọng, phiền muộn...về lâu dài tạo nên tâm trạng chán
nản.
Những cảm xúc đi kèm theo tâm trạng này là: sự mệt mỏi,
mất hứng thú, căng thẳng, tuyệt vọng, sợ hãi, tức giận thậm
chí chán ghét.
-

Thỏa mãn/hài lịng: Thầy thuốc cũng có thể cảm thấy hài
lịng về mình khi thiết lập được một mối quan hệ tốt với
bệnh nhân, hoặc thành cơng trong việc chữa khỏi bệnh
hoặc có tiến bộ và cải tiến kỹ năng của mình.

Những cảm xúc đi kèm theo sự thỏa mãn/hài lòng là vui
mừng, n lịng, năng động, độ lượng, nồng nhiệt, thơng
cảm, tình bằng hữu.

.

Người thầy thuốc không nhất thiết phải né tránh những trạng thái
này, nhưng cần phải cân bằng cảm xúc để khơng làm ảnh hưởng
đến mối quan hệ giữa mình với bệnh nhân.
Khi gặp khó khăn, người thầy thuốc có thể nhờ sự hỗ trợ từ đồng
nghiệp, nhóm nâng đỡ (nhóm Balint), từ đào tạo bổ sung, thơng
tin qua sách hoặc tạp chí chun mơn.
b. Hiệu ứng gương soi: Một số bệnh nhân mà người thầy thuốc tiếp
xúc, phản chiếu những tình huống gần giống như những gì bản
thân người thầy thuốc đã trải nghiệm. Nó như là một tấm gương
soi. Vì vậy, những tình huống ở thời điểm hiện tại của bệnh nhân
đã kích hoạt lại những yếu tố gây đau khổ cho người thầy thuốc
trong quá khứ, làm sống dậy những cảm xúc trước kia. Chúng ta
gọi đây là hiện tượng cộng hưởng. Ví dụ người thầy thuốc đã từng
rất đau buồn vì sự ra đi của mẹ do chứng bệnh tiểu đường. Chứng
kiến cái chết cũng vì căn bệnh tiểu đường ở một bệnh nhân nữ lớn

5


tuổi, nỗi đau mất mẹ của người thầy thuốc trước kia nay lại trỗi
dậy, gây cho người thầy thuốc nỗi đau khổ và xúc động mạnh.
c. Hội chứng kiệt sức nghề nghiệp (Burn out) do sự tác động từ nỗi
lo âu và sợ hãi của bệnh nhân, của gia đình họ, hay của chính bản
thân người thầy thuốc khi cơng việc hàng ngày tiếp xúc với người

bệnh, cái chết, nỗi đau… làm người thầy thuốc mệt mỏi về thể xác
lẫn tinh thần.
Sự mệt mỏi thể hiện bằng những suy nghĩ ám ảnh, giận dữ, hoang
mang, khơng có khả năng suy nghĩ, mất nhận thức cảm xúc, các
triệu chứng tâm thể như suy nhược, rối loạn ăn uống, đau lưng,
nhức đầu…
Do đó, để tránh nguy cơ cảm thấy bị xâm chiếm tâm lý bởi bệnh
nhân hoặc từ chối bệnh nhân, người thầy thuốc cần giữ khoảng
cách gần vừa đủ.
d. Cơ chế phịng vệ:
Mọi tình huống lo lắng đều kéo theo cơ chế tâm lý có chức năng
làm cho người chăm sóc thích nghi. Cơ chế đó có khuynh hướng
bảo vệ người chăm sóc khỏi một thực tế quá đau đớn và khơng
chịu đựng nổi. Những cơ chế phịng vệ là vơ thức và có mục đích
làm giảm căng thẳng và lo lắng, nhưng nó khơng giúp người thầy
thuốc giải quyết vấn đề mà càng làm cho mối quan hệ bác sĩ-bệnh
nhân khó khăn, gây hiểu lầm và cuối cùng, duy trì sự đau khổ của
cả hai bên.
Chúng được thể hiện bằng những hành vi mà Martine Ruziewski
đã liệt kê ra:
- Nói dối: là sự cải đổi thực tế vì tình huống thực tế quá đáng
sợ - nó phản chiếu lại sự lo hãi của bản thân không thể đối
thoại với bệnh nhân.
- Bình thường hóa là làm giảm tầm quan trọng của vấn đề, chỉ
tập trung vào một phần của sự thật.
6


- Lảng tránh nội dung là chuyển hướng cuộc trò chuyện bằng
cách nói về điều gì khác ... nó khơng đem lại một câu trả lời

thích hợp cho các câu hỏi của bệnh nhân.
- Tránh né bao gồm sự tránh tiếp xúc và gặp gỡ. Trong trường
hợp này, bằng cách nào đó người thầy thuốc phủ nhận sự hiện
diện của người bệnh.
- Trốn chạy trước là sự mất kiểm soát, khơng kiềm chế được
lời nói: Thầy thuốc nói ngay lập tức tất cả mọi thứ cho bệnh
nhân mà khơng có sự suy xét.
- Sự đồng hóa phóng chiếu: trong trường hợp này người thầy
thuốc thay thế cho bệnh nhân và phóng chiếu trên bệnh nhân
một số khía cạnh của chính bản thân - đây là một loại không
phân biệt giữa bản thân và bệnh nhân.
- Việc trấn an giả nhằm che đậy thực tế, đó là một lối thốt
tạm thời.
- Sự hợp lý hố dùng ngơn ngữ kỹ thuật rất chun mơn, làm
bệnh nhân thấy khó hiểu và tăng tính chất bí mật của bệnh.
- Sự cười nhạo: khác với sự hài hước, chúng xuất phát từ cử
chỉ ruồng bỏ đối với bệnh nhân.
2. Các phẩm chất:
a.

Tri thức và kỹ năng: Người thầy thuốc được đào tạo để phục
vụ và chăm sóc sức khỏe cho con người. Vì vậy, người thầy thuốc
phải có kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý, giải phẫu, cấu trúc,
chức năng… của một người bình thường trên cơ sở đó mà nắm
vững những những rối loạn bệnh lý và cách phịng chống. Do đó,
phải thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và và kỹ năng
nghề nghiệp.

b.


Đạo đức nghề nghiệp : Người thầy thuốc phải
-

Luôn yêu nghề,

-

Thương người,
7


-

Nhân từ, khiêm tốn,

-

Tơn trọng và đồn kết với đồng nghiệp,

-

Tận tụy và có trách nhiệm với cơng việc.

-

Tơn trọng và giữ kín bí mật của bệnh nhân: Người thầy
thuốc được bệnh nhân tin tưởng và chia sẻ những thông tin
bí mật thầm kín cũng như hợp tác với thầy thuốc, cho phép
thầy thuốc thăm khám trên cơ thể họ thậm chí những nơi
kín đáo nhất. Do đó thầy thuốc phải giữ bí mật và khơng

lợi dụng sự tin tưởng của bệnh nhân để trục lợi

Danh y Hải Thượng Lãng Ông (1720 - 1791) đã từng nói “Đạo
làm thuốc là nhân thuật bảo vệ sinh mạng con người, phải lo
cái lo của người, vui cái vui của người, lấy nhiệm vụ cứu sống
sinh mạng người làm nhiệm vụ thiêng liêng của mình: khơng
nên cầu lời, kể cơng. Nghề thuốc là nghề thanh cao, phải giữ
Đức cho trong sáng, giữ lòng cho sạch sẽ, làm ơn không mong
đền đáp, thấy lợi đừng nhúng tay vào. Phải cẩn thận giữ gìn
phẩm chất của mình đừng để người đời khinh rẻ”.
c.

Có trách nhiệm với bệnh nhân: người thầy thuốc phải đem hết
khả năng, trình độ, phương tiện sẵn có để phục vụ người bệnh.
Người thầy thuốc phải:
-

Chẩn đoán đúng rối loạn mà bệnh nhân mắc phải.

-

Thiết lập niềm tin với bệnh nhân

-

Tiên lượng được những diễn biến của rối loạn khi được
điều trị hoặc khơng điều trị

-


Chọn phương pháp điều trị thích hợp với từng người bệnh
và từng bệnh sao cho hiệu quả điều trị nhanh nhất.

d.

Đồng cảm, chia sẻ nỗi đau với bệnh nhân: Sự đồng cảm thể

hiện qua năm yếu tố:
-

Phản ánh lại (reflection)
Ví dụ: “Anh/chị cảm thấy lo lắng bởi triệu chứng
này?”
8


-

Hợp thức hóa (legitimation)
Ví dụ: “Tơi có thể hình dung sự khó chịu của anh/chị là
như thế nào”

-

Tơn trọng (respect)
Vídụ: “Anh/chị đã làm những điều tốt nhất để đối phó
với nó”

-


Hỗ trợ (support)
Ví dụ: “Tơi muốn giúp đỡ anh/chị”

-

Cộng tác (partnership)
Ví dụ: “Có lẽ chúng ta sẽ làm việc về vấn đề này một
thời gian”

3. Thái độ của người thầy thuốc:
Người thầy thuốc không chỉ quan tâm đến bệnh tật mà còn phải để ý đến
con người đang bị bệnh. Để có được điều đó, phải:
a. Chấp nhận gặp bệnh nhân: Có nghĩa trong tư thế lắng nghe bệnh nhân.
Sự lắng nghe này nằm trong giao tiếp bằng lời và không lời (quan sát
lâm sàng thái độ, phản ứng của bệnh nhân v.v.....)
b. Lưu tâm đến sự « khơng hiểu biết » của bệnh nhân: Bệnh nhân
thường không biết về thế giới y khoa với các từ chuyên môn, kỹ
thuật... Điều quan trọng là cần lưu tâm đến những câu hỏi, nỗi
lo lắng mà bệnh nhân cảm nhận trước bệnh tật và sự chăm sóc.
c. Quan tâm đến hồn cảnh sống của bệnh nhân: Bệnh nhân là đàn
ông/ đàn bà/ phụ huynh/ hoặc trẻ nhỏ, sống một mình hoặc với gia
đình, có việc làm hoặc thất nghiệp… Điều quan trọng là người
thầy thuốc đặt con người đó trở lại trong tiểu sử cá nhân của
họ để nắm bắt được bệnh xảy ra trong hồn cảnh nào và những
hậu quả có thể có trong cuộc sống của họ.
VD: bệnh nhân trên 50 tuổi bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế, ở một
mình, khơng nghề nghiệp, sống vất vả bằng tiền thừa kế ít ỏi từ
mẹ.
9



d. Tơn trọng giới hạn của mình và của bệnh nhân: Nhiệm vụ của
nhân viên y tế là chữa trị đau đớn về thể chất và đôi lúc là tâm lý
cho bệnh nhân. Tuy nhiên, khả năng chứa đựng đau khổ của
người khác ở người chăm sóc có giới hạn. Điều cần thiết là người
thầy thuốc phát hiện khi nào nỗi đau khổ của người khác trở nên
quá nặng nề đối với mình và có nguy cơ làm giảm chất lượng
chăm sóc.
Bệnh nhân cũng có giới hạn của họ về khả năng tin tưởng hoặc
bộc lộ những khó khăn.
Biết rằng một số thông tin rất cần để thiết lập kế hoạch điều trị
như chuyện quá khứ, tuổi tác,… nhưng người chăm sóc cần tránh
những câu hỏi q riêng tư, ví dụ như: “Tại sao ông chia tay với
bà xã?”
e.

Cung cấp và chia sẻ thơng tin/ chẩn đốn/ tiên lượng cho bệnh
nhân và thân nhân: Trao đổi với bệnh nhân và gia đình họ các giai
đoạn của kế hoạch chữa trị để thiết lập một mối quan hệ tin tưởng.
Tuy nhiên, nếu bệnh nhân yêu cầu không cung cấp tin tức về bệnh
của họ cho gia đình, ta phải tơn trọng.
Việc tiếp xúc với người nhà bệnh nhân giúp thầy thuốc thu thập
tiểu sử, bệnh sử, thông tin về nhân cách người bệnh một cách
khách quan.
Tìm người có ảnh hưởng nhất với bệnh nhân, người có quyền
quyết định về q trình điều trị để cùng họ trao đổi, hỗ trợ thầy
thuốc giải quyết những vấn đề liên quan đến người bệnh.

4. Những lợi ích và khó khăn của người thầy thuốc :
a. Lợi ích : Người làm cơng tác chăm sóc sức khỏe làm việc để

-

Phục vụ giá trị của lòng vị tha, bao dung, tinh thần
đồn kết ;

-

Phục vụ một mục đích chính đáng;

10


-

Cho cuộc sống của mình một ý nghĩa;

-

Để làm người có ích ;

-

Để làm việc trong mối quan hệ với người khác ;

-

Do lịng trung thành với gia đình;

-


Để cố gắng hàn gắn lại câu chuyện q khứ của chính
mình;

-

Để đạt được một địa vị xã hội;

-

Một vị thế quyền lực;

-

Để có một cơng việc cố định;

-

Có một mức lương ổn định….

Biết được lợi ích của người chăm sóc sẽ giúp các bạn tìm được nguồn
trợ lực và động cơ trong những lúc khó khăn.
b. Khó khăn (trạng thái tâm lý bất lợi cho mối quan hệ điều trị)
-

Cảm giác thất bại, bất lực, đôi khi vô dụng, hay cảm giác
phi lý;

-

Căng thẳng, stress (khơng có thời gian để chăm sóc như

các bạn muốn);

-

Khơng được thừa nhận (việc được nhìn nhận là nhu cầu cơ
bản , Maslow);

-

Ấm ức, thất vọng;

-

Giá trị bản thân bị hạ thấp bởi bệnh nhân, bởi cấp trên, bởi
gia đình hay bởi chính mình;

-

Trở nên hung dữ với người khác : bệnh nhân, gia đình, ê
kíp, hay tự gây hấn với chính bản thân mình : cơ thể hóa,
trầm cảm (khi khơng được nhìn nhận đủ);

-

Các xung đột, những hiểu lầm (do thiếu giao tiếp, thiếu sự
chuyển tải thông tin trong ê-kíp);

-

Lo âu và lo hãi của bệnh nhân, của gia đình, hay của chính

bản thân mình;

-

Nỗi đau về thể xác của bệnh nhân;

11


III.

-

Hiệu ứng gương soi ;

-

Mệt mỏi về thể xác ;

-

Mệt mỏi về tinh thần ;

-

Kiệt sức vì nghề nghiệp (hội chứng Burn Out).

Đặc điểm tâm lý của bệnh nhân:
1. Đối diện với căn bệnh và trải qua quá trình mắc bệnh, thường bệnh
nhân có những phản ứng tâm lý:

a. Cảm thấy mất an toàn: Người bệnh xem thầy thuốc là niềm hy vọng
cuối cùng của họ. Họ tạm thời bỏ tính độc lập của mình và lệ thuộc
vào thầy thuốc, sự lệ thuộc càng nhiều khi bệnh càng nặng, chỉ giảm
dần và mất đi trong quá trình hồi phục và khỏi bệnh. Bệnh nhân dễ
rơi vào trạng thái “còn nước còn tát”, “phước chủ may thầy”,… dẫn
đến nhận thức và hành vi cực đoan trong đời sống nếu người thầy
thuốc không đủ khả năng chi phối niềm tin bệnh nhân và thân nhân
bệnh nhân.
b. Rất nhạy cảm với biến đổi của bản thân và với các tác nhân bên
ngoài: Người bệnh nhạy cảm với những biến đổi ngay trong bản thân
do trạng thái căng thẳng, không ổn định về mặt cảm xúc (cáu gắt, nơn
nóng, tủi thân,…). Họ cảm thấy đau nhức, mệt mỏi, yếu đuối và nghĩ
rằng mình đang bị bệnh nặng; họ rất nhạy cảm với những điều không
vừa ý trong việc khám bệnh, tiêm thuốc, uống thuốc, cho ăn uống và
các chăm sóc khác,… Lúc này, lời nói và thái độ của người thầy
thuốc dễ tác động đến trạng thái của người bệnh.
c. Sợ hãi, lo âu về triệu chứng và tiến triển bệnh.
d. Mặc cảm về bệnh tật của mình
e. Phủ nhận bệnh (đối với những bệnh nhân loạn thần), khơng chấp
nhận mình có bệnh.
f. Bình tĩnh cùng thầy thuốc tìm phương thức điều trị (phản ứng tích
cực)
12


g. Suy sụp tinh thần: bệnh nhân mất hết nhuệ khí, ln than vãn. Nhiều
người khơng cịn khả năng làm việc thơng thường, rơi vào trạng thái
suy sụp hồn tồn.
h. Trầm cảm: là phản ứng thường gặp nhất. Người bệnh luôn buồn rầu,
đau khổ về bệnh tật, họ sống trong trạng thái khơng có tương lai và

thường kèm theo mất ngủ, mệt mỏi.
2. Nhu cầu tâm lý của bệnh nhân:
-

Có quyền được chăm sóc và giúp đỡ.

-

Có quyền yêu cầu đến kỹ thuật, kiến thức và kinh nghiệm
của người thầy thuốc. Vì bệnh nhân khơng thể tự chữa cho
mình ngay khi họ là người làm nghề thầy thuốc.

-

Có quyền được nghỉ ngơi trong q trình điều trị bệnh

-

Có trách nhiệm tuân thủ điều trị, trừ trường hợp phải điều
trị bắt buộc đối với bệnh nhân loạn thần, hôn mê, cấp cứu.

IV.

Tầm quan trọng của buổi tiếp xúc đầu tiên:
Buổi tiếp xúc đầu tiên giữa bệnh nhân và thầy thuốc đóng vai trò quan trọng
trong hiệu quả của việc khám và chữa trị bệnh. Người bệnh chỉ có thể bộc lộ
những thơng tin về bệnh và về họ khi có niềm tin đối với thầy thuốc. Do vậy,
người thầy thuốc phải trang bị cho mình những kiến thức và kỹ năng, bộc lộ
những phẩm chất của người thầy thuốc là giỏi chun mơn và hết lịng vì bệnh
nhân.

Qua buổi tiếp xúc, người thầy thuốc phải đưa ra được chẩn đoán, hướng điều trị,
theo dõi và tiên lượng tiến triển bệnh. Dù vậy, nhiều trường hợp cần theo dõi mới
có thể đưa ra chẩn đoán hoặc cần sự hỗ trợ cận lâm sàng.
Cấu trúc một buổi thăm khám bệnh được hợp thành bởi 14 yếu tố:
14 yếu tố cấu trúc của buổi thăm khám
1. Chuẩn bị không gian thăm khám
2. Chuẩn bị chính mình
3. Quan sát bệnh nhân
13


4. Đón chào bệnh nhân
5. Bắt đầu cuộc trị chuyện
6. Chấp nhận và vượt quan rào cản về giao tiếp
7. Có cái nhìn tổng qt về vấn đề của bệnh nhân
8. Thương lượng những vấn đề nào là ưu tiên
9. Phát triển chủ đề câu chuyện
10. Thiết lập hoàn cảnh sống của bệnh nhân
11. Thiết lập mạng lưới an toàn
12. Tìm kiếm và lựa chọn những gì xảy ra trong hiện tại
13. Thảo luận các kế hoạch điều trị
14. Kết thúc cuộc nói chuyện
Tuân thủ và sử dụng hiệu quả các yếu tố cấu trúc của các cuộc thăm khám:
-

Người thầy thuốc cho bệnh nhân một cảm giác họ đã được lắng nghe và được
bày tỏ mối quan tâm lớn của họ, cảm thấy được tôn trọng, quan tâm, đồng cảm;
họ cung cấp thơng tin, nói lên bằng sự hiểu biết của mình về bệnh mà khơng bị
phê phán; được thể hiện cũng như phản ánh những cảm xúc bằng ngôn ngữ của
họ về câu chuyện của bản thân.


-

Thời gian khám bệnh không quan trọng so với nhận thức của bệnh nhân rằng
họ đang tập trung và đang hiểu một cách chính xác.
Người thầy thuốc giải thích cho bệnh nhân về bệnh tật của họ, cho bệnh nhân
thông tin và kế hoạch điều trị.

V.

Các kênh tiếp xúc trong mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân:
1. Kênh cảm xúc: chuyển cảm (transfer) và chống chuyển cảm
(contransfer)
Chuyển cảm phản chiếu cách thức quan hệ mà bệnh nhân được cha mẹ
hoặc những người trong gia đình chăm sóc trong q khứ. Ví dụ: bệnh
nhân là người được mẹ bảo bọc khi còn nhỏ, chờ bác sĩ trấn an và bảo
vệ như là một người mẹ. Vì trong quá khứ, anh ta có cảm giác an tồn
khi có mẹ bên cạnh.
14


Có hai loại chuyển cảm:
– Chuyển cảm tích cực: hình ảnh, cảm xúc thân thiện, giúp bệnh nhân
có sự mến phục và kính trọng thầy thuốc. Trong trường hợp này, thầy
thuốc đáp ứng sự mong đợi của bệnh nhân và có khi được cảm thấy là
một thầy thuốc hồn hảo.
– Chuyển cảm tiêu cực: hình cảnh, cảm xúc ngờ vực, tạo ác cảm đối
với thầy thuốc. Ví dụ: “khi tơi thấy ơng bác sĩ cịn q trẻ, quần áo
khơng chỉnh tề, tôi cảm thấy nghi ngờ về khả năng chuyên môn của
ông ta”

Chống chuyển cảm: tâm trạng của thầy thuốc đối với bệnh nhân (tội
nghiệp, lịng trắc ẩn, chán ngấy,…)
Có hai loại chống chuyển cảm:
– Chống chuyển cảm tích cực: thái độ thiện cảm, nhiệt tình với bệnh
nhân. (thấu cảm, tội nghiệp,…)
– Chống chuyển cảm tiêu cực: thái độ thiếu thiện cảm, bối rối hoặc
xâm phạm bệnh nhân của người thầy thuốc. (chán ngấy, khiêu khích,
…). Chống chuyển cảm tiêu cực có thể biểu hiện nhiều thái độ khác
nhau như từ chối lắng nghe bệnh nhân vì vội quá hoặc có khoảng
cách với những bệnh nhân khó chịu.
Thầy thuốc cần xác định phản ứng của mình và phản ứng của bệnh
nhân để hiểu rõ hơn điều gì tác động lên mối quan hệ thầy thuốc –
bệnh nhân và cải thiện sự trải nghiệm của mỗi người.
Chuyển cảm
BN

Thầy thuốc
Phản chuyển cảm

2. Kênh quyền lợi và nghĩa vụ: quy định cho thầy thuốc và bệnh nhân.
Công việc khám bệnh của người thầy thuốc cần được tiến hành thường
xuyên, kỹ lưỡng, tránh qua loa, hời hợt. Thỉnh thoảng cần tổ chức những
buổi thăm hỏi ngoài giờ làm việc, tạo cảm nghĩ tốt cho bệnh nhân rằng
15


mình ln ln được quan tâm, chú ý. Thầy thuốc, chủ yếu phải gây
được lòng tin nơi bệnh nhân, tăng cảm xúc tích cực của bệnh nhân, tăng
tác dụng tâm đắc của các phương pháp điều trị. Thầy thuốc cần thể hiện
là tấm gương về lòng nhân đạo, phục vụ tận tụy, hy sinh, có tình cảm

thương u, tơn trọng bệnh nhân.
Muốn có sự chăm sóc tồn diện cho sức khỏe bệnh nhân, người thầy
thuốc cũng như bệnh nhân đều cần phải cáng đáng trách nhiệm của mình
trong cơng cuộc trị bệnh và phòng bệnh bằng thuốc men cũng như thay
đổi cần thiết trong nếp sinh hoạt.
3. Kênh giao tiếp:
Điều đặc biệt trong giao tiếp này là người thầy thuốc thường giữ vai trị
chủ đạo. Mỗi lời nói, hành vi của người thầy thuốc đều tác động mạnh
lên tâm lý người bệnh. Nếu người thầy thuốc biết gây thiện cảm, biết
khơi dậy mọi tiềm năng của người bệnh, hiểu thấu những suy tư trong
lòng họ…và đưa ra những lời khuyên hợp lý thì quá trình điều trị sẽ gặp
nhiều thuận lợi.
Trường hợp do thầy thuốc thiếu cân nhắc, thiếu thận trọng trong lời nói,
hành vi, tạo nên những phản ứng tâm lý trái ngược với mong đợi kết quả
điều trị, gây tác hại cho người bệnh. Vì vậy, đây là nghệ thuật mà người
thầy thuốc phải rèn luyện.
Năng lực giao tiếp của người thầy thuốc thể hiện ở thái độ, hành vi giao
tiếp, biết cách gợi mở, hướng dẫn để khai thác thông tin về người bệnh,
lôi cuốn sự hợp tác của bệnh nhân, làm hài lòng bệnh nhân và thân nhân
của họ
Có hai loại: giao tiếp có lời và khơng lời.
Giao tiếp bằng lời: tất cả những gì liên quan đến lời nói. Tác động của
lời nói lên tâm lý và cơ thể: lời nói chữa bệnh, lời nói gây ra bệnh,…
-

Động viên khuyến khích như: “à”, “vâng”

-

Phản ánh lại cảm xúc của bệnh nhân. Ví dụ: “Tơi thấy rằng từ

những gì anh/ chị vừa nói thì anh/chị rất lo lắng cho sức khỏe của
mình và tương lai của con cái”. “Có phải anh/chị cho rằng…..?” 16


nói lại những điều người bệnh vừa nói để chắc chắn rằng mình đã
hiểu đúng ý của họ.
Giao tiếp khơng lời: cử chỉ và thái độ (bắt tay chào), bắt chước (nét
mặt: nụ cười, nhăn mặt; ánh nhìn: chau mày, ánh nhìn thống qua), chạm
vào (cách lấy nhiệt, tiêm vắcxin, …), các tư thế cơ thể (thư giãn, căng
cơ), khoảng cách (đến thật gần hoặc giữ một khoảng cách với người
khác), ngữ điệu của giọng nói,...tất cả những gì cơ thể biểu hiện. Trong y
khoa, thoạt đầu ta có thể nghĩ là giao tiếp bằng lời là quan trọng nhất. Ta
có thể tự nhủ: điều quan trọng là cung cấp thông tin rõ ràng về căn bệnh
cho bệnh nhân, chẩn đốn bệnh, và giải thích cho bệnh nhân phải điều trị
như thế nào. Tuy nhiên nếu giao tiếp bằng lời không được kết hợp với
giao tiếp không lời một cách phù hợp thì nó sẽ khơng có hiệu quả như
mong muốn. Ví dụ: Mặc dù người thầy thuốc dành thời gian để giải thích
cho bệnh nhân về căn bệnh của họ nhưng thái độ của ông tỏ ra vội vàng
như nhìn đồng hồ, thỉnh thoảng thở dài, cau mày, nhìn ra cửa (nơi cịn
nhiều người bệnh đang chờ).… Trong tình huống này, sự cố gắng giải
thích bằng lời của người thầy thuốc khơng có tác dụng vì điều người
bệnh nhận thấy là thái độ của chính người thầy thuốc. Họ sẽ cảm thấy
ngại ngùng vì mình đã làm phiền, họ chú ý nhiều đến hành vi của người
thầy thuốc hơn là những lời giải thích và dặn dị, và tất nhiên là họ sẽ
không nhớ hết những điều người thầy thuốc đã nói. Vì thế, khi ra khỏi
phịng khám họ cảm thấy ấm ức và sẽ tìm đến người thầy thuốc khác.
Như vậy, cả hai đều mất thời gian
VI.

Khó khăn trong việc quản lý chăm sóc:

1. Duy trì mối quan hệ: những mối quan hệ thăm khám không được duy trì với
một bác sĩ mà là với nhiều bác sĩ.
2. Thời gian dành cho bệnh nhân ít do bệnh nhân đông đã làm giảm đi hiệu quả
của sự giao tiếp.
3. Bệnh nhân tự cho mình có quyền định đoạt khi bỏ tiền ra để trị bệnh. Họ
trông chờ vào việc “đáng đồng tiền, bát gạo”, trong khi đơn vị quản lý bệnh
viện khuyến khích các bác sĩ giới hạn chi phí và mức độ sử dụng phục vụ.
17


Sự mong chờ không được đáp ứng làm giảm đi sự tin cậy của bệnh nhân đối
với bác sĩ và ngược lại, thái độ phi lý của bệnh nhân tạo cảm giác khó chấp
nhận nơi bác sĩ. Kết quả việc thăm khám mang nặng tính hành chánh, hơn là
tìm kiếm những giải pháp chuyên môn để giải quyết vấn đề.
4. Chế độ đãi ngộ của đơn vị quản lý y tế dành cho người thầy thuốc.
.
VII.

Kết luận

Mối quan hệ giữa người thầy thuốc và bệnh nhân là mối quan hệ nhân đạo giữa người
với người. Để tạo được một quan hệ tốt với người bệnh nhằm nâng cao chất lượng khám
và điều trị, người thầy thuốc cần phải xác định phản ứng của mình và phản ứng của bệnh
nhân để hiểu rõ hơn điều gì tác động lên mối quan hệ giữa người chăm sóc và người được
chăm sóc để cải thiện sự trải nghiệm của mỗi người.
Tìm hiểu thơng tin người bệnh khơng chỉ là căn bệnh mà cịn tìm hiểu về tiểu sử, nhân
cách, hồn cảnh sống của người đó…
Niềm tin của người bệnh đối với người thầy thuốc cũng như hệ thống y tế sẽ giúp việc
điều trị đạt hiệu quả cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. A.V.Kvaxencô, Iu.G.Dubakarep, (1980), Tâm lý bệnh nhân, NXB Y học Hà Nội,
NXB Mr Maxcơva.
2. Anthony Yeo, (2005), Bàn tay giúp đỡ-cách đối phó với nan đề, NXB Trẻ
3. Beverley Mc.Namara, (2001), Fragile Lives: Death, Dying and Care, Crows Nest,
N.S.W: Allen & Unwin.
4. Nguyễn Thị Mỹ Châu (Chủ biên), (2011), Giáo trình Tâm lý Y khoa, Đại học Y
Khoa Phạm Ngọc Thạch, Bộ môn Tâm thần-Tâm lý Y Khoa.
5. Vũ Đức (2009), Mục vụ cho bệnh nhân, NXB Tôn Giáo
6. Võ Văn Bản (2002), Thực hành điều trị tâm lý, NXB Y Học
7. S.D.Gold & M.Lipkin, The doctor- patient relationship, internet,
/>
18


19



×