Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Phân Tích Luận Điểm Và Liên Hệ Bản Thân “Đảng Ta Là Một Đảng Cầm Quyền. Mỗi Cán Bộ Đảng Viên Phải Thực Sự Thấm Nhuần Đạo Đức Cách Mạng.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.57 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
-------------🙥🙥🕮🙧 🙧-------------

BÀI TẬP LỚN
Môn Học: Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Lớp học phần:
Tư tưởng Hồ Chí Minh_01
Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Thùy Linh
Họ và tên:
Phạm Việt Hoàng
Mã sinh viên:
112201614
Lớp sinh viên: Kinh Doanh Thương Mại 62A
Đề Tài:
Phân tích luận điểm và liên hệ bản thân: “Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, phải cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư, phải
giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân

HÀ NỘI


MỤC LỤC

PHẦN I: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM
2
I.CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM


Cơ sở lý luận
Cơ sở thực tiễn

2
2
4

II.NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM
6
III.Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM.
12
IV.LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM
13
TIỂU KẾT
18
PHẦN II: LIÊN HỆ BẢN THÂN
19
KẾT LUẬN

23


PHẦN I: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM

I.CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM
1. Cơ sở lý luận
1.1. Tính tất yếu và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
+ Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Sự hình thành Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa xã hội
khoa học và phong trào cơng nhân.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung
thành của nhân dân”; rằng, Đảng phải “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ
trung thành của nhân dân”.
1.2.1. Đảng là đạo đức, là văn minh.
+ Đạo đức:
● Mục đích hoạt động của đảng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người; vì cuộc sống hịa bình, ấm no, hạnh phúc thực sự
của nhân dân.
● Đảng ln trung thành với lợi ích tồn dân tộc vì Đảng khơng có mục
đích riêng, mọi hoạt động của Đảng đều vì lợi ích nhân dân.
● Đội ngũ đảng viên phải luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước.
+ Văn minh:
● Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc
● Đảng ra đời là một tất yếu, phug hợp với quy luật phát triển văn minh tiến
bộ của dân tộc và nhân loại.
● Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử nhân dân
giao phó.
● Đảng cầm quyền hoạt động trong khn khổ Hiến pháp và pháp luật.


● Đảng viên là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong cơng tác và
cuộc sống hàng ngày.
● Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động vì hịa bình, hữu nghị, hợp
tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
1.2.2. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng.
● Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam

cho hành đồng.
● Tập trung dân chủ.
● Tự phê bình và phê bình.
● Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
● Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn.
● Tròn tác phẩm sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh nêu lên 12 điều, trong
đó có Điều 9: “ Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất
hăng hái” và Điều số 10: “ Đảng phải ln ln tẩy bỏ những phần tử hủ
hóa ra ngoài”
● Đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
● Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân.
● Hồ Chí Minh nói: “ Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng, mà
phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trị, nếu khơng, quần
chúng sẽ đá đít”
● Đồn kết quốc tế.
1.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
● Tuyệt đối trung thành với Đảng.
● Đạt lợi ích của Đảng lên trên hết vì lợi ích của Đảng là lợi ích của dân
tộc, của Tổ quốc.
● Chăm chỉ thự hiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương nghị quyết của
Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.
● Luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng.
● Luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt.
● Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân
● Luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo.
● Ln ln phịng và chống các tiêu cực.


● 1969, Bài báo của Hồ Chí Minh “ Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân” được đăng trên báo Nhân dân để chỉ ra các vấn

đề tư cách, đạo đức, chống sự suy thoái trong đảng viên
● Trong di chúc, Hồ Chí Minh viết “ Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho học, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “ hồng” và “chuyên”.

2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Đảng lãnh đạo nhân dân giành độc lập
● Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,chí cơng vơ
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xây dựng Đảng ta xứng
đáng là một người lãnh đạo, là một người đầy tớ trung thành của nhân
dân.
● Trước hết trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một
đảng cầm quyền”. Đó là một lời khẳng định, sự nhắc nhở mà toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta phải ghi nhớ và thực hiện. Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân ta liên tiếp thực hiện và giành thắng lợi nhiều
cuộc cách mạng, giành độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc. Đó
là sứ mệnh lịch sử mà cũng là cơng lao của Đảng, không thể phủ nhận.
● Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), với đường lối cách
mạng đúng đắn, mục tiêu cách mạng rõ ràng, phương thức đấu tranh phù
hợp, sức mạnh của toàn dân tộc được phát huy cao độ.
● Trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể, Đảng đã có những khẩu hiệu phù
hợp để tập trung được đơng đảo lực lượng nhất, có tinh thần đoàn kết cao
nhất để tạo thành sức mạnh lớn nhất. Nhờ đó, Đảng đã làm nên cuộc
Cách 2 mạng Tháng Tám long trời lở đất, chẳng những giải phóng nhân
dân ta khỏi ách nơ lệ, thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam châu Á, mà cịn mở màn cho phong trào giải phóng khỏi ách thực
dân cũ của các dân tộc trên toàn thế giới.
● Tiếp đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai cuộc kháng chiến,
nước ta “có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai

đế quốc to – là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào
giải phóng dân tộc”.
● Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của một đảng cầm quyền, nhân dân ta đã
giành thắng lợi vang dội trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trở thành


biểu tượng cho ý chí quật cường, được nhiều dân tộc trên thế giới học tập.
Thắng lợi trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam là động lực để nhiều
nước châu Phi (trong đó “năm châu Phi” – năm 1960, năm mà 17 nước
châu Phi giành được độc lập, được xem là cột mốc quan trọng, đánh dấu
sự cáo chung của phương thức khai thác thuộc địa kiểu cũ), châu Mỹ
Latinh vùng dậy, phá tan xích xiềng nơ lệ, góp phần chấm dứt chế độ thực
dân cũ trên toàn thế giới và giáng những địn chí tử vào chủ nghĩa thực
dân mới.
● Chính vì vậy, Đảng ta xứng đáng là một đảng cầm quyền và phải giữ cho
được vị thế là một đảng cầm quyền. Đó là sự khẳng định của Hồ Chí
Minh, khơng phải cho bản thân mình, mà cho đồng bào và lớp lớp đồng
chí đã khơng quản ngại hy sinh đi theo Đảng, một lòng một dạ trung
thành với Đảng. Từ bỏ vai trị cầm quyền chính là phủ định cơng lao của
đồng bào, đồng chí và chiến sĩ đã chiến đấu vì mục tiêu cao đẹp của
Đảng, từ ngày thành lập cho đến nay.
2.2. Hoàn cảnh đất nước sau Cách mạng tháng Tám
● Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên
của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người
Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
● Hậu quả của chính sách ngu dân mà thực dân Pháp để lại sau hơn 80 năm
đô hộ nước ta đó là hơn 95% người Việt Nam mù chữ. “Ngu dân” là một
trong những phương pháp thâm độc mà chế độ thực dân sử dụng để cai trị

nhân dân Việt Nam. Chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ bề lừa
dối, bóc lột và đàn áp. Cái mà chúng gọi là khai hoá văn minh thực chất
là đầu độc dân ta bằng rượu cồn và thuốc. Vì vậy, ngay sau khi giành
được độc lập, một trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà là tiêu diệt giặc dốt, nâng cao dân trí. Chính phủ
lâm thời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời phát động một
chiến dịch chống nạn mù chữ trong toàn dân, đồng thời xây dựng một
chương trình hành động thiết thực nhằm tổ chức lại nền giáo dục nước
nhà.
● Để bắt tay vào kiến thiết đất nước trong bối cảnh vừa giành được độc lập.
Ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm chủ tọa phiên họp đầu tiên
của hội đồng chính phủ. Tại phiên họp này, Người trình bày các nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hịa. Trong đó có vấn đề


cần phải giải quyết lúc bấy giờ là: Chế độ thực dân pháp đã đầu độc dân
tộc ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hịng hủ hóa dân
tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ơ, và những
thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân
dân chúng ta, chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở lên dũng cảm,
yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc
lập. Để làm được những điều đó, Người đề nghị mở một chiến dịch giáo
dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện Cần, Kiệm,Liêm,Chính.
Đồng thời, Người cũng nhắc nhở mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự Cần, Kiệm, Liêm, Chính,Chí
Cơng Vơ Tư.

II.NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền:
1.1. Khái niệm Đảng cầm quyền

“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng
chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để
điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” đã từng được dùng phổ biến tại các nước tư bản
chủ nghĩa. Ở các nước này, nếu một chính đảng có đại biểu giành được đa số
phiếu tại các cuộc bầu cử thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền.
Về mặt thuật ngữ, trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có thể bắt gặp các khái
niệm cùng chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội sau khi giành được chính
quyền nhà nước: “Đảng nắm quyền”, “Đảng lãnh đạo chính quyền”, “Đảng cầm
quyền”. Trong đó, Đảng cầm quyền phản ánh rõ nhất, chính xác nhất vai trị
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa.
Cụm từ “Đảng cầm quyền” được chủ tịch Hồ Chí Minh ghi trong bản Di chúc
của Người năm 1969. Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng
nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy
nhà nước đó để tiếp tục hồn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong các cuộc đấu tranh của dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền bè lũ thực dân và phong kiến,


thiết lập chính quyền nhân dân. Phương thức lãnh đạo, công tác chủ yếu của
Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng, đưa quần chúng
vào đấu tranh giành chính quyền.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng khơng thay đổi. Khi có chính
quyền trong tay, một vấn đề mới cực kỳ to lớn, cũng là thử thách hết sức nặng
nề của Đảng là người đảng viên cộng sản không được lãng quên nhiệm vụ, mục
đích của mình, phải tồn tâm, tồn ý phục vụ nhân dân; trên thực tế, đã có một
số cán bộ, đảng viên thối hóa biến chất trở thành “quan cách mạng”. Với Chủ

tịch Hồ Chí Minh, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Đó là điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “Đảng
cầm quyền”.
1.2. Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác ngồi lợi ích của Tổ
quốc, của Nhân dân. Đó là mục đích, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: “Những người
cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là
phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng
lợi trên đất nước ta và trên tồn thế giới”. Khi trở thành Đảng cầm quyền, mục
đích, lý tưởng đó khơng những khơng thay đổi mà cịn có thêm những điều kiện
và sức mạnh nhằm thực hiện hóa mục đích, lý tưởng ấy.
1.3. Về quan điểm “Đảng ta là MỘT Đảng cầm quyền”
Tại sao không là “Đảng ta là đảng cầm quyền” mà phải là “một đảng cầm
quyền”? “Một” thể hiện tính duy nhất, hàm ý cả tính tuyệt đối. Đảng khơng
được chia sẻ quyền lực với đảng khác trong vai trị cầm quyền của mình (nên
hiểu là “không chia sẻ quyền lực” chứ không độc nhất tồn tại, vì thời của Bác
cịn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 đến năm 1988) và Đảng Xã hội Việt
Nam (1946 – 1988), nhưng khơng giữ vai trị lãnh đạo. Tức là không liên minh,
liên kết với bất kỳ đảng khác để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Đây khơng
phải là sự độc chiếm quyền lực mà đó là kết quả tất yếu của lịch sử.
Tuy nhiên, cũng cần hiểu đầy đủ lời của Người: “Đảng ta là một đảng cầm
quyền”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã hàm ý cảnh báo. Vì là “một đảng cầm quyền”
nên có thể phát sinh những vấn đề do chỉ có một đảng nắm quyền, nhất là khi
nắm quyền liên tục trong một thời gian dài. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác –
Lênin, chắc chắn Hồ Chí Minh hiểu rằng mọi sự vật, hiện tượng đều luôn vận
động và biến đổi. Là đảng duy nhất cầm quyền, ở đỉnh cao quyền lực, rất có thể
nội bộ đảng nảy sinh những trì trệ, thậm chí sai lầm, nếu đãng giáo điều, khơng
phát huy và mở rộng dân chủ, không lắng nghe phản ánh từ nhân dân, không



tiếp thu các ý kiến phản biện… Rất có thể, khi cầm quyền trong thời gian dài,
đảng tự xây cho mình một “tháp ngà” và tự cách biệt mình với quần chúng nhân
dân. Nghiêm trọng hơn, chính điều đó nảy sinh quan liêu, xa dân, tham nhũng,
thậm chí độc đốn, dần đánh mất lòng tin của nhân dân. Điều này đã từng xảy ra
với một số đảng, dẫn đến kết cục đảng không cầm quyền được nữa, gây những
hệ lụy nguy hiểm cho quốc gia, cho dân tộc.
Vì vậy, là thành viên của “một đảng cầm quyền”, Hồ Chí Minh đã căn dặn:
“Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Những chữ “thực sự”, “thật sự”, “thật” là sự nhấn mạnh của Bác đối với các yêu
cầu của Đảng, của mỗi đảng viên trong lời khẳng định “Đảng ta là một đảng
cầm quyền”. Tức là, một đảng cầm quyền thì đảng viên phải thực sự như thế,
không thể khác được.
1.4. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của Nhân dân
Quan điểm này của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là sự vận dụng, phát
triển hết sức sáng tạo lý luận Mác - Lênin về đảng vô sản kiểu mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam “là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Xác định “người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền
nhà nước. Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trong
toàn dân tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc cho
nhân dân - mà trước hết là quần chúng nhân dân lao động.
“Là người lãnh đạo”, theo Hồ Chí Minh, bằng giáo dục, thuyết phục, Đảng phải
làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng lãnh đạo nhưng quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng “Phải đi đường lối quần chúng, khơng được
quan liêu, mệnh lệnh và gị ép nhân dân”, mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác
ngộ dân chúng để thức tỉnh họ. Đồng thời, Đảng phải tổ chức, đoàn kết hộ lại

thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động. Vì
vậy, chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải đảm đảm trên tất cả các
mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải quan tâm chăm lo đến đời sống nhân
dân từ việc nhỏ đến việc lớn: “Đảng vừa lo tính cơng việc lớn như đổi nền kinh
tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến,
đồng thời ln ln quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần
thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân.”


Là người lãnh đạo, Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe
ý kiến nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của
Nhân dân, bởi “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng ắt phải từ
trong quần chúng ta, trở lại nơi quần chúng”. Đảng phải thực hành triệt để dân
chủ, mà trước hết dân chủ trong nội bộ Đảng, để phát huy được mọi khả năng trí
tuệ sáng tạo của quần chúng; lãnh đạo nhưng phải chống bạo biện, làm thay,
phải thơng qua chính quyền nhà nước “của dân, do dân và vì dân” để Đảng thực
hiện quyền lãnh đạo của mình đối với tồn xã hội. Do đó, Đảng phải lãnh đạo
Nhà nước một cách tồn diện, mà trong đó và trước hết là lãnh đạo xây dựng
pháp luật để quản lý, điều hành xã hội; đồng thời, Đảng phải thường xuyên coi
trọng công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt
động trong bộ máy nhà nước, luôn bảo đảm cho Nhà nước thực sự trong sạch,
vững mạnh, thực sự là Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”.
Với tư cách người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn đề cập một cách sâu sắc đến việc
Đảng phải thực hiện chế độ kiểm tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ
đảng viên, cán bộ của Đảng.
Là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cũng có nghĩa bao hàm cả
trách nhiệm “là người đầy tớ” của dân. Song, “đầy tớ” ở đây không có nghĩa là
“tơi tớ, tơi địi hay theo đi quần chúng” mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân
dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân. Người nhấn mạnh: “Đã
phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trị. Nghĩa là việc gì có lợi cho dân,

thì phải làm cho kì được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Người
sử dụng cụm từ “đầy tớ trung thành” là để nhắc nhở và chỉ rõ vai trò, trách
nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều phải quan
tâm thực sự đến lợi ích của nhân dân; “khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, tận
tụy với công việc, gương mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên “tự kiểm
điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Phải làm cho dân
tin, dân phục để dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. Mỗi cán bộ, đảng viên “đều là
công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu
dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”.
Mặt khác, ý nghĩa cụm từ “đầy tớ trung thành của nhân dân”, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh địi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri thức khoa học, trình độ
chun mơn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng: “Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Không chỉ nắm vững và thực hiện hiện tốt
quan điểm, đường lối của Đảng, mà còn phải biết tuyên truyền, vận động lôi
cuốn quần chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối
cùng.


Như vậy, “là người lãnh đạo”, “là người đầy tớ” tuy là hai khái niệm nhưng đều
được Hồ Chí Minh sử dụng và chỉ ra sự gắn bó thống nhất, quan hệ biện chứng
giữa hai khái niệm đó với nhau. Dù là “người lãnh đạo” hay “người đầy tớ”,
theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đều cùng chung một mục đích: vì dân. Làm
tốt chức năng “lãnh đạo” và làm tròn nhiệm vụ “đầy tớ” cho nhân dân là cơ sở
vững chắc nhất bảo đảm uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng không những
được ăn sâu, bám chắc trong lịng giai cấp cơng nhân, mà cịn trong cả các tầng
lớp quần chúng nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.
1.5. Đảng cầm quyền, dân là chủ
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng
cố quyền làm chủ của Nhân dân. Theo người, quyền lực thuộc về Nhân dân là
bản chất, là nguyên tắc của chế độ mới, một khi xa rời nguyên tắc này, Đảng sẽ

trở thành đối lập với Nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy
“dân làm gốc”.
Mặt khác, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi người dân phải
biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia xây dựng chính quyền.
2. Xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh:
2.1. Năm nguyên tắc hoạt động của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Một là, Tập trung dân chủ
·
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” với
“dân chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vế của một ngun tắc.
Hồ Chí Minh viết về mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền tảng của dân
chủ; dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.
Hai là, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
· Là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.
· Vì sao cần tập thể lãnh đạo? Vì một người dù thông minh tài giỏi đến đâu
cũng không thể suy xét được mọi mặt của vấn đề. Nhiều người, nhiều kinh
nghiệm, mỗi người một ít, có thể nhìn rõ mọi mặt của vấn đề, giải quyết chu
đáo, khỏi sai lầm.
· Cá nhân phụ trách: Nếu khơng có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ
người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả khơng ai thi
hành. Như thế thì việc gì cũng khơng xong.
Ba là, Tự phê bình và phê bình
· Đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng.


· Mục đích: để làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân, làm cho phần xấu bị mất dần đi, tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện,
mỹ.
Bốn là, Kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
· Nguyên tắc tạo nên sức mạnh của Đảng.

· Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng địi hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả
mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà
nước, trước mọi quyết định của Đảng.
Năm là, Đoàn kết thống nhất trong Đảng
· Là nguyên tắc quan trọng của Đảng.
· Có đồn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và hành
động, làm cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như là một
người”.
2.2. “Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
phải cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” Đây được coi là nhiệm vụ hàng
đầu trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Cán bộ là dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại là do cán bộ
tốt hay kém. Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, trong
đó, phẩm chất là gốc.
Đạo đức cách mạng của Người cán bộ được hồ Chí Minh ví như các gốc của
cây, ngọn nguồn của sơng suối. “Cũng như sơng có nguồn thì mới có nước,
khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân”. Do vậy, tơi luyện đạo đức cách mạng địi hỏi phải có
sự phấn đấu khơng ngừng nghỉ của mỗi con người, mỗi thế hệ và toàn xã hội.
Chăm lo cái gốc, cái nguồn ấy là nhiệm vụ của Đảng và mỗi cá nhân con người.
· Cần: là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch chuyên sâu, sáng tạo, thi
đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều, có năng suất, chất lượng hiệu quả, tự
lực cánh sinh, không ỷ lại, không lười biếng, dựa dẫm, phải kiên trì, bền bỉ, dẻo
dai, có thái độ đúng với lao động, coi đó là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của con người.
· Kiệm: là tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền bạc, của cải của nhân dân,
của nhà nước và của bản thân, từ việc nhỏ, khơng xa xỉ, khơng lãng phí, khơng
bừa bãi. Cái gì cần chi thì mới chi, khơng nên hoang phí, phông trương. Tiết

kiệm khác với bủn xỉn, “xem đồng tiền bằng cái nống”. Bác dạy cần và kiệm
phải đi đôi với nhau như hai chân con người. Cần mà không kiệm thì từng nào


xài ln từng ấy, khơng lại hồn khơng. Kiệm mà khơng cần thì cũng khơng
tăng thêm, khơng phát triển được.
· Liêm: là trong sạch, không tham lam, không tham ô, tơn trọng, giữ gìn của
cơng, của dân, khơng chiếm dụng của công làm của tư, sách nhiễu nhân dân.
Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng. Khơng bao
giờ hú hóa, chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
· Chính: là khơng tà, thẳng thắn, đúng đắn.
· Chí cơng vơ tư: Theo Hồ Chí Minh, đây là một câu châm ngơn của người
xưa, có tính định hướng mọi người phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện để vươn tới
cái tốt đẹp. Người nói: “Khi làm bất cứ việc gì thì cũng đừng nghĩ tới mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”. Phải lo trước thiên hạ.
Bác dặn “mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự” vì “thực sự” đối lập với “giả dối”:
“thực sự phải cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”. Đó là sứ mệnh cao cả của
Đảng cầm quyền. Và khi đã có những đức đó thì đảng sẽ vững mạnh, đảng sẽ
trong sạch, đảng sẽ có được lịng tin của nhân dân. Vì thế Bác đã coi “thực sự”
đó như sự sống cịn của tạo hóa:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời.
Thiếu một phương, thì khơng thành đất.
Thiếu một đức, thì khơng thành người.”
[Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 6, tr. 117]
CẦN, KIỆM, LIÊM là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại
cần có cành lá, hoa, quả mới là hồn tồn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm
nhưng cịn phải Chính mối là người hồn tồn tiến bộ. Chính có nghĩa là đối với

mình khơng tự cao tự đại, ln ln chịu khó học tập, cầu tiến bộ, phát triển
điều hay. Đối với mọi người xung quanh phải yêu q và giúp đỡ, khơng nịnh
hót người trên, khơng xem thường kẻ dưới. Phải để việc nước, việc công lên
trên việc nhà, công việc dù to hay nhỏ đều cố gắng hoàn thành, việc ác dù nhỏ
mấy cũng tránh.

III.Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM.
Luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng mang ý nghĩa lịch sử và giá
trị muôn đời. Người luôn nhấn mạnh những vấn đề cơ bản, về sự duy nhất của
Đảng cầm quyền, từ thực tiễn các nước xã hội chủ nghĩa khác, người vạch ra


con đường cho Đảng ta là chỉ “một Đảng cầm quyền”, người nhấn mạnh về sự
quan trọng của đạo đức cán bộ Đảng viên, cần kiệm, liêm chính, vì nhân dân, là
người đầy tớ của nhân dân.
·
Lời căn dặn sâu sắc, đầy tính nhân văn của Người đã trở thành lẽ sống,
phương châm hành động, nền tảng tư tưởng và là cơ sở để Đảng tiến hành công
cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn, làm trong sạch nội bộ, giữ vững niềm tin
và lịng kính trọng đối với nhân dân.
·
Đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, nâng cao năng lực lãnh đạo, vị thế
cầm quyền của Đảng để thực hiện khát vọng phát triển, đổi mới, sáng tạo, sớm
đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
·
Nửa thế kỷ qua, Di chúc của Hồ Chí Minh ln đồng hành với Đảng, với
nhân dân, soi sáng cho cách mạng Việt Nam trên hành trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong tiến trình lịch sử ấy, dưới ánh
sáng của Di chúc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng xây dựng và chỉnh

đốn Đảng; đặc biệt là chăm lo, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên, để họ thật sự xứng đáng là “người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã luôn
tiên phong, gương mẫu, lãnh đạo nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và hiện nay là đổi mới toàn diện
đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
·
Là thước đo, tiêu chí để đánh giá phẩm chất cách mạng của người cán bộ,
đảng viên trong các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới,
hội nhập và phát triển hiện nay
IV.LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM
Hồ Chí Minh quan niệm rằng : “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một
dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ .“
Cần, kiệm, liêm, chính cịn là nền tảng của đời sống mới, để trở thành người có
phẩm chất đạo đức tốt, phải hội tụ đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm, chính - Bác coi
đây là 4 đức tính cơ bản của con người, “Thiếu một đức thì không thành người”.
Bản thân Người cũng thực hành trước nhất, nhiều nhất từ khi làm cách mạng
cho đến phút cuối cùng cuộc đời mình để làm gương cho Đảng - cuộc đời
Người thanh bạch chẳng vàng son, Người sống cho tất cả chẳng có gì riêng cho
mình, Người sống vượt lên trên hết thảy mọi ham muốn vật chất để thực hiện
ham muốn tột bậc nước độc lập, dân tự do, mọi người có cơm ăn, áo mặc và học
hành, suốt cuộc đời Người chăm chút lo toan giáo dục rèn luyện Đảng nâng cao


phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư để “Đảng là đạo đức, là văn
minh” là người đầy tớ của nhân dân.
· Để làm được đúng lời căn dặn của Bác “mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, điều căn bản là phải loại bỏ được tư
tưởng tham nhũng trong từ cá nhân và tổ chức của Đảng.
· Đại hội X cảnh báo: “Tham nhũng chính là diễn biến hịa bình”; “sự suy

thối về đạo đức, lối sống dẫn đến tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí, nhũng
nhiễu nhân dân của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên (trong đó có cả
đảng viên có chức có quyền) diễn ra rất nghiêm trọng có xu hướng tăng cả về số
lượng, lẫn phạm vi. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân ngày càng gia tăng. Đó là
chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy lợi, chạy tội, chạy bằng cấp, kể cả chạy
tước để được đề bạt”; “Trong nhiệm kỳ tới, nếu khơng ngăn chặn một cách có
hiệu quả thì tham nhũng sẽ trở thành thách thức lớn nhất của công cuộc đổi mới
đất nước, là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ”.
· Thành công của Đại hội X mang đến cho toàn Đảng, toàn dân niềm tự hào
và niềm vui, sự đợi chờ, sự mong mỏi - sau Đại hội Đảng sẽ mở ra một kỷ
nguyên mới, đưa đất nước đi lên, thốt khỏi tình trạng kém phát triển để hòa
đồng cùng thế giới. Trước mắt là quét sạch được bọn tham nhũng, đây là bọn
tham quan ô lại, những con sâu mọt đang làm mất thanh danh uy tín của Đảng
cầm quyền, đang làm xói mịn lòng tin của dân chúng vào Đảng, vào chế độ.
1. Đảng ta đã làm gì để thực hiện lời dặn của Bác?
· Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (tháng 5/2012) đã quyết định chủ trương
thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phịng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ
Chính trị do Tổng Bí thư làm Trưởng Ban để chỉ đạo tồn diện cơng tác phịng,
chống tham nhũng trên phạm vi cả nước. Thực hiện chủ trương này, ngày
01/02/2013, Ban Chỉ đạo đã chính thức được thành lập và bắt đầu triển khai các
hoạt động, với thành phần gồm những cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan
có liên quan của Đảng và Nhà nước.
2. Thành tựu đạt được:
· Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng đã được chỉ đạo và thực hiện một
cách bài bản, đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả, tạo bước đột phá trong cơng tác
phịng, chống tham nhũng, khẳng định quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với tinh thần


"khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và khơng chịu sức

ép của bất kỳ cá nhân nào".
Trong giai đoạn 2012 - 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật
2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên
bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý,
trong đó có 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên
Trung ương, nguyên Uỷ viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng
vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay đã thi hành kỷ luật 50 cán
bộ thuộc diện Trung ương quản lý (cao hơn gấp 4 lần so với nhiệm kỳ khóa XI
và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII), trong
đó có 8 Uỷ viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sĩ quan cấp
tướng. Đây là một bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng.
·
Đi đôi với việc tập trung chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý tham nhũng,
cơng tác xây dựng, hồn thiện cơ chế, thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được chú trọng đẩy mạnh, từng bước
hồn thiện cơ chế phịng ngừa chặt chẽ để "không thể", "không dám", "không
muốn", "không cần" tham nhũng.Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan tham mưu,
giúp việc của Trung ương đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp, quy định
mới, mạnh mẽ, ngày càng quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị, hồn thiện thể chế về kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực. Nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi
vào cuộc sống; khắc phục được một bước những sơ hở, bất cập trước đây làm
phát sinh tiêu cực, tham nhũng.
·
Công tác cán bộ, cải cách hành chính bảo đảm tính cơng khai, minh bạch;
xác định rõ trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị và các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực cũng đã được tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt và đạt kết quả tốt.Cơng tác cán
bộ đã có nhiều đổi mới theo hướng ngày càng dân chủ, công tâm, khách quan,

công khai, minh bạch hơn; đúng nguyên tắc, đúng quy trình, bảo đảm sự lãnh
đạo chặt chẽ của Đảng. Nhiều quy định được ban hành đồng bộ, khả thi, đã giải
quyết được khơng ít vấn đề tồn tại trước đây trong cơng tác cán bộ; tình trạng
chạy chức, chạy quyền, cục bộ, địa phương, "thân quen", "cánh hẩu", "lợi ích
nhóm" đã giảm hẳn.Việc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII mới đây ban hành và
chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ,
đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn


biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; và Quy định mới về những điều đảng viên
không được làm là chủ trương rất đúng và cũng là một bài học kinh nghiệm q
trong cơng tác cán bộ của chúng ta.Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương tích
cực triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, tăng cường tính cơng
khai, minh bạch, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia và phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Công tác tiếp nhận,
xử lý, giải đáp, phản hồi những ý kiến phản ánh, kiến nghị của người dân và đối
thoại với các tầng lớp nhân dân cũng được quan tâm. Tăng cường việc kiểm
soát tài sản, thu nhập, chuyển đổi vị trí cơng tác, xử lý trách nhiệm người đứng
đầu; thanh tốn khơng dùng tiền mặt; sửa đổi, ban hành chế độ, định mức, tiêu
chuẩn; cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, nâng cao đời sống của cán bộ,
công chức, viên chức,... cũng đã góp phần tích cực vào cơng tác đấu tranh
phịng, chống tham nhũng”.
· Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phịng, chống tham nhũng
được tăng cường và có nhiều đổi mới; sự giám sát của các cơ quan dân cử, vai
trò của Mặt trận Tổ quốc, nhân dân và báo chí, truyền thơng trong phịng, chống
tham nhũng, tiêu cực được phát huy tốt hơn. Hoạt động thông tin, tuyên truyền,
giáo dục về phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh; nhận thức, trách nhiệm
của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực được nâng lên. Việc công khai kết quả thanh tra, kiểm tra,

kiểm toán, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế; chủ động cung cấp
thông tin về những vấn đề nhạy cảm, dư luận quan tâm, cũng đã góp phần định
hướng tốt dư luận xã hội và thể hiện sự công khai, minh bạch trong xử lý tham
nhũng.
· Chú trọng việc kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng làm cơng tác phịng, chống
tham nhũng; tích cực hợp tác quốc tế và từng bước mở rộng nội dung, phạm vi
hoạt động phòng, chống tham nhũng. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn
vị chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng cũng được chú trọng,
tăng cường, nhất là sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, giám sát, nội chính
của Đảng với cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra; giữa cơ quan thanh tra,
kiểm toán với cơ quan điều tra; giữa các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương,
địa phương và các bộ, ngành chức năng ngày càng chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả
hơn (hầu như khơng cịn tình trạng "quyền anh, quyền tơi", "của cây càng, cá
cậy vây" như trước). Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng cũng đã
được tăng cường; hoạt động phòng, chống tham nhũng cũng từng bước được


mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước (Vụ án "Việt Á" vừa làm gần đây là một
ví dụ điển hình).
3. Nhiệm vụ mới đặt ra:
● Phải tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giáo dục,
tun truyền, xây dựng văn hóa tiết kiệm, khơng tham nhũng, tiêu cực
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.Đây là nhiệm vụ không mới, nhưng
rất quan trọng.Phải kiên trì giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, cơng
chức, viên chức về đức tính liêm khiết, chính trực; xây dựng văn hố tiết
kiệm, khơng tham nhũng, tiêu cực. Mọi cán bộ, đảng viên phải ghi nhớ
sâu sắc lời căn dặn của Bác Hồ rằng: Đảng ta là đảng cầm quyền; Đảng
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.
Đảng phải luôn luôn dựa vào Dân, lắng nghe Dân, gắn bó máu thịt với

nhân dân; việc gì có lợi cho Dân thì phải hết sức làm và làm cho bằng
được; ngược lại, việc gì có hại cho Dân thì phải hết sức tránh.
● Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kịp
thời khắc phục những bất cập, bịt kín những "khoảng trống", "kẽ hở" để
"không thể tham nhũng, tiêu cực".Phải xây dựng các quy chế nội bộ của
Đảng, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức,
liêm chính, gương mẫu đi đầu trong phịng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Phải có cơ chế kiểm sốt chặt chẽ việc xây dựng chính sách, pháp luật về
quản lý kinh tế - xã hội để hạn chế sự tác động tiêu cực của "nhóm lợi
ích", "sân sau", "tư duy nhiệm kỳ"; ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham
nhũng, tiêu cực ngay từ khi xây dựng chính sách, luật pháp. Khẩn trương
hoàn thiện các quy định về kiểm sốt quyền lực, trách nhiệm giải trình,
bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Quy định rõ trách nhiệm của
người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực; và
bảo vệ người tích cực đấu tranh phịng, chống tham nhũng, tiêu cực;
khuyến khích và bảo vệ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu đổi mới, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
● Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; phát hiện sớm, xử lý nghiêm các vụ
việc, vụ án tham nhũng; ngăn chặn có hiệu quả tệ "tham nhũng vặt"; nâng
cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.Công tác kiểm tra, giám sát,


thanh tra, kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên, tồn diện và cơng
khai, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh
tiêu cực, có nhiều dư luận về tham nhũng, tiêu cực, về suy thối tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với chống suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Bởi vì
hai mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phải kịp thời phát hiện, giải
quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu các hành vi sai phạm, khơng để vi phạm
nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Mọi cán bộ, đảng viên vi phạm đều phải
bị xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh, công khai.Đẩy nhanh tiến độ
điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, kinh tế đã khởi tố theo đúng quy
định của Đảng, pháp luật Nhà nước; chú trọng phát hiện, xử lý các vụ án,
vụ việc tham nhũng mới; khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ; khơng
chịu sự tác động khơng đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Tạo chuyển
biến mạnh mẽ, rõ rệt hơn nữa trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu
cực ở địa phương, cơ sở; xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vịi vĩnh,
nhũng nhiễu, "gợi ý", "lót tay", gây phiền hà cho người dân, doanh
nghiệp trong giải quyết công việc.Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham
nhũng; chú trọng truy tìm, kịp thời áp dụng các biện pháp đồng bộ để thu
hồi triệt để tài sản bị tham nhũng ngay từ giai đoạn thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và trong giai đoạn thi hành án;
khuyến khích người phạm tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả
trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
● Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn
vị; kiểm sốt có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn; cải cách hành chính và xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
● Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan, đơn vị có chức năng phịng, chống tham nhũng, tiêu cực,
trước hết là các Ban Chỉ đạo cấp tỉnh và các cơ quan nội chính từ Trung
ương đến địa phương.

TIỂU KẾT
Đã 50 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Di chúc, cũng là 50

năm Người vĩnh biệt chúng ta để về với thế giới người hiền, những tư tưởng của


Người, tấm gương đạo đức, phong cách và những lời căn dặn cuối cùng của
Người, vẫn vẹn nguyên giá trị và ý nghĩa sâu sắc đối với chúng ta. Tuân theo
những lời dạy của Người, xuyên suốt nhiều năm qua, đặc biệt trong những năm
đổi mới, Đảng đã luôn coi trọng làm tốt công tác xây dựng Đảng. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt rất nhiều thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử, tuy nhiên, cũng đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức.
Cơng tác xây dựng Đảng cũng cịn khơng ít hạn chế, khuyết điểm. Để tiếp tục
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, để những trăn trở, tâm nguyện
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc được thực hiện sinh động trong thực
tế, hơn lúc nào hết đòi hỏi sự quyết tâm, nỗ lực rất cao của toàn Đảng, toàn dân
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh; đẩy
mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên; xây
dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; luôn xứng đáng “là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” như mong muốn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong Di chúc.

PHẦN II: LIÊN HỆ BẢN THÂN
Trước hết, mỗi sinh viên phải thấm nhuần giá trị đạo đức tấm gương Hồ
Chí Minh. Điều này khơng chỉ dừng ở việc chỉ đọc lý thuyết suông mà cần phải
bằng hành động thực tế chứng minh. Việc học tập Bác không ở đâu xa mà thể
hiện ở ngay những hành động cụ thể, những việc tốt trong cuộc sống: như sinh
viên trước khi tan học thì phải tắt điện, giữ vệ sinh, bảo vệ của công, không đi
học muộn, chăm chỉ học tập, khơng gian lận trong thi cử, nói khơng với các tệ
nạn xã hội…Như thế thì sinh viên sẽ dễ hình dung mình cần phải làm gì và như
thế nào, và chắc chắn phong trào sẽ đi vào chiều sâu và có hiệu quả hơn. Đồng
thời, mỗi người khi đã rèn cho mình lối sống đạo đức, thì mình thử soi xem đã

làm được bao nhiêu phần trăm, tự đánh giá, từ đó giúp mình đỡ những người
xung quanh, những người cịn chưa làm tốt.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi nhất của đạo đức cách mạng
là cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn mùa của trời
đất; nếu thiếu một trong bốn phẩm chất đó thì con người khơng thể trở thành
người theo đúng nghĩa. Nhưng, đạo đức cách mạng không phải là cái có sẵn,
khơng phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hằng ngày của mỗi người. Do vậy, Người cho rằng, đối với thế hệ trả, phải



×