Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Vai trò của vị vua đầu tiên đời trần trong việc đặt nền tảng thiền phái trúc lâm 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.02 KB, 25 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐẠI CƯƠNG - KHĨA XIV

ĐỀ TÀI:

VAI TRÒ CỦA VỊ VUA ĐẦU TIÊN
ĐỜI TRẦN TRONG VIỆC ĐẶT NỀN TẢNG
THIỀN PHÁI TRÚC LÂM

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ IV
MÔN: LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Tăng sinh thực hiện: Thích Đức Bảo
Thế danh:

Nguyễn Thái Bình

MSSV:

1450000008

Giáo sư hướng dẫn: TT.TS.THÍCH PHƯỚC ĐẠT

Thành phố Hồ Chí Minh – 05/2021


ĐIỂM

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

………………………………………………………………………..


………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………..


MỤC LỤC
A.DẪN NHẬP............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................................1
2. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................................1
B.NỘI DUNG ...........................................................................................................................2
Chương 1. Bối cảnh xã hội Đại Việt cuối đời Lý đầu đời Trần............................................2
1.1. Bối cảnh xã hội Đại Việt cuối đời Lý đầu đời Trần............................................................2
1.2. Bối cảnh Phật giáo Đại Việt cuối đời Lý đầu đời Trần...................................................... 2
Chương 2. Cuộc đời và hành trạng của vua Trần Thái Tông............................................. 3
2.1. Thân thế Trần Thái Tông.................................................................................................... 3
2.2. Sự nghiệp của Trần Thái Tông .......................................................................................... 5
2.2.1.Vị vua anh minh............................................................................................................5
2.2.2.Thiền sư đắc đạo........................................................................................................... 6

2.2.3.Nhà văn, nhà thơ sám hối .............................................................................................8
Chương 3. Tư tưởng thiền học của Trần Thái Tông............................................................ 9
3.1. Tư tưởng Phật tại tâm ........................................................................................................ 9
3.2. Tư tưởng biện tâm ............................................................................................................10
3.3. Quan điểm thân phận và tình yêu con người.....................................................................11
Chương 4. Phương thức tu thiền của Trần Thái Tông.......................................................13
4.1. Phương thức sám hối........................................................................................................ 13
4.2. Phương thức niệm Phật ....................................................................................................14
4.3. Phương thức hành thiền.................................................................................................... 16
4.4. Vai trò của Trần Thái Tơng trong việc kiến tạo dịng thiền Trúc Lâm Đại Việt.............. 19
C.KẾT LUẬN ........................................................................................................................21


1

A. DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo đời Trần là tập hợp toàn bộ tinh hoa của Phật giáo Việt Nam. Là người
Việt Nam đồng thời là một tu sĩ Phật giáo, thật khó nói hết cảm xúc của mình khi đọc
và viết lại những trang sử oai hùng của dân tộc, một thời đại hoàng kim của Phật giáo,
khó mà tái tạo một cách hồn tồn thế giới Phật quốc đời Trần bởi tính chất nhân bản,
vừa là vua vừa là thiền sư, và lại càng không thể nói hết được những trí tuệ siêu phàm,
tuyệt vời nhưng thật gần gũi. Bằng chứng đó là vua Trần Thái Tông dù không đi tu mà
xem “ngai vàng như chiếc giày rách bỏ đi lúc nào cũng được”. Trần Thái Tông là
người đã khai sáng triều Trần, và ông đã thành cơng trong việc xây dựng đất nước, góp
cơng to lớn tạo nên một hào khí Đơng A, mà ơng cịn là người đóng vai trị trong việc
kiến tạo dịng thiền Trúc Lâm Đại Việt.
Những đóng góp và thành tựu của Trần Thái Tông không những xây dựng đất
nước Đại Việt vào thời Trần được hưng thịnh, mà ngày nay những tác phẩm và đóng
góp của ơng cho Phật giáo Việt Nam vơ cùng to lớn. Vì muốn làm sáng lại những

trang sử hào hùng của bậc quân vương anh tài vì nước, vì dân và đạo pháp; cho nên
người viết chọn đề tài “Vai trò của vị vua đầu tiên đời Trần trong việc đặt nền tảng
thiền phái Trúc Lâm” để làm bài tiểu luận cho học kỳ này. Với mục đích tìm hiểu và
có cái nhìn đúng đắn về sự phát triển của lịch sử Việt Nam và sự đóng góp của vua
Trần Thái Tơng trong q trình cai trị đất nước Đại Việt hưng thịnh và vai trị của ơng
trong việc kiến tạo dịng thiền Trúc Lâm Đại Việt.
2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được tiến hành nghiên cứu bằng các phương pháp sau: Phương pháp
phân tích và tổng hợp nhằm phân tích các vai trị của vua Trần Thái Tông, Từ một
nhận định chia thành nhiều vấn đề nhỏ, xét từng khía cạnh của vấn đề khiến cho nội
dung cần được nói được rõ ràng. Sau đó tổng hợp lại, thống nhất với nhau, Phương
pháp chứng minh nhằm đưa thêm các dẫn chứng cụ thể để làm cho vấn đề thêm vững
chắc. Phương pháp giải thích khiến cho vấn đề được mở rộng.


2

B. NỘI DUNG
Chương 1. BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐẠI VIỆT CUỐI TRIỀU LÝ ĐẦU TRIỀU
TRẦN
1.1. Bối cảnh xã hội Đại Việt cuối triều Lý đầu Trần
Theo quy luật vận động và phát triển của lịch sử, có thịnh ắt có suy, hưng rồi lại
phế, triều đại nhà Lý suy sụp khơng ngồi quy luật ấy. Khoảng từ giữa thế kỉ XII, triều
đình nhà Lý bắt đầu suy yếu. Các nhà vua khi lên ngơi cịn q non trẻ, khơng chăm lo
việc triều chính mà ăn chơi sa đọa, quyền lực đất nước rơi vào tay họ Trần. Song song
đó, đất nước nhiều năm mất mùa đói kém, loạn lạc nổi dậy khắp nơi. Đầu thế kỉ XIII,
lại xảy ra nạn hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến. Các hào trưởng địa phương, các
tướng lĩnh triều đình đem quân đánh lẫn nhau. Triều đình nhà Lý rơi vào cảnh rối ren,
phức tạp. Trong khi đó, Trần Tự Khánh đem quân về chiếm được Thăng Long, vừa
phò tá vừa hiếp đáp vua Lý. Anh em con cháu họ Trần lần lượt nắm giữ các chức vụ

quan trọng trong triều. Trần Tự Khánh chết, quyền hành tập trung trong tay Trần Thủ
Độ là người nhiều mưu lược, giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ. Mặt khác, ông là người
công minh tận tụy, phị vua giúp nước, khơng vì tình riêng, mà qn mất phép công.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới lên 7
tuổi. Trần Thủ Độ bố trí cho cháu mình là Trần Cảnh (8 tuổi) vào cung vui chơi cùng
Lý Chiêu Hoàng. Đầu năm 1226, Trần Thủ Độ đạo diễn một cuộc đảo chính cung đình,
tun bố Lý Chiêu Hồng lấy Trần Cảnh và nhường ngơi cho chồng. Lý Chiêu Hồng
tun cáo trước thần dân: “Nay Trẫm tính đi suy lại một mình, chỉ được Trần Cảnh,
thật là thể cách thánh hiền quân tử, uy nghi lẫm liệt, có tư bẩm văn võ thánh nhân,
dầu vua Cao Tổ đời Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không hơn được”1. Nhà Lý
chấm dứt sau 215 năm tồn tại. Trần Cảnh lên ngôi, tự xưng là Thiện Hồng, sau đổi
thành Văn Hồng, với tơn hiệu là hồng đế Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương
Hiếu.
Nhà Trần thành lập (1226-1400), để củng cố vương quyền, nhà Trần đã thực hiện
nền chun chính dân chủ dịng họ, quyền lãnh đạo quốc gia cũng như các chức vụ
chủ chốt trong triều đình đều nằm trong tay tầng lớp quý tộc tông thất và nhữmg người
thân cận với nhà vua nắm giữ.
Khi vua Thái Tông (tức Trần Cảnh) mới lên ngơi thì thượng hồng Trần Thừa
nắm quyền cai quản chính sự. Sau khi thượng hoàng mất (1234), Trần Thủ Độ làm thái
sư, nắm quyền cai quản đất nước. Với sự giúp đỡ của thượng hoàng, thái sư và các đại
thần, Trần Thái Tông đã củng cố nền cai trị quốc gia bằng nhiều biện pháp về kinh tế,
giáo dục, văn hóa và luật pháp, v.v. Sự thành cơng của nhà Trần là có các ơng vua lãnh
đạo đất nước biết vận dụng tư tưởng “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” để huy
động sức mạnh đoàn kết toàn dân nhằm bảo vệ chủ quyền dân tộc, mở rộng biên
cương, chấn hưng văn hóa Đại Việt. Hầu hết các vị vua thời Trần đã an dân trị nước
bằng đức trị thay pháp trị. Đây là thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng
là thời dại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà.
1.2. Bối cảnh Phật giáo Đại Việt cuối triều Lý đầu Trần
Phật giáo thời Lý đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân, có những thiền
sư nổi tiếng làm cầu nối cho Phật giáo đời Trần đạt đến đỉnh cao trong lịch sử. Nhà

1

Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Viện sử học dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr.8.


3

nghiên cứu sử học Trần Văn Giàu đã ghi nhận “Bình minh lịch sử dân tộc ta cũng gắn
liền với Phật giáo”. Thế nên, Phật giáo thời điểm đó như là một thực thể tạo ra sức
mạnh đoàn kết của dân tộc, cùng nhân dân ta bảo vệ đất nước, Phật giáo ln đặt sự
tồn vong của chính mình trong sự tồn vong của dân tộc Đại Việt.
Phật giáo Đại Việt thời Lý Trần là Phật giáo thế sự, chủ trương tùy duyên trong
đời song thực tiễn, Các thiền sư luôn song hành cùng với dân tộc trong sự nghiệp dựng
nước. Họ tùy theo khả năng của mình mà sẵn lịng tham gia vào các hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội... "Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm;
Ngày thờ chúa, thảo thờ cha, đi đô mới trượng phu trung hiếu; Tham thiền kén bạn,
nát thân mình mới khá hồi ân; Học đạo thờ thầy, đốt xương óc chưa thơng của báo”2.
Hình tượng này là tiêu biểu cho mẫu người Đại Việt thời đại Đơng A. Đạo Phật nhập
thế trở nên có một thế nhập lớn trong lịng dân tộc. Nó đã trở thành sợi chỉ đi xuyên
suốt cho đường lối thiền phái hoạt động.
“Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn làm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công”3.
Trần Thái Tông trên cương vị nhà vua nhưng không bị danh lợi buộc ràng, tiêu
biểu cho tư tưởng tu hành và giác ngộ ngay giữa trần tục, đem đạo ứng dụng vào đời.
Kết quả Phật giáo thời Lý Trần đã thực hiện hóa hào khí Đơng A làm nên lịch sử huy
hoàng cho cả dân tộc.
Chương 2. CUỘC ĐỜI VÀ HÀNH TRẠNG CỦA VUA TRẦN THÁI TÔNG
2.1. Thân thế Trần Thái Tơng
Theo Đại Việt Sử Ký Tồn Thư, Trần Thái Tơng họ Trần, tên là Cảnh, húy là Bồ,
được làm Chi hậu chính triều Lý, khi 8 tuổi được Lý Chiêu Hoàng (vị vua nữ và là vua

cuối tiều Lý) nhường ngơi. Ơng làm vua 33 năm (1225-1258), nhường ngơi cho con là
Trần Thánh Tơng19 năm, thọ 60 tuổi (1218-1277. Ơng được các nhà sử học đánh giá
là người có khoan nhân đức độ, có số đế vương, nên có thể sáng nghiệp truyền dòng,
tạo dựng kỷ cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy. Nhưng quy hoạch việc nước đều
do Trần Thủ Độ làm.
“Năm Ất Dậu (1225), mùa đông, tháng 12, ngày 12 Mậu Dần, nhận thiên vị của
Chiêu Hồng, lên ngơi hồng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung”4. Từ chi tiết trên, cho
thấy việc lên ngơi hồng đế của vua là cả một quá trình lâu dài. Người có cơng lớn
trong việc xây dựng triều Trần là Trần Thủ Độ, nhưng trước đó phải kể đến Trần Lý và
Trần Thừa. Việc quản lý đất nước trong những năm đầu đều năm trong tay thượng
hoàng Trần Thừa và thái sư Trần Thủ Độ.
Khi Trần Thái Tông lên 20 tuổi, Trần Thủ Ðộ ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh
để cưới người chị của Lý Chiêu Hoàng là Thuận Thiên đang mang thai, lúc bấy giờ
đang là vợ của anh mình là Trần Liễu. Vì Trần Thủ Ðộ muốn Thái Tơng sớm có Thái
tử để đảm bảo sự liên tục của Trần tộc thống trị. Trần Thái Tông phản đối kịch liệt
việc phải bỏ vợ mình để cưới người vợ đã có thai của anh ruột. Nhưng Thái Tơng
khơng có cách nào ngăn được chú mình (Thủ Độ). Chiêu Hồng bị giáng xuống làm
cơng chúa. Thuận Thiên (vợ của Trần Liễu), lại lập làm hoàng hậu. Trần Liễu phẫn uất,
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb.TP.HCM, 2002, tr.507.
Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 2, Viện sử học dịch, Nxb.Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1998, tr.6.
4
Sđd, tr.7.
2
3


4

liền động binh nổi loạn. Với tâm tình khổ đau và đối phó với tình trạng căng thẳng đó,
người con trai hai mươi tuổi kia không thể nào chịu đựng được nữa. Ơng đã quyết chí

xuất gia, trong bài tựa “Khóa Hư Lục” Trần Thái Tơng đã mơ tả như sau: “Hiệu Thiên
Ứng Chính Bình thứ 5 (1245), năm Bính Thân, đêm mùng 3 tháng 4; Trẫm nhân mặc
áo mỏng thường đi ra cửa cung, bảo tả hữu "Ta muốn đi chơi, nghe trộm lời dân để
xem nguyện vọng của chúng, họa may biết được khó nhọc của họ. Lúc ấy đi theo bên
Trẫm bất quá 7-8 người.... Sáng hôm sau vào giờ mão thì đến bến đồ Đại Than chân
núi Phả Lại. Trẫm e có kẻ nhận biết, nên phải lấy vạt áo che mặt mà qua sông, rồi
theo đường tắt lên núi. Đến tối vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh đợi sang lại đi. Trèo
lội vất vả, núi hiểm, suối sâu, ngựa mệt không tiến được nữa. Trẫm bèn bỏ ngựa, vịn
vách đá mà đi. Đến giờ Mùi mới đến Yên Tử. Qua hôm sau, trèo thẳng lên đỉnh, vào ra
mắt Quốc sư Trúc Lâm là vị đại Sa mơn ở đây.” Trần Thái Tơng đã bỏ hồng cung lên
Yên Tử đi tu với nguyện ước được làm Phật. Sử gia Ngơ Thì Sĩ đã viết trong Việt sử
tiêu án “bỏ ngai vàng như trút chiếc giày rách”. Trúc Lâm Quốc Sư dạy rằng: “Trong
núi vốn khơng có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức
khắc thành Phật ngay tại chỗ, khơng cần tìm cực khổ ở bên ngồi”5.
Trần Thủ Độ lên núi Yên Tử đón vua về kinh. Vua nói: “Trẫm cịn trẻ tuổi, chưa
cáng đáng được nổi việc nặng nề, thì phụ hồng đã vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy.
Trẫm không dám ở ngôi vua mà làm nhục xã tắc". Thủ Độ nài nỉ vua vẫn khơng nghe,
liền bảo mọi người: “Vua ở đâu thì lập triều đình ở đó". Nói xong, ơng liền sai người
xây dựng. Quốc sư thấy vậy cầm tay Trẫm và nói: “Phàm vi quân nhân giả, di thiên
hạ chỉ dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm. Kim thiên hạ dục nghênh bệ hạ quy chi,
tắc bệ hạ an đắc bất quy tai. Nhiên nội điển chi cứu, nguyện bệ hạ vô song tư tu nhĩ.
(Phàm là đấng quân nhân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và
lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về
sao được? Tuy nhiên, sự nghiên cứu nội điển, xin bệ hạ đừng quên!)”6. Thiền sư
khuyên vua về lại triều đình cai trị đất nước, phải đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu,
song cũng đừng quên chí nguyện học đạo. “Thực hiện yếu chỉ của Thiền sư truyền
trao, vua Trần Thái Tông sống cuộc đời lấy tâm của nhân dân làm tâm của mình. Vua
vừa tổ chức nội trị tốt đẹp, vừa chống giặc ngoại xâm, vừa suy tư kinh điển và giảng
giải Phật pháp. Bài học Thiền mà đức vua Trần Thái Tông tiếp thu có một giá trị sống
thực, nghĩa là vận dụng chính cái tâm yên tĩnh và trí sáng suốt vào mọi việc, đem lại

thái bình, thịnh vượng cho đất nước.”7
Nghe lời khuyên của Quốc sư Phù Vân và theo tiếng gọi của “Quốc gia xã tắc”,
Trần Thái Tông đã trở về Thăng Long hồn thành đại nguyện đó; như thế, ông vừa làm
Phật ngay giữa cõi đời. Trên hai phương diện đó, ơng đều có đủ khả năng để cứu dân
thốt khỏi xiềng xích của giặc ngoại xâm Ngun Mơng ln nhịm ngó nước ta và độ
người dân thốt khỏi khổ đau. Trần Thái Tơng vừa nắm việc triệu chính, vua nghĩ về
triết lý của Đạo Phật. Đây là nét đặc trưng trong tính cách Trần Thái Tơng. Ngài xứng
đáng là “gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam”8.

Trần Thái Tơng, Khóa Hư Lục, Nxb.Khoa học – Xã hội, Hà Nội, 1974, tr.113.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Lá Bối, 1974, tr.237.
7
Thích Trí Quảng, Phật Giáo Nhập Thế Và Phát Triển (Quyển I), Sức sống Thiền của Trần Thái Tông, Tôn Giáo,
Hà Nội, 2008, Trang 292.
8
Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nxb. Thanh niên, TP.HCM, 1995, tr.100.
5
6


5

2.2 Sự nghiệp của Trần Thái Tông
2.3.1. Vị vua anh minh
Vua Trần Thái Tông lên ngôi vào năm Ất Dậu, mùa Đông, tháng 12, ngày Mậu
Dần, đổi niên hiệu là Kiến Trung. Trần Thái Tông “vừa làm vua, vừa làm Phật giữa
cõi đời”9, ở cả hai phương diện dù là vua hay Phật thì đều đầy đủ khả năng để cứu
nhân độ thế, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Trần Thái Tông là vị vua anh minh,
người yêu nước thương dân với tư tưởng “lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của
mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình”10. Với tư tưởng đó, trong suốt q trình trị

vì đất nước, Trần Thái Tơng đã xây dựng một đất nước hùng mạnh, phát triển trên mọi
phương diện.
Về mặt đào tạo nhân lực, tập trung đào tạo con người kiểu mẫu “làm cán cân cho
hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai”. Bất cứ quốc gia nào muốn hưng thịnh đều có
chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để phát triển đất nước.”11 Với
nhà vua, một con người phải hoàn hảo trên hai phương điện cá nhân và xã hội, tức cá
nhân phải đầy đủ tài đức, nhân cách hoàn thiện phù hợp với nhu cầu phát triển của xã
hội. Tháng 6 năm 1253, Trần Thái Tơng sai dựng Quốc học viện. Sau đó, ông triệu tập
sĩ phu trong nước và Quốc tử viện giảng Ngũ kinh, Tứ thư. Việc giáo dục con cháu
cũng được vua chú trọng, “vua thân làm bài minh cho các hồng tử, dạy về trung hiếu
hịa tốn, ơn lương cung kiệm”12. Về văn hóa - giáo dục, mặc dù tôn sùng đạo Phật,
nhưng Trần Thái Tông cũng kết hợp hài hòa nền giáo dục Nho giáo. Từ năm 1232 đến
1239, ông đã tổ chức các khoa thi Thái học sinh để truyền nho sĩ giỏi ra giúp nước.
Tháng 8 năm 1236, Thái Tông cho các Nho sinh thi đỗ vào hầu vua, việc này sau trở
thành lệ. Tháng 2 năm 1247, nhà vua mở khoa thị Tam khôi đầu tiên, lấy được trạng
nguyên Nguyễn Hiền, bảng nhãn Lê Văn Hưu, thám hoa Đặng Ma La cùng 48 thái học
sinh. Tháng 8 năm 1247, để chọn người am hiểu 3 đạo: Phật, Nho và Lão ra làm quan.
Ngơ Thì Sĩ đã nhận xét về nền khoa cử thời vua Thái Tông rằng: “điều lệ khoa thi
ngày thêm đầy đủ, ân điển ngày một long trọng, ở đó mới sản xuất lắm nhân tài, so với
triều Lý thịnh hơn nhiều”13. Mùa xuân năm 1256, Thái Tông mở khoa thi Tam khôi
thứ hai, đồng thời đặt lệ lấy hai trạng nguyên: một kinh trạng nguyên dành cho các lộ
phía bắc và một trại trạng nguyên dành cho Thanh Hóa và Nghệ An để khuyến khích
việc học ở phương nam. Khoa này chấm đỗ 47 người.
Về chính trị, Trần Thái Tơng là người mở mang cơ nghiệp nhà trần, củng cố đất
nước sau khủng hoảng cuối thời Lý. Sau khi lên ngôi, vua Trần Thái Tông đã định lại
quan chế Đại Việt. Năm 1236, vua Trần Thái Tông đặt lệ cấp lương bỗng cho bá quan
văn võ trong triều, ngoài địa phương và các quan coi cung thất, lăng tẩm. Năm 1244,
ông lại đặt thêm chế độ lương bổng cho các quan túc vệ. Sử gia Phan Huy Chú trong
Lịch triều hiến chương loại chí có bình luận: “Chính sự nhà Trần làm việc này là rất
phải, thực rất đáng khen”. Hay trong bài tựa Kinh Kim Cang Tam Muội được in lại

trong sách Khóa hư lục, Trần Thái Tơng đã nói về sự học của mình: “Trẫm lo việc
chăn dân, mỗi lúc gian nan thường lăn lốc trong công việc, quên cả sớm chiều, cơng
Thích Phước Đạt, Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm, Nxb Hồng Đức, 2019, tr.50.
Thích Phước Đạt, Trần Thái Tơng và Khóa Hư Lục nhìn từ góc độ văn học, Nxb Hồng Đức, 2010, tr.67.
11
Sđd, tr.68
12
Ngơ Sĩ Liên, Đại Việt sử ký tồn thư, Cao Huy Giu (dịch), Đào Duy Anh (hiệu đính, chú thích và khảo chứng),
Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 1998, Tr 348.
9

10

13

Ngơ Sĩ Liên, Đại Việt sử ký tồn thư, tập 2, Viện Sử học dịch, Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội 1998, tr.70.


6

việc thì có hàng vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi khơng có bao lăm, cho nên ban đêm đến
giờ khuya vẫn còn phải thức để đọc sách Nho rồi cịn học kinh Phật”. Thái Tơng đã
học Nho như một mơn học chính trị - xã hội cần thiết cho sự trị dân, và học Phật như
một đường hướng siêu thốt cho tâm tinh và tình cảm. “Là nhà chính trị, vua có nhu
yếu học Nho. Là người có chiều sâu tâm linh, vua có nhu yếu học Phật”14.
Về kinh tế, vua và Trần Thủ Độ rất chú trọng đến thủy lợi, nơng nghiệp. Ơng lập
ra cơ quan Hà đê, có Chánh sứ, Phó sứ phụ trách đê điều trong cả nước. Mỗi khi trong
nước có hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi
đại xá. Nhờ vậy, đời sống nhân dân ấm no và đủ sức dự trữ lương thực để đối phó với
giặc thù khi có giặc ngoại xâm. Các chính sách kinh tế xã hội đầu thời Trần đã khiến

quốc lực mau chóng khơi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh và thái bình.
Trong 33 năm tại vị, Trần Thái Tông đã đưa Đại Việt phát triển, xây dựng nên nền
tảng vững chắc toàn diện cho Triều đại nhà Trần sau này. Vua đã lấy nhân đức để trị
dân, nhờ hiền tài để dựng nước, đem tâm khoan nhượng để thu phục lịng người, lấy trí
dũng để bảo vệ đất nước. Trần Thái Tông đã thật sự đem được cái tâm của một “ông
vua thiền sư” để lãnh đạo, xây dựng và bảo vệ giang sơn xã tắc. Hẳn phải một người
anh minh, đầy đủ bi, trí, dũng của người con Phật, Trần Thái Tơng mới có thể làm
được những việc như vậy.
Tóm lại, Trần Thái Tơng đã đưa nền văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội của đất
nước phát triển cường thịnh. Trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, Ngài trực tiếp chỉ
huy, chặn đánh địch trên tuyến bố phòng sẵn. Ba lần đánh bại quân Nguyên Mông,
một đạo quân đã từng chinh phục Trung Quốc và gót ngựa sắt của chúng cịn dày xéo
bao nhiêu quốc gia khác từ Á sang Âu. Chiến thắng này khơng chỉ có ý nghĩa qn sự
- chính trị là giữ yên bờ cõi của nước Nam ta, mà còn đúc kết thêm những bài học sâu
sắc về xây dựng chế độ nhà nước trên cơ sở gắn bó lợi ích của giai cấp quý tộc phong
kiến với lợi ích chung của dân tộc. Với lời tâm nguyện “Phàm vi quân nhân giả, dĩ
thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm”, Ngài là một vị vua anh minh đã
biết nắm lấy lịng dân, biết đồn kết tồn dân, góp phần kéo dài vận mệnh của triều
đình. Điều này cùng với việc thống nhất các thiền phái, đã tạo nên một sức mạnh nội
tại của dân tộc Đại Việt, gọi là hào khí Đơng A. Một trong những biểu tượng khởi
xướng tinh thần yêu nước nồng nàn, nối kết giáo lí thiền mơn để hướng tâm chúng
sanh thành tâm Phật. Ngài đã xây dựng mẫu người lí tưởng, vừa có lịng u nước vừa
giữ nếp sống đạo.
2.2.2.Thiền sư đắc đạo
Trong Thiền Tông chỉ nam tự, vua Trần Thái Tơng diễn tả việc học Phật của mình
thuở nhỏ rằng: “Trẫm khi còn trẻ thơ, ở tuổi hiểu biết, hễ được nghe lời dạy của thiền
sư, thời trầm tư mặc tưởng, hồn nhiên thanh tịnh, lưu tâm ở nội giáo, tham cứu ở
Thiền tơng, qn mình tìm thầy, tinh thành mến đạo. Tuy cái ý hồi tâm hướng não đã
manh nha, nhưng cái cơ cảm xúc vẫn chưa đạt được”15. Qua lời kể của vua đã cho
thấy phần nào chí làm bậc xuất thế nhưng tư tưởng chỉ manh nha mà vẫn chưa thực

hiện. Cho tới khi những việc không như ý xảy ra liên tục sau này, việc xuất trần được
quyết tâm thực hiện.
14

15

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Lá Bối, 1974, tr.239.
Thích Phước Đạt, Trần Thái Tơng và Khóa Hư Lục nhìn từ góc độ văn học, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2019, tr.56.


7

Đến khi Thái hậu mất lúc đó vua 16 tuổi, cha cũng tiếp tục qua đời. Nghĩ phận
hiếu chưa tròn, cha mẹ đã rời cõi trần mà đi, thân phận không nơi nương tựa, lại sớm
gánh vác việc nước. Trước tất cả những nhân duyên, áp lực đó, vua suy nghĩ: “Chi
bằng hãy lui về chốn núi rừng, tìm hiểu Phật giáo, để tỏ rõ việc lớn của sanh tử, để
báo đáo cù – lao, chẳng cũng tốt lắm sao!” Vua đã quyết chí lên núi tầm sư học đạo,
giả mặc thường phục để dẫn theo vài người ra khỏi thành, tiếng là để thăm hỏi lê dân,
rốt cuộc là từ bỏ ngai vàng, xuất thân, tìm về chốn sơn lâm ngõ hầu tìm con đường làm
Phật. Sau tất cả những gian nan của con đường, vua một mình trèo lên tận Yên Tử,
tham kiến Trúc Lâm Quốc sư cầu làm Phật. Một vị vua từ bỏ ngai vàng lên núi cầu
làm Phật, lại được quốc sư đáp: “Trong núi vốn Khơng có Phật, Phật chỉ có trong tâm.
Tâm vắng lặng mà biết, đó gọi là chân Thật. Nay bệ hạ nếu ngộ được tâm ấy, thời tức
khắc thành Phật, khơng phải nhọc cơng tìm đâu xa”16.
Câu trả lời đó đã làm lý tưởng tu hành, cũng chính là lý tưởng sống của vị vua mà
sau này vừa làm vai trò quản lý đất nước đại tài, lại vừa là một nhà tu hành đắc đạo.
Vua ngộ được cái lý trong lời dạy của quốc sư, từ đó thuận theo ý nguyện của dân tộc,
khơng ở núi tìm Phật mà quay về với giang sơn xã tắc, đem hạnh phúc cho bá tánh,
đem ý nguyện tu hành độ chúng sinh, độ chính mình. Để rồi suốt bao năm trị vì trên
ngôi báu, vua vừa làm việc nước, lúc nhàn rỗi thì tham thiền học đạo, sau cùng chứng

ngộ cốt yếu của nhà thiền qua bản kinh Kim cương. Sự chứng ngộ thông qua câu
“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của vua được vua thể hiện thông qua tác phẩm
“Thiền Tông chỉ nam” mà được Quốc sư ba lần tán thán: “Tâm của chư Phật hết ở
trong sách này, sao không đem khắc ván in chư Kinh để dạy hậu học?”17
Mang trong mình gánh nặng đế vương, nhưng sau khi đánh thắng quân Nguyên
Mông, năm bốn mươi mốt tuổi, Trần Thái Tông đã truyền ngôi cho Thái tử Trần
Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Kể từ đây, ông càng chuyên tâm về Phật pháp, sống
đúng với tư chất con cháu nhà thiền, trở về thật với tâm nguyện và con người vốn xưa
của Trần Thái Tông. Từ thời ấu thơ, ông đã say mê Phật pháp, đến khi lớn thì tâm tính
dịng họ Thích trong ơng lại càng hiện rõ. Đặc biệt, từ nỗi khổ đau, bất lực và dằn vặn
nội tâm sau những thị phi do Trần Thủ Độ sắp đặt, chí xuất gia trong Trần Thái Tơng
đã thật đi đến quyết định từ bỏ ngôi vua để cầu làm Phật. “Đó là sức mạnh của Trần
Thái Tơng, khi ơng tun bố có thể rời bỏ ngai vàng lúc nào cũng được, như bỏ chiếc
giày rách”18. Nhưng vì thời thế và trách nhiệm xã tắc, không thể thối lui, Trần Thái
Tông đành ở lại ngôi vua, gánh vác sứ mạng dân tộc Đại Việt. Cho nên, khi lui về làm
Thái Thượng Hồng, Trần Thái Tơng dành hết tâm huyết và thời gian cho việc nghiên
cứu Phật pháp, sớm rõ “việc lớn” nhà thiền, trở thành một trong những cư sĩ uyên
thâm trác việt bậc nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, có ảnh hưởng rất lớn đối với
sự ra đời thiền phái Trúc Lâm của dân tộc do cháu ông, tức vua Trần Nhân Tông xây
dựng sau này.
Trần Thái Tông là người triển khai thành công Phật giáo nhất tơng, đó chính là
đặt nền tảng cho thiền phái Trúc Lâm ra đời. Sự thống nhất ý thức hệ này đã góp phần
tạo ra sự hợp nhất tư tưởng dân tộc trong công cuộc mở mang đất nước với những u
cầu và nhiệm vụ mới. Nó khơng chỉ tạo ra bản sắc thiền tơng Đại Việt mà cịn tác động
mạnh mẽ vào đời sống chính trị, văn hóa, xã hội nước nhà. Quan điểm Phật giáo đi vào
Thích Phước Đạt, Trần Thái Tơng và Khóa Hư Lục nhìn từ góc độ văn học, Nxb Hồng Đức, 2019, tr 58.
Sđd, tr 60.
18
Thích Minh Châu, Chánh Pháp Và Hạnh Phúc, Chùa Việt Nam và mối liên hệ với nền văn hóa dân tộc, Nxb
Tơn Giáo, Hà Nội, 2001, tr. 263.

16
17


8

đời đã trở thành nét đặc trưng với lời dạy nổi tiếng trong kinh Pháp Hoa là “khai thị
chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Với quan điểm này thì Phật giáo tùy từng giai
đoạn của lịch sử mà tham gia đóng góp cho đất nước.
Ơng tỏ ra tâm đắc với lý thuyết Đạo Phật: “hình xác khơng lâu bền, giàu sang
khơng giữ mãi, mau chóng như dịng sơng nước chảy, phút chốc như đầu núi mây phơi.
Lúc thường chẳng gây nhân lành, ngày khác hẳn về chốn khổ ... ” (Khóa hư lục). Trần
Thái Tơng là người sống trong thế giới vật chất, sặc mùi danh lợi, thế mà Ngài vẫn
hướng tâm giải thoát và chủ trương đặt nền móng quan điểm tư tưởng cho thiền phái
Trúc Lâm.
2.2.3.Nhà văn - nhà thơ sám hối
Trần Thái Tông là tác giả đầu tiên viết nhiều tác phẩm thiền học nổi tiếng, các tác
giả khác lấy đó làm nền tảng để xây dựng cho nền thiền học Đại Việt. Ông là một
thiền sư sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị về Phật học và văn học. Vì vậy, người đời
tơn vinh Ngài là “bó đuốc thiền tơng” trong lịch sử Phật giáo nước nhà.
Theo Thánh đăng ngữ lục thì Trần Thái Tông là tác giả các tác phẩm sau: Văn tập
(1 quyển), Chỉ nam ca (1 quyển), Thiền tơng khóa hư (10 quyển). Cũng theo Thánh
đăng ngữ lục thì ngồi những tác phẩm trên, Trần Thái Tơng cịn có một số tác phẩm
khác nữa. Sau này, người đời sau gộp chung vào Khóa hư lục, Thiền tơng chỉ nam tự,
Kim cương tam muội kinh tự, Lục thời sám hối khoa nghi. Trong đó, tác phẩm “Khóa
hư lục” là sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời đã vận dụng vào việc đối nhân xử thế.
“Khóa hư lục” khi thể nhập vào đời sống thực tiễn, nó như một bản kinh mà âm hưởng
của nó vẫn cịn in dấu ấn trong tâm khảm của mọi người dân Việt ngày nay để tiếp sức
cho cuộc hành trình xây dựng đất nước Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu.
Trần Thái Tông đã truyền dạy kinh nghiệm tu hành của mình qua tác phẩm Thiền tơng

chỉ nam để trình bày sở đắc của mình trong quá trình nghiên cứu kinh điển và cơng
phu hành trì, và nó trở thành kim chỉ nam cho Trần Nhân Tông về sau thành lập thiền
phái Trúc Lâm.
Nhu cầu sinh tồn, nhu cầu hơn nhân gia đình, nhu cầu thăng tiến của tinh thần... là
nhu cầu tất yếu của mỗi người. Là bậc đế vương, Trần Thái Tông cũng phải đối diện
biết bao vấn đề chướng ngại, kết quả là phải tự chiến thắng mình. Trong bài tựa “Lục
thời sám hối khoa nghi”, nhà vua đã viết khá cụ thể về mình khi phải trải nghiệm qua
các ham muốn và sống với tinh thần vô trước, không hệ lụy các dục ở đời: “Phồn hoa
cám dỗ bên ngồi; Thị dục xé vị trong dạ. Miệng chán cao lương; Mình đầy vàng
ngọc. Mắt tai tơi tớ sắc thanh; An ở yên trong đài tạ. Lại nữa, thói đời khinh bạc, nhân
pháp suy vi, kẻ theo học thì bướng gàn mù quáng, khinh rẽ thiện căn. Ngày thị bụi bặm
va chạm, lưới nghiệp vấn vương; Tối thì màn ngủ lấp che, dây trời trói buộc. Ngày
đêm bám víu, đó chẳng phải cái lỗi gây ra tai họa và chuốc lấy hiềm khích hay
sao?”19
Mỗi cá nhân đứng trước các nhu cầu, cần phải có thái độ tỉnh thức mới bước ra
khỏi sự vây hãm của sáu trần. Trần Thái Tông cho rằng ý muốn cá nhân được xuất
phát từ sáu căn duyên với sáu trần làm nảy sinh nên những ác nghiệp tội lỗi hiện hành.
“Vua không phải là một người tầm thường chỉ muốn hưởng thụ những lạc thú cuộc
đời, những lạc thú có thể nằm trong tầm tay của một người như vua. Trái lại, vua
19

Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, trang 157 -158.


9

muốn vươn tới và tự nhủ đừng đánh mất mình trong những thế giới hình sắc, âm thanh,
hương vị, và cảm xúc của hưởng thụ”20.
Việc ăn uống của con người, ăn để thoả mãn những ý muốn đã làm khốn khổ biết
bao nhiêu nhân mạng chúng sanh. Trong Lục thời sám hối khoa nghi mô tả thật hãi

hùng về ham muốn cái ăn như sau: “Thần triêu tố thiện, phạn thiếu thuỷ đa; Chân tự
bệnh nhân, cưỡng san dược chúc. Cao chi mãm mục, đàm tiếu hân hân; Tửu khuyến
thực hành, nỗn lai lãnh thối. Diên tân, đãi khách, giá nữ hôn nam, sát hại chúng
sanh, giai do tam tốn.” (Buổi sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều; khác chi người ốm,
cháo thuốc gắng xong. Mỡ màng đầy mắt, cười nói ran ran, rượu chuốc cơm mời,
nóng thay nguội đổi. Bày tiệc đãi khách, dựng vợ gã chồng, giết hại chúng sanh, vì ba
tấc lưỡi)”21. Động cơ thèm ăn khát uống của con người là thế. Khơng ai có thể kiểm
sốt các ý muốn ngồi tự thân. Người ta khơng đơn thuần uống để chống cái khát mà
uống để minh chứng cái tham muốn. Tội lỗi từ nghiệp uống các chất say thì nhiều vơ
kể, khơng chỉ tự hại mà còn gây tác hại đến người khác. Hầu như các mối quan hệ của
con người từ đây bị đỗ vỡ, do không làm chủ cái uống.
Thực tế, ý muốn cá nhân chưa dừng lại chỗ đó, khơng có cái gì hiện hữu trên cuộc
đời mà lại người ta không khát khao sở hữu. Con người khởi tâm xâm phạm người
khác bằng nhiều thủ đoạn xấu xa từ trong ý nghĩ, cho đến vọng ngôn, cuối cùng là
thẳng tay cướp đoạt. Tất cả đều do tâm ý con người có chứa các hạt giống tham sân si
khởi lên, tạo ra tội lỗi không lường.
Tự thân mỗi cá nhân tẩy rửa các ham muốn từ trong tâm thức qua việc sám hối sáu
thời trong một ngày thì sẽ tác động đến đời sống người đó, đồng thời lan toả vào gia
đình và xã hội. Đây là thái độ sống khởi đầu bằng giáo dục tự thân, từng bước hoàn
thiện nhân cách, sau đó đi vào con đường tu đạo hướng thượng, thốt ly sinh tử mà ai
cũng thể thực hiện được.
Tóm lại, Trần Thái Tông biên soạn Lục thời sám hối khoa nghi để tự làm lợi cho
mình và làm lợi cho người. Đây là khoa nghi sám hối riêng biệt, để khẳng định ý thức
tự chủ của dân tộc về mặt thực nghiệm tâm linh. Tác phẩm này đã khẳng định ý thức
tự chủ của mình, cảnh giác trước những ý muốn xấu từ bản thân mình, tìm cách răn đe
chính mình bằng cách hàng ngày đối diện với chúng, thơng qua việc sám hối. “Sám
hối như vậy là một hành động tự giác của mỗi cá nhân trong cuộc sống xã hội, xem xét
chính mình có một vị phạm gì làm tổn thương đến người khác và môi trường sống
xung quanh mình”22.
Chương 3. TƯ TƯỞNG THIỀN HỌC CỦA TRẦN THÁI TƠNG

3.1. Tư tưởng Phật tại tâm
Vua Trần Thái Tơng là người có cảm xúc nhạy bén, nhìn mọi việc một cách sâu
sắc. Lời nói của Trúc Lâm Quốc Sư về bổn phận của người chịu trách nhiệm đối với
đất nước đã in sâu vào tâm não vua như một phong cách sống. Đã là vua thì khơng cịn
theo ý thích của riêng mình nữa, mà phải lấy ý thích của dân làm ý thích của mình.
Vua chấp nhận và tn phục, nhưng vua muốn sống cuộc sống của chính mình.“Chính
vua tự tìm học Phật theo lời khuyên của Trúc Lâm Quốc sư. Ngôi báu, đối với vua
không phải là một đối tượng thèm khát nước ao, mà chỉ là một gánh nặng không thể
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Lá Bối, 1974, tr.252.
Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr.198 -199.
22
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb.TP.HCM, 2002, tr.686.
20
21


10

không gánh. Khi quốc gia cần, vua cũng tự thân chiến đấu, can đảm vào sinh ra tử, đi
trước ba quân. Nhưng khi gà mới gáy sáng, vua đã giật mình dậy, khơng muốn chơn
mình lâu trong giấc ngủ nơi giường êm nệm ấm”23. Ngài đã sống với tinh thần “Phật
tại tâm” ngay giữa cõi trần tục. Từ đây, một nếp sống mới định hình trong sinh hoạt
Phật giáo đời thường. Đã là người, nhất là Phật tử thì khơng thể sống tách rời với
những người xung quanh. Con người phải tham gia và vận động vào các môi trường
sinh hoạt thực tiễn dù là ở cấp độ gián tiếp hay trực tiếp, tức sống theo tinh thần Phật
giáo Thiền tơng. Nói cách khác, đời sống đạo u cầu con người tự nguyện xả bỏ
những ham muốn cá nhân, có thái độ sống xả ly, không hệ luỵ bất cứ cái gì, ngay cả
cái thân ngũ uẩn giả tạm này.
Nhìn từ góc độ quốc gia dân tộc thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, tư
tưởng Phật tại tâm, tư tưởng vô ngã được vận dụng vào đời sống trên nhiều lĩnh vực.

Với một tinh thần vô ngã, vô trú của đạo lý Thiền tông, nhà vua đã biến những ý muốn
của thiên hạ, tấm lòng thiên hạ thành những ý muốn, những tấm lòng cao đẹp của sự
giác ngộ chân tâm thường trụ, bản tính thường lạc. Vua không những thành đạt trong
sự nghiệp muôn dân, bảo vệ hịa bình, mà cịn thành cơng trong sự nghiệp học đạo và
tu đạo nữa.
3.2. Tư tưởng biện tâm
Vua Trần Thái Tông chủ trương Phật tại tâm, không phân biệt Tăng tục, nam nữ,
bất cứ thành phần nào trong xã hội, ai cũng có thể là thành viên của Thiền phái, với
một tấm lòng “chỉ cốt yếu biện tâm”. Theo Trần Thái Tông, vấn đề cốt lõi đời sống
Phật giáo, theo nếp sống Thiền là cần phải xử lý tâm “Biện tâm”, khơng phân biệt đối
tượng đó là ai trong đời sống thực tiễn. Theo “Niệm Phật luận” Trần Thái Tông viết:
“Tâm tức Phật, không cần tu thêm, niệm tức là bụi trần, không vướng một mảy may,
trần và niệm vốn tịnh, nên nói là như như bất động. Đó là Phật thân. Phật thân tức là
thân ta ấy vậy, khơng có hai tướng. Tướng và tướng khơng hai, lặng lẽ tồn tại thường
hằng. Tồn tại mà không biết, đó gọi là Phật sống”. Như vậy, tất cả phiền não, tội lỗi
xấu xa đều do tâm khởi lên và cũng từ tâm phát triển thành tựu các công đức, vấn đề là
tâm khởi lên theo sự vận hành nào: “Tâm khởi ư thiện tắc vi thiện niệm. Thiện niệm
chi khởi tắc thiện nghiệp báo chi. Tâm khởi ư ác tắc vi ác niệm, ác niệm chi sinh tắc
ác niệm ứng chi. Như kính hiện tượng, tự ảnh tuỳ hình” (Tâm khởi điều thiện tức là ý
nghĩ thiện. Ý nghĩ thiện khởi dậy thì thiện nghiệp báo lại. Tâm khởi điều ác tức là ý
nghĩ ác. Ý nghĩ ác nảy sinh thì ác nghiệp ứng theo. Như gương hiện ảnh, như bóng
theo hình)”24. Thế nên, kinh Kim cương tam muội mới đưa ra phương thức tu tập để
tâm khơng cịn bị các khách trần bám víu, nghĩa là “chuyển chư tình thức nhập Am ma
la” (Chuyển các tình thức vào Am ma la) trở về bản tâm thanh tịnh.
Cuộc sống có rất nhiều sự biến động và con người cần phải chủ động để loại trừ
các khách trần. Khơng gì khác hơn là thực thi nếp sống đạo theo tinh thần Thiền tông
mà nhà vua đề ra với các phương thức hành trì để xử lý tâm, “biện tâm”. Chính đặc
trưng tinh thần thiền học này, nó trở thành kim chỉ nam để Trần Thái Tông trong
cương vị một nhà lãnh đạo tối cao của nước Đại Việt, nhà lãnh đạo tôn giáo với tư
cách là vị thiền gia chứng ngộ giải quyết các vấn đề liên hệ cá nhân con người, gia

đình, xã hội, quốc gia, dân tộc. Hẳn nhiên, phương thức hành trì thiền nó khơng chỉ tồn
23
24

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Lá Bối, 1974, tr.259.
Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb.KHXH, Hà Nội, 1977, tr.84 - 85.


11

tại trong các ngôi chùa nguy nga tráng lệ mà có thể hoạt động ở bất cứ nơi nào dù
thành thị, nông thôn, chợ búa hay núi non hiểm trở, thậm chí nó cịn phát huy ngay
giữa chiến trường để đối đầu với giặc Nguyên Mông. Với chủ trương Phật tại tâm,
không phân biệt tăng tục, nam nữ, bất cứ thành phần nào trong xã hội, ai cũng có thể là
thành viên của Thiền phái, tuỳ theo căn cơ trình độ mà thực thi những phương thức
hành thiền qua pháp môn niệm Phật, Lục thời sám hối khoa nghi, cuối cùng là pháp
mơn thực tập thiền. Mục đích cuối cùng là mọi người dân thực hiện đúng nếp sống đạo,
hướng đến giải thoát giác ngộ ở một đất nước Đại Việt thanh bình.
3.3. Quan điểm thân phận và tình yêu con người
Trên hành trình tu tập, chuyển hóa khổ đau thành an lạc hạnh phúc, việc đầu tiên
cần phải làm chính là chấp nhận những khổ đau và nguyên nhân đem đến khổ đau hiện
có. Phải chấp nhận, chúng ta mới đủ khả năng bắt đầu chuyển hóa, vì thế mà Trần Thái
Tơng có quan điểm rất rõ ràng về thân phận và tình yêu con người.
Thân phận và tình u là hai phạm trù có tính chất đối lập, thân phận mang một ý
nghĩa hữu hạn, được qui định sẵn, tình u có ý nghĩa rộng lớn bao la. Trên chặng
đường phát triển tâm thức, con người luôn muốn hướng tới những gì cao đẹp, rộng lớn
hơn, “khơng bao giờ chịu an bài, chấp nhận, khuất phục cái thân phận định sẵn, mà
ln tìm cách thăng chứng, chứng ngộ, giả thốt, vơ sanh bất tử”25. Quan điểm về
thân phận con người của Trần Thái Tông cho thấy việc phải làm đầu tiên trên con
đường chuyển hóa chính là “tự biết mình”.

Thân là một vị vua, sống trong sung túc cả về danh lẫn lợi, nhà vua phải thoát khỏi
những cám dỗ đó, tự hiểu rõ bản thân mình là yêu cầu cần và đủ cho việc thoát khỏi
ngũ dục thường tình ấy. Nhà vua có quan điểm rõ ràng rằng: “các ngươi hãy xem lại
cho tường, “sắc thân” kia khi chưa vào bào thai do đâu mà có? Ấy là do niệm nhóm,
duyên tụ; ngũ uẩn hợp thành. Dáng vóc lầm sinh, hình dung giả lộ.”26 Qua đó, ta thấy
vua xác định thân phân con người do ngũ uẩn mà hợp thành, là giả hợp mà thôi nhưng
con người lại chấp vào cái giả hợp đó cho rằng của chính mình rồi bám víu khơng rời
nên trầm ln trong khổ đau. Vì tấm thân giả hợp cịn khơng nắm bắt được huống chi
là sắc tài danh vọng, những thứ ngồi thân như vậy thì làm sao giữ được bền lâu mà
chấp chặt kiếm tìm.
Chính vì thân phận con người là giả hợp nên luôn chịu chi phối của qui luật vô
thường. “Sanh, trụ, dị, diệt” hay “sanh, lão, bệnh, tử” luôn vận hành theo một qui luật
mà Trần Thái Tơng diễn tả: “xưa kia má hồng tóc thắm, ngày nay xương trắng tro
tàn…Dẫu có văn chương nức tiếng, dù cho tài sắc nghiêng thành, nào ai có khác chi
ai, rốt cuộc đều về một mối”27. Một mối ở đây chính là qui luật vơ thường vậy, biết
được thân phận con người là hữu hạn, rồi sẽ sinh diệt theo lẽ vơ thường, con người sẽ
thơi khơng bám víu mà đi tìm Phương cách vượt thốt khỏi cái hữu hạn đó.
Như vậy, con người là tổ hợp của Năm uẩn, chịu chi phối của qui luật vô thường,
những hành động có tác ý của con người đều trở thành nghiệp, nghiệp này chi phối
hoạt động tâm lý, vật lý của con người. Con người lại chứa trong mình vơ vàn những
nghiệp xấu do tham, sân si mà đưa đến khổ đau. Những sự thật như vậy cần được biết

Thích Phước Đạt, Trần Thái Tơng và Khóa Hư Lục nhìn từ góc độ văn học, Nxb Hồng Đức, 2019, Tr 110.
Sđd, tr.112.
27
Sđd, tr 115.
25
26



12

rõ mà chấp nhận tuyệt đối, những gì là khổ đau, hữu hạn của con người cịn được Trần
Thái Tơng diễn tả trong bài Phổ thuyết Tứ sơn.
Đó là hình ảnh bốn ngọn núi cheo leo sanh, già, bệnh, chết mà Trần Thái Tông
diễn tả về cuộc đời con người, mỗi cá nhân phải tự mình vượt qua bốn ngọn núi ấy,
với sức lực của tự thân. Ngọn núi sanh được diễn tả tràn đầy sức sống: “Mùa xuân
trong năm, khỏe khoắn thay sự thịnh vượng của dương xuân, mới mẻ thay vẻ tươi tốt
của muôn vật. Một trời sáng đẹp, thôn thôn liễu biếc đào hồng, muôn dặm phong
quang, chốn chốn oanh ca bướm múa”28. Mùa xuân đẹp đẽ là thế, núi sinh tràn đầy
sức sống là thế, nhưng khơng thốt khỏi qui luật của vơ thường, khơng khỏi ngậm ngùi:
“Xem ra không lọt lưới luân hồi, rút lại khó tránh vịng sinh hóa”29. Những khổ đau
của kiếp người còn tiếp tục với ba ngọn núi tiếp theo, đầy dẫy những gì khó chịu, khó
vượt qua. Ngồi sự chi phối của những ngọn núi trên, thân phận con người cịn được
Trần Thái Tơng diễn tả với những nghiệp quả do sáu căn mang lại khi tiếp xúc với sáu
trần. Những gì con người cần vượt qua đã được Trần Thái Tông khắc họa một cách rõ
ràng, giàu cảm xúc, qua khó khơi gợi cho con người tinh thần tự mình vươn lên, vượt
qua số phận, chuyển hóa những khổ đau thành hạnh phúc, từ thân phận hữu hạn đến
tình yêu vô hạn.
Để làm những điều trên, Trần Thái Tông chủ trương hộ trì sáu căn, thường xuyên
chánh niệm tỉnh giác để khơng bị các trần lơi kéo, từ đó mà thoát khỏi những khổ đau
của kiếp người. Cần phải tỉnh thức trước những gì đẹp đẽ của thế gian làm cho nhãn
căn đắm nhiễm; những lời nói ngọt ngào, thuận tai làm cho nhĩ căn đắm nhiễm; những
mùi hương nhẹ nhàng, ưa thích làm cho tỷ căn mất tỉnh giác; cùng những thức ăn ngon,
mùi vị thơm ngọt, những xúc chạm ưa thích làm cho thiệt căn, thân căn đắm nhiễm.
Những thứ khổ đau từ năm căn đắm nhiễm với năm trần làm cho con người chìm đắm
trong sinh tử nhưng cội rễ của những đắm nhiễm chính là ý căn, bởi lẽ mọi sự đều xuất
phát từ ý căn; những hạt giống tham, sân, si làm cho ý thường nghĩ những điều sai
quấy, có tác ý thơi cũng đã là nghiệp báo rồi huống hồ từ ý sẽ nảy sinh ra hành động.
Con người vẫn thường rong ruổi theo cảnh trần để nhằm tìm kiếm và thỏa mãn

mong muốn. Còn mong muốn, còn ước mơ đối tượng chứng tỏ đối tượng đó chưa có
mặt, chưa đủ. Bản chất của sự tìm kiếm là cảm giác thiếu vắng, khát khao. Tính ra thì
con người đã và đang thậm chí sẽ tìm, ln tìm nhiều thứ: tài, danh, sắc, thực,
thùy,v.v ... để thỏa mãn những bản năng, mong muốn trần thế của mình. Và trong
những người xuất trần khơng phải là khơng có sự truy tầm những đối tượng mong
muốn vi tế chính mình như thần thơng, trí tuệ, sự giải thốt hay những hình lý tưởng
của mình như Thần Tiên, La Hán, Bồ-tát, Phật đà. Ngọc báu trong mình mà khơng biết
tiêu dùng, cũng như Phật tính sẵn có trong mỗi chúng sinh mà không biết trau dồi tu
sửa để lâu ngày bị bụi trần che lấp đến nỗi phải vất vả kiếm tìm, hay nói như dân gian:
"Phật nhà khơng cầu, đi cầu Thích Ca ngồi đường ".
Cịn con người mà chúng ta tưởng là thật, với cái tâm tham, sân, si là con người
giả, cái Ta giả. Vấn đề tu hành khơng phải là đi tìm một con người nào khác, mà là bỏ
con người giả, cái Ta giả để trở về cái Ta thật, con người thật của chúng ta. Sự giác
ngộ của đạt đạo phải thực hiện được ngay trong cuộc đời, bởi vì, thành Phật khơng có
gì khác là nhận chân con người thật của chính mình là Phật. Khi Trần Thái Tơng bỏ
ngai vàng lên núi gặp gỡ thiền sư Viên Chứng để cầu đạo, cầu làm Phật, Thiền sư trả
28
29

Thích Phước Đạt, Trần Thái Tơng và Khóa Hư Lục nhìn từ góc độ văn học, Nxb Hồng Đức, 2019, tr.118.
Sđd, tr.119.


13

lời rằng: “Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm. Tâm tịch nhi tri, thị danh chân Phật "
(Trong núi vốn khơng có Phật. Phật chỉ trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó là ơng
Phật thật). Trong phẩm Thọ ký của kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng nói đến viên ngọc
trong chéo áo. Tuy nhiên, ngọc báu trong chéo áo ở phẩm kinh này mới chỉ là Phật
tính: cái mầm giác ngộ hay khả tính thành Phật, chưa phải là Phật. Ngọc báu trong nhà

ở “Cư trần lạc đạo” có khác, ngọc này chính là Phật hay chân Phật. Nói như nhà
nghiên cứu Phật học Minh Chi: “Phật khơng phải chỉ là ở trong tâm người, mà chính
là người Phật''. Một cách dễ hiểu hơn, con người thật của chúng ta là Phật.
Quả đúng như vậy, khi tâm ta lắng đọng sáng suốt thì ơng Phật trong ta hiện rõ
ràng, không cần phải nhọc công bôn ba vượt suối băng rừng tìm kiếm ở thâm sơn cùng
cốc nào cả. Theo Trần Nhân Tơng, “Bản tính lặng n trong trẻo... chẳng dính chẳng
rời'”. Như vậy có nghĩa là, con người, nhân sinh vốn khơng có thiện, khơng có ác,
khơng tồn tại ranh giới giữa phúc và tội, trong mỗi một con người, ai ai cũng có Phật
tính. Lý luận nầy cho rằng, người ta ai cũng có thể thành Phật. Cho nên, Trần Nhân
Tông khẳng định: “Bụt ở trong nhà; Chẳng phải tìm xa'' (Cư trần lạc đạo, đệ ngũ hội);
hay '' Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính lặng
soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc'' (Cư trần lạc đạo, đệ nhị hội); hoặc '' Biết chân như,
tin bát nhã, chớ cịn tìm Phật tổ Tây Đơng; Chứng thực tướng, nên vô vi, nào nhọc hỏi
kinh Thiền Nam Bắc'' (Cư trần lạc đạo, đệ tứ hội). Nếu tâm không giác ngộ, thì dù cho
suốt đời niệm kinh thờ Phật cũng không thể thành chánh quả. Như vậy, đối với Trần
Nhân Tơng, con đường thực hiện để thành Phật chính là sự giác ngộ của ''bản tính''
trong mỗi một con người, nhấn mạnh đến truy cầu nội tại từ trong tâm.
Biết tham, sân, si chi phối làm con người khổ đau, với trái tim yêu thương và sự
hiểu biết, Trần Thái Tông khuyến cáo mọi người phải thường xuyên sám hối sáu căn
để tiêu tai tội chướng, thường xuyên tỉnh thức hộ trì các căn tránh gây các nghiệp
chẳng lành. Chính nhờ cơng phu tu tập mà con người dần loại trừ được những hạt
giống xấu trong tâm thức, hạt giống của yêu thương, từ bi vô lượng sẽ thay thế cho
những hạt giống tham, sân, si chất đầy. Từ đó, con người chuyển hóa từ thân phận hữu
hạn trở thành tình u thương vơ hạn. Trần Thái Tơng chính là hiện thân, minh chứng
cho q trình chuyển hóa này, khi mà nhà vua suốt cuộc đời đã tự mình chuyển hóa và
giúp mọi người cùng chuyển hóa.
Chương 4. PHƯƠNG THỨC TU THIỀN CỦA TRẦN THÁI TÔNG
4.1. Phương thức Sám hối
Phương thức Sám hối là một trong những phương thức hành trì được diễn dịch
theo phong cách thiền. ““Sám” nói đủ là Sám ma (Phạm: Ksama), nghĩa là “nhẫn”,

tức cầu xin người khác tha tội; “Hối” nghĩa ăn năn hối hận tội lỗi mình đã gây ra
trong hiện tại và quá khứ, nay đối trước Phật, Bồ tát, sư trưởng đại chúng nói ra hết
khơng giấu giếm, cầu mong đạt được mục đích diệt tội”30. Sám hối như thế là một
hành động tự giác, trong thiền gọi là tự phản tỉnh. Từ đó, người tu học thiền an trú vào
thiền định và dễ dàng chứng ngộ chân lý.
Theo Bình đẳng sám văn tự viết: "Lễ pháp thân vô tướng chi thể. Đáo giá lý
nhập... diện mục mãn can tự hiện" (Lạy là lạy cái thể vô tướng của Pháp thân. Lạy
được như thế... đến bờ bên kia thì mặt mũi xưa nay tự nhiên hiển lộ).31 Như vậy, sự lễ
30
31

Thích Quảng Độ (dịch), Phật quang đại từ điển, Tập 4, Nxb Phương Đông, TP.HCM, 2014, tr.5114.
Viện Văn học ( 1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.91-92.


14

lạy bái sám có giá trị tẩy rửa các tội lỗi, đưa con người trở về bản tâm thanh tịnh. Do
căn tánh con người khác nhau, vị lương y tùy theo bệnh mắc phải mà cho thuốc. Theo
Trần Thái Tông, phương thức sám hối cũng có chức năng tẩy rửa các khách trần cấu
bẩn, hủy diệt ác nghiệp tích lũy nhiều đời, nhiều kiếp. Nó có một vai trị quan trọng
trong đời sống tu tập mỗi cá nhân đối với việc thăng hoa: “Lợi xuyên chi lai vãng giả,
châu xa dã...tận năng tiêu diệt dã” (Tiện lợi cho việc đi lại dưới sơng trên bộ....có thể
tiêu trừ trong một ngày một phút.)32
Nhà vua là người hằng ngày đối diện với sáu trần phải biết “biện tâm” xử lý tâm
thông qua bái sám, lễ lạy theo nghi thức sám hối. Bài sám là hình thức tu tập có từ lâu
trong các ngơi chùa Việt Nam. Điều đáng nói, là nhà vua vận dụng phương thức tu tập
này vào đời sống thiền định. Với tất cả ý nghĩa cao cả Trần Thái Tông biên soạn và
phổ biến thực hành theo sự phân bổ sáu thời tương ứng cho sáu giác quan.
+ Buổi sáng sám hối nhãn căn (mắt)

+ Buổi trưa dành cho nhĩ căn (tai)
+ Thời chiều dành cho tỷ căn (mũi)
+ Thời đêm dành cho thiệt căn (lưỡi)
+ Thời nửa đêm dành cho thân căn (thân)
+ Thời khuya dành cho ý căn (ý)
“Nghi thức sám hối có trình tự kết cấu chặt chẽ, súc tích, ngắn gọn. Có 11 bước
cho buổi lễ đầu: 1)Đọc kệ cảnh sách khuyên răn mọi người. 2)Lễ đọc văn dâng hương.
3) Đọc kệ dâng hương, 4)Đọc kệ dâng hoa. 5)Đọc lời tâu bạch. 6) Đọc văn sám hối tội
căn do mắt. 7)Dốc lòng khuyến thỉnh. 8)Dốc lòng tùy hỷ. 9)Dốc lòng hồi hướng.
10)Dốc lòng phát nguyện. 11)Đọc kệ vô thường buổi sáng”33.
Đến thời lễ sám buổi trưa, thì có thay đổi chút ít. 1.Lễ đọc dâng hương buổi trưa.
2.Kệ dâng hương. 3.Kệ dâng hoa. 4.Lời tâu bạch. 5. Lời sám hối tội căn do tai. 6.Dốc
lòng khuyến thỉnh. 7.Dốc lòng tùy hỉ. 8.Dốc lòng hồi hướng. 9.Dốc lịng phát nguyện.
10.Đọc kệ vơ thường buổi trưa.
Đến thời lễ sám hối buổi chiều cũng tương tự: 1.Lễ đọc văn dâng hương buổi
chiều. 2.Kệ dâng hương. 3.Kệ dâng hoa. 4.Lời tâu bạch. 5.Lời sám hối tội căn do mũi.
6. Dốc lịng phát nguyện. 7.Đọc kệ vơ thường buổi chiều. Riêng buổi lễ ban đêm, nửa
đêm, về khuya thì ngay buổi lễ sám đêm, trước bước đọc dâng hương, có thay đổi hai
bước: 1.Kệ khuyên đại chúng vào lúc hoàng hôn. 2.Kệ tám khổ. 3.Văn dâng hương
đêm. 4.Lời tâu bạch. 5.Lời sám hối tội căn do lưỡi. 6.Dốc lòng phát nguyện. 7.Đọc kệ
vô thường đêm. Các lễ sám nửa đêm, khuya cũng thực hiện những bước tương tự, chỉ
trừ hai bước đầu.
4.2. Phương thức niệm Phật
Sám hối là một phương thức đã được sử dụng từ lâu, là truyền thống trong nhiều
chùa chiền của Việt Nam, vua Trần Thái Tông đã vận dụng phương thức này vào đời
sống thiền, soạn ra Lục thời sám hối khoa nghi để ứng dụng phù hợp với qui cách sinh
hoạt của thiền phái. Phương thức sám hối được nhà vua phân chia trong một ngày
Sđd, tr.156-157.
Thích Phước Đạt, Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2019, tr
136.

32
33


15

thành 6 thời với mỗi thời sám hối mỗi căn khác nhau: sáng sám hối nhãn căn, trưa sám
hối nhĩ căn, chiều sám hối nhĩ căn, đêm sám hối thiệt căn, nửa đêm sám hối thân căn
và thời khuya giành cho sám hối ý căn. Nghi thức lễ sám được nhà vua chia ra từng
bước rõ ràng, dễ thực hiện. Giọng văn lễ sám cho các buổi lễ “cũng bi hùng và thống
thiết khơng kém những gì nhà vua viết về sắc thân, bốn núi và các giới răn”34. Giọng
văn như thế làm cho con người có cảm xúc, suy niệm sâu sắc hơn về điều mình lễ sám,
ví dụ đoạn văn sám hối về nhãn căn như sau:
“Dốc lòng sám hối, bọn chúng con từ vô thỉ vô lượng kiếp nay, qn mất bản tâm,
khơng biết chính đạo, sa bà đường khổ, bởi sáu căn sai. Nếu không sám trước, khó kịp
hối sau.
Nghiệp căn mắt là: Ác nhân xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh. Nhận lẫn hoa không,
quên xem trăng thật. Ghét yêu đua dấy, đẹp xấu tranh giành. Mắt quáng sinh lầm, mờ
đường chính kiến…
Những tội như thế, vô lượng vô biên, tự căn mắt sinh, phải sa địa ngục. Trải hà sa
kiếp, mới lại thụ sinh. Dẫu có thụ sinh, lại chịu mù chột. Nếu khơng sám hối, khó được
tiêu trừ. Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.”
Trong tác phẩm “Niệm Phật luận”, Trần Thái Tông viết: “Nay kẻ tu hành muốn
khơi dậy ý nghĩ chân chính để dập tắt tam nghiệp cũng nhờ cơng phu niệm Phật vậy…
Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được
nghiệp thân. Miệng tụng lời chân chính, khơng nói điều xằng bậy, thế là tắt được
nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được
nghiệp ý.” Mục đích niệm Phật theo nhà vua là loại bỏ niệm xấu thay vào đó là nhớ
nghĩ niệm tốt. Niệm Phật ngõ hầu dập tắt ba nghiệp thân khẩu ý. Về phương thức hành
trì của mỗi đối tượng dựa trên sự phân chia căn trí cao thấp. Ơng cho rằng trong xã hội

có ba loại trí: thượng trí, trung trí, hạ trí, ứng với ba cách thức hành trì niệm Phật.
- Cách thứ nhất dành cho bậc thượng trí là những người liễu ngộ, tự thân biết tâm mình
chính là tâm Phật, sống trong bụi trần và tâm khơng nhiễm trần, khơng cần tu niệm
thêm gì cả.
- Cách thức thứ hai dành cho đối tượng có căn trí bậc trung. Người có căn trí bậc này
thì phải huy động ý chí, dùng niệm thiện để đẩy lùi các niệm ác. Phát huy sức mạnh
các thiện niệm và triệt tiêu những nghiệp bất thiện khơng cho chúng có cơ hội xuất
hiện. Cuối cùng, họ cũng đạt được trình độ như người có trí tuệ cao hơn:
- Cách thức thứ ba dành cho người có căn cơ hạ trí. Đây là thành phần đông nhất trong
xã hội. Đối với những người này, tâm họ chỉ hướng về nước Phật, mong sao thoát khỏi
những bụi bặm ở đời này. Khi lâm chung lòng thanh tịnh, thác sanh về Phật quốc.
Tuy căn trí mỗi hạng người khác nhau nhưng sở đắc giải thoát phải là một. Trong
ba cách thức niệm Phật, Trần Thái Tơng đánh giá cao phương thức hành trì niệm Phật
sau cùng vì nó được xây dựng trên một nền tảng vững chắc, dễ dàng thích hợp với
quần chúng số đơng. Ơng khuyến cáo mọi người hãy bắt đầu thực thi tẩy rửa thân tâm
từ cách thức hành trì này, hai cách kia nói thì dễ nhưng thực sự địi hỏi căn dun cao,
khơng phải ai cũng thực hiện được. Niệm Phật trở thành phương thức tu tập loại bỏ tập
khí cấu nhiễm dần dần, hướng đến thuần thục để tâm trở nên tịch tịnh.
34

Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Thái Tơng, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2004, tr.290.


16

Như vậy, nhà vua có lý khi chủ trương nhắm vào thành phần đông nhất của xã hội
là bậc hạ trí. Đối tượng để tu tập là nhớ nghĩ về Phật. Tập trung suy nghĩ vào một đối
tượng, một điểm là một hình thức “chỉ”, sâu hơn nữa thấy rõ tâm thức ấy biểu hiện
thành những hành động gì, hoạt động ra sao, có sai trái thì phải sám hối… Đây là một
hình thức “quán”. Khi đã quán thấy rõ như thật sự vật, tỉnh thức với những việc sai trái

thì sẽ điều chỉnh với tất cả niệm… Có thể nói, đó là một phương thức, một hình thức
“chỉ qn song tu”, thực chất là những bước đi đầu tiên của thiền.
Sự vận dụng pháp môn niệm Phật truyền thống vào việc thực thi hành thiền,
chứng tỏ nhà vua khéo léo hướng quần chúng bước vào con đường thiền đi từ thấp đến
cao, chú tâm hướng nội, tìm lại Phật thân. Đây là kết quả biến đổi từ một nội dung
mang màu sắc tịnh độ sang sắc thái “thiền” mà nhà vua cố tình chủ trương, nhằm xây
dựng và phát triển Thiền phái Trúc Lâm.
Chủ trương này đã thành hiện thực qua việc các thư tịch cổ còn lại minh chứng.
Trong Thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung với bài thơ “Thị tu Tây phương bối”. Đến đời
Trần Nhân Tông, phương thức niệm Phật theo quan điểm thiền mà Trần Thái Tông
chủ trương, được ghi lại trong Cư trần lạc đạo phú, ở hồi thứ hai:
“Tịnh độ là lòng trong sạch
Chớ cịn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi
Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc”.
Cách lý giải tư tưởng niệm Phật của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần
Nhân Tông trở thành phổ biến ở các thiền đường Việt Nam, mang phong thái thiền.
Chủ trương như thế hợp với mọi tầng lớp trong xã hội, cứ lấy người hạ trí làm chuẩn
“miệng siêng niệm lời Phật, lịng muốn thấy hình tướng Phật, thân nguyện sinh ở nơi
nước Phật” thì ai cũng có thể tẩy rửa và loại trừ các niệm ác và cuối cùng đạt đến vô
niệm.
4.3. Phương pháp hành thiền
Bước chân đầu tiên của việc thực tập thiền định là phải điều chỉnh tâm ra khỏi
vùng tâm lý rối loạn của những định kiến sai lầm, lối tư duy võ đốn, tác nhân bên
ngồi thường xuyên kích động và quấy nhiễu tâm thức. Tâm thức con người trở nên
lắng đọng, đi vào chánh niệm tỉnh giác nhằm tẩy rửa các hạt giống chứa sự nhiễm ơ,
thu góp tồn bộ năng lực để chuyển hố thân tâm, bước sâu vào con đường thiền định.
Thông qua các văn bản như Giới định tuệ luận, Thụ giới luận, Toạ thiền luận, Tuệ
giáo giám luận đủ minh chứng con đường thiền định của nhà vua là hành trì giới định
tuệ. Quán triệt tinh thần này, nhà vua nói rõ “Phù học đạo chi nhân, duy cầu kiến tính.

Tuy thụ kỳ nhất thiết tịnh giới nhi vô toạ thiền tắc định lực bất sinh. Định lực bất sinh
tắc vọng niệm bất diệt, nhi dục kiến tính gải, bất diệc nan hồ”35. (Người học đạo chỉ
cốt thấy được bản tính. Tuy thụ hết mọi tịnh giới mà khơng ngồi thiền thì định lực
khơng sinh. Định lực khơng sinh thì ý nghĩ sai lầm khơng diệt được, thế mà muốn thấy
bản tính chẳng cũng khó sao).
Như vậy, giữa giới định tuệ có một mối liên hệ hữu cơ. Nó là quy trình biện chứng
giải thốt mà Thái Tơng giải trình trong Tuệ giáo giám luận “Phù tuệ giả sinh ư định
35

Luận về toạ thiền.


17

lực. Nhược tâm định tắc tuệ giám sinh. Nhược tâm loạn tắc tuệ giám diệt. Diệc như
đồng kính, tiên giả ma lung, nhiên hậu phương hữu quang tịnh minh chiếu. Nhược bất
ma lung tắc đài ngân hôn cấu. Ký dĩ hôn cấu, quang hà dĩ sinh? Cố tri tuệ do định
hiện, định ư tuệ sinh, định tuệ tương y, lưỡng vơ di nhất.”36 (Nói chung tuệ sinh ra từ
định lực; nếu như tâm định thì gương tuệ sinh; nếu tâm loạn thì gương tuệ mất. Cũng
như chiếc gương đồng, trước hết phải lau chùi mới trong trẻo chiếu sáng. Nhược bằng
khơng lau chùi thì rêu bụi mờ tối. Đã mờ tối thì ánh sáng sinh ra sao được? Cho nên
biết rằng tuệ xuất hiện từ định; định này sinh từ tuệ. Định và tuệ nương nhau, khơng
bỏ sót một bên nào) .
Mỗi khi tuệ giác bừng khởi là lúc con người thấy rõ thực tướng các pháp, trong đó
bao gồm bản chất, mà thuật ngữ Thiền tông gọi là “kiến tính” (thấy tính). Con người
do thấy tính mà giác ngộ thành Phật. Xem ra, con đường thiền định là con đường trở
về thực tại, thấy rõ bản tính của mình. Thế nên, Trần Thái Tơng cịn đưa ra những
thoại đầu thiền để thực nghiệm. Thoại đầu là một câu nói hay một mẫu đối thoại có tác
dụng thúc đẩy phát khởi sự đạt ngộ của thiền giả. Nó có thể là một câu trích dẫn kinh
điển Phật nói, một lời gợi ý của tổ sư hay lời đối đáp của vị thiền sư. Theo Nguyễn

Lang, chính vua đã từng tham thủ thoại đầu bất hủ của của thiền sư Lâm Tế với đề tài
“Vơ vị chân nhân”. Thoại đầu đó như sau: Này quý vị, trên đống thịt đỏ au kia, có một
con người thực khơng vị trí, hay ra vào trước mặt quý vị. Nếu quý vị không biết con
người thực khơng vị trí ấy là ai thì chỉ cần hỏi lão Tăng đây. Có một vị tăng khác hỏi:
Xin cho biết con người thực khơng có vị trí ấy là gì? Thiền sư liền đánh vị Tăng ấy, và
nói: Con người thực khơng vị trí là cái cứt khơ gì đâu?
Trần Thái Tơng đi tìm con người thực này. Đó chính là tự tính, là thể kim cương
bất hoại. Ơng diễn giải đống thịt đỏ au đó là sắc thân con người mà chúng ta đã có dịp
phân tích bài Phổ thuyết Sắc thân. Sắc thân đó chính là con người giả, do năm uẩn hợp
thành. Còn con người thực ở đâu? Thái Tông đã bừng ngộ từ việc tham cứu thoại đầu
đó.
“Phàm người học đạo chỉ cầu kiến tánh.” Đã nói về giới rồi phải nói đến định.
Định tức là tọa thiền. Ngài nói người học đạo phải cầu kiến tánh, tức nhận ra bản tánh
thanh tịnh sáng suốt của mình, gọi là kiến tánh.“Muốn được kiến tánh, thật là khó
vậy.” Nếu vọng niệm chưa hết mà muốn được kiến tánh thật là khó. Bởi vì nếu tâm
chưa dừng lặng mà muốn nhận ra được bản tánh thật là điều khó, khơng thể được. Cho
nên đầu tiên là Giới, kế đó là Định. Định là nhờ sức tọa thiền. Nhờ tọa thiền tâm mới
lặng. Tâm lặng thì tánh giác mới hiện tiền. “Cho nên Thiền sư Hoài Nhượng nói: “mài
gạch muốn làm gương” là nói về người này vậy.” Thiền sư Hoài Nhượng ở núi Nam
Nhạc, một hôm Ngài đi dạo núi chơi, thấy một vị sư ngồi thiền nghiêm chỉnh trên tảng
đá, Ngài liền đến hỏi:
Ông làm gì đây?
Đáp: Dạ, con ngồi thiền.
Hỏi: Ngồi thiền cầu làm gì?
Đáp: Cầu thành Phật.
Ngài im lặng trở về. Hơm sau, Ngài trở lại, đến bên tảng đá vị sư kia ngồi (vị sư
này sau là Mã Tổ Đạo Nhất), lấy một viên gạch ngồi mài.
36

Luận về gương tuệ giáo.




×