Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bài Tập Nhóm Môn Học Thương Mại Quốc Tế 2 Chủ Đề Phân Tích Tác Động Của Rcep Với Nền Kinh Tế Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP NHĨM
Mơn học: Thương mại quốc tế 2
CHỦ ĐỀ : PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA RCEP VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Phương Mai
Thành viên nhóm 3:

Trần Thị Ánh

11200484

Bùi Thị Mai Hoa

11201520

Hồng Thị Thùy Linh

11202134

Nguyễn Thị Xn Tú

11208282

Lương Đình Thăng

11203524

Lê Thị Hồi Linh


11205767

Hà Nội, 3-2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 3
NỘI DUNG............................................................................................................................ 4
I.Tổng quan về Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) ....................................... 4
1. Giới thiệu chung ........................................................................................................... 4
2. Tiến trình đàm phán RCEP ............................................................................................ 4
3. Tóm lược một số nội dung của RCEP ............................................................................. 5
4. Đặc điểm ..................................................................................................................... 9
II. Tác động của RCEP đến nền kinh tế Việt Nam .................................................................. 10
1.Diễn biến nền kinh tế Việt nam trong suốt tiến trình đàm phán .......................................... 10
1.1 Giai đoạn đàm phán 2013-2019 .................................................................................. 10
1.2 Giai đoạn hiệp định được ký kết và có hiệu lực 2020- đến nay ....................................... 19
2. Một số cơ hội và thách thức từ RCEP đối với hoạt động thương mại và đầu tư ................... 23
2.1. Đối với hoạt động thương mại ................................................................................... 23
2.2. Đối với hoạt động đầu tư ........................................................................................... 25
III. Đánh giá và một số khuyến nghị ..................................................................................... 27
1.Đánh giá..................................................................................................................... 27
2. Một số khuyến nghị đề xuất ......................................................................................... 27

2


LỜI MỞ ĐẦU
Dù phải đối mặt với khơng ít khó khăn và hệ lụy tiêu cực về kinh tế do đại dịch COVID-19 trong
năm 2020, Việt Nam vẫn có những nỗ lực khá sơi động và tồn diện để chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế. Nổi bật trong số đó là việc chủ trì thành cơng năm ASEAN 2020, phê chuẩn và thực hiện Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), và ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
(RCEP). Khác với các hiệp định thương mại chất lượng cao như EVFTA hay Hiệp định Đối tác Toàn
diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam tham gia RCEP với cách tiếp cận “tiệm
tiến” hơn. Đặt trong bối cảnh tranh luận về tác động của hội nhập kinh tế quốc tế - đặc biệt là thương
mại, đầu tư nước ngoài, v.v. - đã trở nên “đa chiều” hơn, nhìn nhận về RCEP có đan xen cả những khía
cạnh tích cực và tiêu cực. Dù vẫn ghi nhận lợi ích rịng mà RCEP có thể mang lại, khơng ít ý kiến lo
ngại về tác động khiêm tốn của Hiệp định này đối với chất lượng thể chế của Việt Nam. Bên cạnh đó,
sau một thời gian dài chịu nhập siêu với khu vực RCEP và tác động của đại dịch COVID-19 làm gián
đoạn chuỗi cung ứng, các cơ quan nghiên cứu chính sách đã lưu tâm hơn đến yêu cầu cải thiện mức độ
tự chủ của nền kinh tế khi thực hiện RCEP
Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 chương, trong đó:
Chương I: Tổng quan về hệ thống ưu đãi phổ cập chung (GSP)
Chương II: Quy tắc xuất xứ trong hệ thống ưu đãi phổ cập chung của EU
Chương III: Quy tắc xuất xứ trong hệ thống ưu đãi phổ cập chung của Hoa Kỳ

3


NỘI DUNG
I.

Tổng quan về Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)

1. Giới thiệu chung
-

-

-


-

Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là một hiệp định thương mại tự do (FTA)
nhằm mở rộng và làm sâu sắc hơn sự gắn kết giữa 10 nước ASEAN và 5 đối tác là Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia và New Zealand.
Hiệp định chiếm khoảng 30% của tổng sản phẩm nội địa GDP toàn cầu và 30% dân số thế giới,
trở thành một khối thương mại lớn nhất trong lịch sử.
RCEP là hiệp định thương mại tự do (“FTA”) thế hệ mới, bổ sung phạm vi áp dụng của các
Hiệp định thương mại tự do ASEAN Cộng hiện hành. Hiệp định bao gồm 20 chương, ngoài các
điều khoản cam kết về cắt giảm thuế quan, thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại, Hiệp
định còn bao gồm các cam kết “phi truyền thống” (so với các FTA đã ký kết giữa ASEAN và
05 quốc gia đối tác), như sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,
v.v.
Mục tiêu của Hiệp định RCEP là thiết lập một nền tảng quan hệ đối tác kinh tế hiện đại, toàn
diện, chất lượng cao và cùng có lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thương mại và
đầu tư trong khu vực, đồng thời đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế tồn cầu.
Theo đó, Hiệp định sẽ mang lại cơ hội thị trường và việc làm cho doanh nghiệp và người dân
trong khu vực. Hiệp định RCEP sẽ song hành và hỗ trợ một hệ thống thương mại đa phương
cởi mở, bao hàm và dựa trên các quy tắc.
Với Việt Nam, Hiệp định chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2022. Có hiệu lực từ ngày 1/1/2022,
hiệp định RCEP tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới và được kỳ vọng xóa bỏ
tới 90% thuế quan trong vịng 20 năm giữa các thành viên.

2. Tiến trình đàm phán RCEP
Hiệp định RCEP được khởi động vào tháng 11/2012 tại Phnom Penh (Campuchia), khi ASEAN (Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á) đề xuất ý tưởng về một khu vực thương mại tự do tồn diện trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương với sự tham gia của 10 nước thành viên ASEAN (Brunei, Campuchia,
Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam) và 6 đối tác (Trung
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Australia). Đây đều là những quốc gia đã có Hiệp

định thương mại tự do (FTA) độc lập với ASEAN.
ASEAN và sáu đối tác đã bắt đầu đàm phán RCEP từ ngày 9/5/2013. Quá trình đàm phán diễn ra với
nhiều phiên giữa kỳ, 8 phiên Hội nghị Bộ trưởng chính thức, 31 phiên họp chính thức cấp trưởng đoàn
đàm phán, 4 hội nghị cấp cao RCEP. Và đến tháng 11/2019, các nước thành viên đã cơ bản hoàn tất
đàm phán văn kiện RCEP. Tuy nhiên lúc này, Ấn Độ đã tuyên bố rút khỏi hiệp định, với lo ngại thâm
hụt thương mại gia tăng do các quy định hạ thấp hàng rào thuế quan của hiệp định sẽ khiến cho hàng
hóa của nước này khó cạnh tranh với nguồn hàng giá rẻ, bao bì bắt mắt từ Trung Quốc, trong khi hàng
hóa ́n Độ lại khơng được bảo đảm lợi thế tương tự tại thị trường Trung Quốc. Quan ngại về thâm hụt
thương mại với Trung Quốc cũng được xem là một trong những thách thức lớn với các nước tham gia
RCEP.
Từ tháng 4 vừa qua, trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát, các cuộc đàm phán phải chuyển sang hình
thức trực tuyến, được xem là phương thức đàm phán phi truyền thống về ngoại giao thương mại lần đầu
được thực hiện trên thế giới. Vượt qua những thách thức đó, 15 nước thành viên RCEP đã hoàn tất đàm
phán trên văn bản cho tất cả các nội dung của hiệp định vào ngày 4/11/2019
4


Ngày 15/11/2020, nhân Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 tại Hà Nội, Hiệp định RCEP đã được ký
kết theo hình thức trực tuyến giữa 15 nước thành viên RCEP, trừ ń Độ.
Hiệp định sẽ chính thức có hiệu lực trong vịng 60 ngày kể từ ngày được thơng qua bởi ít nhất sáu nước
thành viên ASEAN và ba nước đối tác. Và dự kiến thời gian đạt đủ điều kiện trên để hiệp định có hiệu
lực là khoảng hai năm tới.
Như vậy, Hiệp định RCEP có hiệu lực vào ngày 1/1/2022 đối với Brunei Darussalam, Campuchia, Lào,
Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Australia, Trung Quốc, Nhật Bản và New Zealand; vào ngày 1/2/2022
đối với Hàn Quốc; và vào ngày 18/3/2022 đối với Malaysia.

3. Tóm lược một số nội dung của RCEP
Hiệp định RCEP bao gồm 20 Chương và các Phụ lục đính kèm theo Hiệp định hoặc các Chương sẽ liên
quan đến thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, di chuyển tạm thời của thể nhân, quy tắc
xuất xứ, thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại, phịng vệ thương mại, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh,

mua sắm công và các quy định về thể chế. Nội dung cơ bản của Hiệp định như sau:
a. Phần mở đầu:
Phần mở đầu nhấn mạnh mong muốn của các nước thành viên Hiệp định RCEP trong việc tăng cường
hội nhập kinh tế sâu rộng trong khu vực, thúc đẩy hợp tác kinh tế, tăng trưởng và phát triển kinh tế công
bằng trên cơ sở mối liên kết kinh tế hiện có giữa các nước trong đó xem xét chênh lệch về trình độ phát
triển và có đối xử khác biệt cho các nước Campuchia, Lào, My-an-ma và Việt Nam.
b. Chương Điều khoản ban đầu và Định nghĩa chung
Chương Điều khoản ban đầu khẳng định mục tiêu của Hiệp định RCEP là thiết lập khung khổ đối tác
kinh tế hiện đại, tự do, toàn diện, chất lượng cao và đem lại lợi ích cho tất cả các bên nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc mở rộng thương mại và đầu tư trong khu vực và đóng góp vào tăng trưởng và
phát triển kinh tế toàn cầu.
Phần định nghĩa giải thích các thuật ngữ được sử dụng nhiều lần trong Hiệp định. Một số thuật ngữ có
tính kỹ thuật được định nghĩa riêng trong từng chương của Hiệp định.
c. Chương 2: Thương mại hàng hóa
Chương 2 bao gồm các quy định và cam kết cụ thể về tự do hóa thương mại hàng hóa. Ngồi các nghĩa
vụ đối xử quốc gia, phí và phụ phí, loại bỏ các hạn chế định lượng đối với xuất nhập khẩu, hàng hóa
quá cảnh, v.v. được thực hiện theo quy định của Hiệp định chung về Thuế và Thương mại của WTO
(GATT), Chương 2 quy định về thực hiện lộ trình tự do hóa thuế quan của các bên đính kèm tại Phụ
lục I của Hiệp định.
d. Chương 3: Quy tắc xuất xứ (ROO)
Chương ROO có hai Phần: Phần A: Quy tắc Xuất xứ và Phần B: Thủ tục Chứng nhận Hoạt động.
Theo quy tắc xuất xứ của Hiệp định RCEP, hàng hóa được coi là có xuất xứ nếu đáp ứng một trong ba
trường hợp sau: (i) hàng hóa có xuất xứ thuần túy tại một nước thành viên; (ii) hàng hóa được sản xuất
chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ từ một hay nhiều nước thành viên; (iii) hàng hóa sử dụng ngun liệu
khơng có xuất xứ nhưng đáp ứng quy định tại Quy tắc cụ thể mặt hàng.
Trong Quy tắc cụ thể mặt hàng, ngoài việc áp dụng quy tắc hàm lượng giá trị giá khu vực (RVC) hoặc
quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa (CTC), một số dịng hàng hóa chất thuộc các Chương 29 và 38 được
áp dụng Quy tắc phản ứng hóa học tương đương với quy tắc RVC hoặc CTC.
Đối với Quy trình cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ hàng hóa, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng
hóa bao gồm Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), chứng từ tự khai báo xuất xứ hàng hóa của nhà

xuất khẩu đủ điều kiện, chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của nhà xuất khẩu. Việt Nam cùng
với các nước thành viên RCEP (trừ Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma) bắt đầu triển khai thực hiện cơ chế
tự chứng nhận xuất xứ của nhà xuất khẩu không quá 10 năm sau ngày thực thi Hiệp định. Trường hợp

5


chưa thể triển khai thực hiện trong 10 năm này, các nước được phép gia hạn tối đa 10 năm nữa để thực
hiện cơ chế này.
e. Chương 4: Thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại (CPTF)
Chương CPTF gồm các quy định về đơn giản hóa và minh bạch hóa thủ tục hải quan, hài hịa các thủ
tục hải quan với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm đảm bảo tính dễ dự đốn và nhất qn trong việc áp dụng
các luật và quy định hải quan, đồng thời thúc đẩy quản lý hiệu quả các thủ tục hải quan và thơng quan
hàng hóa nhanh chóng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
f. Chương 5: Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS)
Chương SPS về cơ bản tuân thủ các nguyên tắc của Hiệp định SPS của WTO, đồng thời xác định rõ vai
trị quan trọng của tính minh bạch, cơ sở khoa học trong việc xây dựng và áp dụng các biện pháp SPS
của các bên, vấn đề hợp tác và nâng cao năng lực và cơ chế tham vấn kỹ thuật nhằm giải quyết các
vướng mắc về SPS để thúc đẩy thương mại nông sản thực phẩm giữa các bên đối tác trong RCEP. Ngoài
ra, các bên cùng thống nhất Chương SPS không thuộc phạm vi điều chỉnh của cơ chế Giải quyết tranh
chấp của Hiệp định RCEP mặc dù việc không áp dụng cơ chế Giải quyết tranh chấp sẽ được rà soát lại
hai năm sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực.
g. Chương 6: Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp (STRACAP)
Chương STRACAP có nội dung chính là củng cố việc thực hiện Hiệp định về Các hàng rào kỹ thuật
trong thương mại (TBT) của WTO, đồng thời hướng đến mục tiêu công nhận và hiểu biết lẫn nhau về
các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp của mỗi nước thành viên, cũng
như tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác trong lĩnh vực này. Tương tự như Chương SPS, Chương
STRACAP cũng nhấn mạnh nhu cầu hợp tác và tham vấn kỹ thuật trong việc giải quyết các vấn đề liên
quan đến thực thi Chương này. Chương STRACAP cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của cơ chế
Giải quyết tranh chấp của Hiệp định RCEP mặc dù việc không áp dụng cơ chế Giải quyết tranh chấp sẽ

được rà soát lại hai năm sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực.
h. Chương 7: Phòng vệ thương mại
Chương Phòng vệ thương mại quy định việc áp dụng các biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp,
biện pháp tự vệ toàn cầu và biện pháp tự vệ chuyển tiếp trong phạm vi các thành viên Hiệp định RCEP
áp dụng trong giai đoạn chuyển tiếp. Về tổng thể, nội dung Chương Phòng vệ thương mại về cơ bản
phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO và pháp luật Việt Nam về phòng vệ thương mại.
Các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ toàn cầu được quy định theo hướng bảo lưu
nghĩa vụ các bên theo cam kết WTO và bổ sung một số cam kết cụ thể về thông báo, tham vấn, cấm sử
dụng phương pháp Quy về không (zeroing), công bố dữ liệu trọng yếu, xử lý thông tin mật và thủ tục
thẩm tra tại chỗ.
i. Chương 8: Thương mại dịch vụ
Chương Thương mại dịch vụ được xây dựng đồng thời theo hai phương thức tiếp cận chọn – cho và
chọn – bỏ, tùy các nước lựa chọn cách đưa ra biểu cam kết, với các nghĩa vụ hiện diện địa phương, hội
đồng quản trị, yêu cầu về hoạt động (chỉ áp dụng đối với các nước theo phương thức chọn – bỏ), đồng
thời vẫn có các nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Các nước lựa chọn phương thức chọn – cho phải lựa chọn một số phân ngành áp dụng nguyên tắc MFN
tự động và nguyên tắc đơn phương tự do hóa chỉ tiến khơng lùi (ratchet), đồng thời sẽ phải chuyển đổi
sang phương thức tiếp cận chọn – bỏ sau 6 năm kể từ thời điểm Hiệp định có hiệu lực, với mức độ mở
cửa thị trường không thấp hơn mức độ cam kết trong biểu cam kết chọn – cho.
Việt Nam lựa chọn phương thức tiếp cận chọn – cho, với mức độ mở cửa thị trường về cơ bản tương
đương với mức cam kết trong khuôn khổ ASEAN và không cao hơn pháp luật hiện hành. Ta lựa chọn
6 phân ngành đã tự do hóa hồn tồn để áp dụng nguyên tắc MFN tự động và nguyên tắc đơn phương
tự do hóa. Hiệp định có quy định quá trình chuyển đổi từ biểu cam kết chọn-cho sang chọn-bỏ không
yêu cầu cải thiện mức cam kết (bao gồm cả số lượng phân ngành áp dụng nguyên tắc MFN tự động),

6


nhằm đảm bảo các dịch vụ nhạy cảm như tài chính, viễn thơng tránh được khả năng phải áp dụng nghĩa
vụ MFN tự động.

Ngồi các ngun tắc chính điều chỉnh thương mại dịch vụ nói chung, Chương Thương mại dịch vụ
còn bao gồm 3 Phụ lục riêng về Dịch vụ Tài chính, Dịch vụ Viễn thơng và Dịch vụ Chun mơn, trong
đó:
(i) Phụ lục Dịch vụ Tài chính đưa ra các cam kết liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ tài chính,
đồng thời tạo một khoảng khơng chính sách đảm bảo cho các cơ quan quản lý tài chính duy trì khả năng
thực hiện các biện pháp hỗ trợ tính tồn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính. So với WTO và các Hiệp
định ASEAN+ khác, Hiệp định RCEP có một số quy định mới trong lĩnh vực dịch vụ tài chính như
nghĩa vụ về minh bạch hóa các quy định tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính mới (các nghĩa vụ
này phù hợp với một số FTA thế hệ mới khác mà ta đã ký kết).
(ii) Phụ lục Dịch vụ viễn thông có phạm vi điều chỉnh chỉ giới hạn trong thương mại dịch vụ viễn thông
công cộng, không bao gồm các chương trình phát thanh và truyền hình. Một số điều khoản mới so với
WTO như chuyển mạng giữ số, bán lại dịch vụ viễn thông công cộng, cung cấp dịch vụ thuê kênh riêng,
chung điểm đặt thiết bị, hệ thống cáp biển, tiếp cận hạ tầng viễn thông thụ động... Nhìn chung, mức độ
cam kết về dịch vụ viễn thơng cơ bản cao hơn so với cam kết của Việt Nam trong WTO nhưng thấp
hơn so với cam kết trong các Hiệp định CPTPP, EVFTA, và phù hợp với khung pháp lý về viễn thông
hiện hành của Việt Nam. Đặc biệt đối với hệ thống cáp biển quốc tế, Việt Nam chỉ cam kết đối với trạm
cập bờ hệ thống cáp biển quốc tế trên lãnh thổ Việt Nam, không cam kết đối với hình thức chung điểm
đặt thiết bị, đồng thời, các doanh nghiệp viễn thông công cộng nước ngoài muốn đặt thiết bị để cung
cấp dịch vụ tại các trạm cập bờ thì phải tuân thủ quy định về cấp phép của Việt Nam.
(iii) Phụ lục Dịch vụ Chun mơn chỉ mang tính khuyến khích cho việc cơng nhận lẫn nhau các trình
độ, bằng cấp chun mơn giữa các nước có nhu cầu, cũng như thúc đẩy phát triển tiêu chuẩn và tiêu chí
chung đối với một số Dịch vụ Chuyên môn như giáo dục, bảo vệ người tiêu dùng...
j. Chương 9: Di chuyển thể nhân (MNP)
Chương này đưa ra các cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và lưu trú tạm thời của các
thể nhân tham gia vào các hoạt động thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, giới hạn ở 2 loại hình thể
nhân là khách kinh doanh và người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp. Tuy nhiên, các nước có thể
đưa ra cam kết đối với các loại hình thể nhân khác trong Biểu cam kết về di chuyển thể nhân của mỗi
nước.
Đối với Việt Nam, Biểu cam kết về di chuyển thể nhân cơ bản tương tự với cam kết của ta trong WTO
và trong các Hiệp định FTA ASEAN Cộng hiện hành.

k. Chương 10: Đầu tư
Chương Đầu tư của Hiệp định RCEP bao gồm đầy đủ 4 yếu tố của một hiệp định đầu tư, gồm tự do
hóa, xúc tiến, tạo thuận lợi cho đầu tư và bảo hộ đầu tư. Chương Đầu tư bao gồm các cam kết về đối xử
đầu tư, đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc (MFN), yêu cầu thực hiện (PPR), quản lý cấp cao và hội
đồng quản trị (SMBD), chuyển tiền, tước quyền sở hữu...
Chương Đầu tư của Hiệp định RCEP có một số cam kết cao hơn so với các hiệp định FTA ASEAN
Cộng đã ký kết, như bổ sung nghĩa vụ ngoài các nghĩa vụ quy định tại Hiệp định về các Biện pháp Đầu
tư liên quan đến Thương mại (TRIMs) của WTO; cam kết về MFN tự động; cam kết nghĩa vụ đơn
phương tự do hóa chỉ tiến khơng lùi (Ratchet) đối với Danh mục A tại Danh mục bảo lưu và các biện
pháp không tương thích của các nước. Tuy nhiên, nghĩa vụ Ratchet chỉ áp dụng đối với các nước sau 5
năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Bên cạnh đó, Chương Đầu tư của Hiệp định RCEP đã bổ sung cơ
chế xem xét, hỗ trợ giải quyết các vướng mắc của nhà đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư tại một
nước RCEP phù hợp với pháp luật của nước đó.
Tuy nhiên, so với các FTA ASEAN Cộng mà Việt Nam đã ký kết tại thời điểm kết thúc đàm phán Hiệp
định RCEP, Chương Đầu tư khơng có cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư (ISDS)
và vấn đề tước quyền sở hữu liên quan đến thuế. Nội dung này sẽ tiếp tục được thảo luận sau khi Hiệp
7


định RCEP có hiệu lực. Ngồi ra, ta bảo lưu được quy định không áp dụng Điều khoản MFN tự động
trong lĩnh vực đầu tư với Việt Nam.
Đối với các nghĩa vụ như đối xử quốc gia, hội đồng quản trị, yêu cầu hoạt động, các cam kết của Việt
Nam trong Hiệp định RCEP không vượt quá mức cam kết của ta trong các hiệp định FTA đã ký như
Hiệp định CPTPP, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu u (EVFTA).
l. Chương 11: Sở hữu trí tuệ
Chương Sở hữu trí tuệ đưa ra cách tiếp cận cân bằng và toàn diện về việc bảo hộ và thực thi quyền sở
hữu trí tuệ trong khu vực. Chương này bao gồm các cam kết về hài hịa hóa về mức độ bảo hộ và thực
thi các quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng trên cơ sở quy định Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) của WTO. Bên cạnh đó, Hiệp định này có những cam kết
không được đề cập trong Hiệp định TRIPS hoặc cao hơn chuẩn mực của Hiệp định TRIPS liên quan

đến thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp như thủ tục đăng ký nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, v.v.., biện
pháp công nghệ bảo vệ quyền, thực thi quyền trong môi trường kỹ thuật số, vấn đề bảo hộ sáng chế liên
quan đến nguồn gen hoặc tri thức truyền thống; hoặc làm rõ hơn các nghĩa vụ về thực thi quyền bằng
biện pháp hình sự trong Hiệp định TRIPS. Đồng thời, Chương Sở hữu trí tuệ của Hiệp định này cũng
có điều khoản về hợp tác nhằm thực thi hiệu quả các cam kết.
Nhìn chung, cam kết về sở hữu trí tuệ trong Hiệp định RCEP tương đối tồn diện và cao so với cam kết
trong các Hiệp định khác của ASEAN. Cam kết theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các chủ sở hữu trí tuệ
nhằm thu hút đầu tư ổn định, lâu dài từ bên ngồi, trong đó có các nước đối tác vào thị trường ASEAN
nói chung và Việt Nam nói riêng.
m. Chương 12: Thương mại điện tử
Nội dung thương mại điện tử trong Hiệp định RCEP chỉ gồm các cam kết ở về hợp tác, khuyến khích
các nước thành viên cải thiện quy trình và quản lý thương mại bằng cách tạo môi trường thúc đẩy sử
dụng các phương tiện điện tử. Tranh chấp (nếu có) phát sinh từ Chương này chỉ dừng ở các bước tham
vấn và hòa giải.
Cấu trúc các trong Chương Thương mại điện tử trong Hiệp định RCEP cũng tương tự trong Hiệp định
CPTPP nhưng có nội dung cam kết ở mức thấp hơn. Đặc biệt, đối với việc quản lý thông tin nhằm mục
đích thương mại qua biên giới, hay việc đặt trang thiết bị máy tính (máy chủ) như là điều kiện để kinh
doanh trên lãnh thổ quốc gia của một nước, Hiệp định RCEP vẫn cho phép các bên được ban hành hay
duy trì bất cứ biện pháp nào nếu thấy cần thiết để bảo vệ an toàn, an ninh mơi trường mạng thiết yếu
của mình, phù hợp với yêu cầu của Luật An ninh mạng của ta
n. Chương 13: Cạnh tranh
Mục tiêu của Chương Cạnh tranh là nhằm thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả kinh
tế và phúc lợi của người tiêu dùng. Chương này bao gồm nghĩa vụ: thơng qua hoặc duy trì các luật và
quy định nhằm ngăn cấm các hoạt động chống cạnh tranh và thiết lập hoặc duy trì các cơ quan có thẩm
quyền để thực thi luật cạnh tranh của mình; cơng nhận quyền chủ quyền của nhau trong việc xây dựng
và thực thi luật cạnh tranh và chính sách của mình. áp dụng hoặc duy trì luật và quy định trong nước để
ngăn chặn các hành vi gian lận, gây hiểu lầm, các diễn tả sai trong thương mại; nâng cao nhận thức và
khả năng tiếp cận các cơ chế giải quyết vấn đề của người tiêu dùng; hợp tác trong bảo vệ người tiêu
dùng. Cơ chế giải quyết tranh chấp của Hiệp định RCEP sẽ không áp dụng đối với Chương này. Ngồi
ra, Chương Cạnh tranh khơng đề cập đến vấn đề doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.

Tương tự các FTA thế hệ mới khác, Chương Cạnh tranh của Hiệp định RCEP được Việt Nam đàm phán
trên cơ sở pháp luật cạnh tranh hiện hành và các pháp luật khác có liên quan. Do vậy, việc thực hiện
các cam kết của Chương Cạnh tranh mang tính khả thi cao và cũng tạo điều kiện thuận lợi trong việc
đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh tại thị trường Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngồi và
trong nước cũng như khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh.
o. Chương 14: Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)
8


Ghi nhận đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ vào tăng trưởng
kinh tế, việc làm và đổi mới, Chương 14 yêu cầu các nước thành viên thúc đẩy việc chia sẻ thông tin về
Hiệp định RCEP liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm toàn văn của Hiệp định, các luật và
quy định liên quan đến thương mại và đầu tư và các thông tin liên quan đến kinh doanh hữu ích khác
nhằm tăng khả năng tận dụng và hưởng lợi của các các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ các cơ hội do Hiệp
định RCEP tạo ra.
p. Chương 15: Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH)
Hợp tác kinh tế và kỹ thuật trong khuôn khổ Hiệp định RCEP nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các nước thành viên và hỗ trợ việc thực thi và tận dụng Hiệp định RCEP một cách toàn diện và hiệu
quả. Theo đó, các nước sẽ tìm hiểu và thực hiện các hoạt động hợp tác kinh tế và kỹ thuật tập trung vào
các lĩnh vực như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử,
cạnh tranh, doanh nghiệp vừa và nhỏ và các vấn đề khác theo thỏa thuận giữa các nước. Trong đó, ưu
tiên sẽ dành cho các hoạt động nâng cao năng lực và hỗ trợ kỹ thuật cho nước thành viên là nước đang
phát triển và nước kém phát triển nhất.
q. Chương 16: Mua sắm của chính phủ
Chương Mua sắm của Chính phủ có mức độ cam kết thấp hơn nhiều so với Hiệp định CPTPP và
EVFTA, chỉ gồm các nghĩa vụ tăng cường tính minh bạch, hợp tác và trao đổi thơng tin giữa các bên
về chính sách mua sắm công và không bao gồm cam kết mở cửa thị trường. Đồng thời, cơ chế giải quyết
tranh chấp trong Hiệp định RCEP không áp dụng đối với Chương Mua sắm của Chính phủ.
r. Chương 17: Các điều khoản chung và ngoại lệ
Chương 17 quy định về loại trừ chung, loại trừ an ninh, các biện pháp về thuế. Hiệp định RCEP cho

phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn lãnh
thổ, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ sức khỏe của con người, động vật, môi trường, đạo đức xã hội, bảo
đảm cán cân thanh toán, v.v..., tương tự như quy định của WTO. Đối với các biện pháp về thuế, Hiệp
định RCEP không điều chỉnh các cam kết về thuế nội địa trừ trường hợp thực hiện theo quy định của
WTO.
s. Chương 18: Các điều khoản thể chế
Chương 18 quy định về việc thiết lập bộ máy và thể chế giám sát thực hiện Hiệp định RCEP, bao gồm
Ủy ban Thực thi Hiệp định RCEP, Ủy ban về Hàng hóa; Dịch vụ và Đầu tư; Tăng trưởng hay Phát triển
bền vững; và Môi trường Kinh doanh, và các cơ quan trực thuộc khác do Ủy ban Thực thi Hiệp định
RCEP thành lập. Ủy ban Thực thi Hiệp định RCEP sẽ báo cáo với các Bộ trưởng RCEP và có thể đưa
các vấn đề lên các Bộ trưởng RCEP để xem xét và quyết định.
t. Chương 19: Giải quyết tranh chấp
Chương 19 gồm các quy định nhằm xây dựng một quy trình minh bạch và hiệu quả cho việc tham vấn
và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên phát sinh trong quá trình thực hiện Hiệp định RCEP.
u. Chương 20: Điều khoản cuối cùng
Chương 20 gồm các điều khoản quy định về các thủ tục chung như mối liên hệ của Hiệp định RCEP
với các hiệp định khác, điều khoản gia nhập, cơ chế rà soát, điều chỉnh và hiệu lực của Hiệp định. Sau
khi ký, các nước sẽ phải hoàn thành các thủ tục trong nước để đưa Hiệp định vào thực hiện và phải
thông báo cho các bên khác.

4. Đặc điểm
- Hiện đại:
Hiệp định RCEP là một hiệp định không chỉ được xây dựng cho hiện tại mà còn là một hiệp định cho
tương lai. Hiệp định tổng hợp phạm vi của các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) ASEAN+1 hiện có
(các FTA của ASEAN với năm đối tác đối thoại) và cân nhắc về những thực tiễn thương mại mới nổi
9


hoặc đang thay đổi, bao gồm thời đại của thương mại điện tử, tiềm năng của các doanh nghiệp siêu nhỏ,
nhỏ và vừa, sự phát triển sâu rộng của chuỗi giá trị khu vực và sự phức tạp của cạnh tranh thị trường.

Hiệp định RCEP được xây dựng và bổ sung thêm dựa trên Hiệp định WTO, trong những lĩnh vực mà
các Bên đã đồng ý cập nhật hoặc vượt ra ngoài các điều khoản của Hiệp định.
- Toàn diện:
Hiệp định RCEP là toàn diện, cả về phạm vi và chiều sâu của các cam kết. Về phạm vi, Hiệp định RCEP
có 20 Chương và bao gồm nhiều lĩnh vực trước đây chưa được đề cập trong các FTA ASEAN+1. Hiệp
định RCEP có các điều khoản cụ thể liên quan đến thương mại hàng hóa, bao gồm cả quy tắc xuất xứ;
thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại; các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực
vật; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá mức độ phù hợp; và phịng vệ thương mại.
Hiệp định cũng đề cập đến thương mại dịch vụ, bao gồm các điều khoản cụ thể về dịch vụ tài chính;
dịch vụ viễn thơng; các dịch vụ chuyên nghiệp, và sự di chuyển tạm thời của các thể nhân. Ngồi ra,
Hiệp định cịn có các chương về đầu tư; sở hữu trí tuệ; thương mại điện tử; cạnh tranh; doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME); hợp tác kinh tế và kỹ thuật; mua sắm công; và các lĩnh vực thể chế pháp lý, bao
gồm giải quyết tranh chấp. Về tiếp cận thị trường, Hiệp định RCEP đạt được tự do hóa trong thương
mại hàng hóa và dịch vụ và mở rộng phạm vi cam kết về đầu tư.
- Chất lượng cao:
Hiệp định RCEP có các điều khoản vượt ra ngồi khn khổ các FTA ASEAN+1 hiện có, đồng thời
ghi nhận mức độ phát triển và nhu cầu kinh tế riêng lẻ và đa dạng của các Bên tham gia RCEP. Hiệp
định RCEP giải quyết các vấn đề cần thiết để hỗ trợ các Bên tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và
khu vực, đồng thời bổ sung các cam kết tiếp cận thị trường với những quy tắc cho phép mở cửa thương
mại và đầu tư, nhằm tạo thuận lợi cho kinh doanh đồng thời với duy trì các mục tiêu chính sách cơng
hợp pháp. Hiệp định RCEP cố gắng thúc đẩy cạnh tranh bằng cách thúc đẩy tăng năng suất bền vững,
có trách nhiệm và mang tính xây dựng. Ngồi ra, Hiệp định RCEP cịn có giá trị khác là tập hợp một
bộ quy tắc giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng chuỗi cung ứng khu vực giữa các
Bên.
- Đôi bên cùng có lợi:
Hiệp định RCEP bao gồm các quốc gia có trình độ phát triển đa dạng. Do đó, các Bên tham gia RCEP
đã công nhận rằng sự thành công của Hiệp định sẽ được quyết định bởi khả năng mang lại lợi ích lẫn
nhau của các bên. Hiệp định RCEP được thiết kế để đạt được mục tiêu này theo một số cách, bao gồm
thơng qua các hình thức linh hoạt phù hợp và các quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt, cụ thể là đối
với Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam, nếu thích hợp, và linh hoạt thêm cho các Bên kém phát

triển. Ngoài ra, Hiệp định RCEP còn bao gồm hợp tác kỹ thuật và nâng cao năng lực để hỗ trợ việc thực
hiện các cam kết, giúp các Bên tối đa hóa lợi ích có được từ Hiệp định này. Hiệp định RCEP cũng bao
gồm các điều khoản đảm bảo rằng các nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau, các doanh nghiệp
có quy mơ khác nhau và đối tượng khác rộng hơn đều có thể hưởng lợi ích từ Hiệp định.

II. Tác động của RCEP đến nền kinh tế Việt Nam
1. Diễn biến nền kinh tế Việt nam trong suốt tiến trình đàm phán
1.1 Giai đoạn đàm phán 2013-2019
* Diễn biến xuất nhập khẩu hàng hóa
Xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2019 duy trì xu hướng mở rộng cả về quy mô, thị
trường đối tác và loại mặt hàng. Giai đoạn 2010-2015, cùng với sự phục hồi kinh tế trong nước và thế
giới sau khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, xuất nhập khẩu tăng trưởng tương đối nhanh. Xuất
10


khẩu tăng từ 72,2 tỷ USD năm 2010 lên 162,0 tỷ USD năm 2015 với tốc độ trung bình 19,3%/năm.
Nhập khẩu tăng trưởng chậm hơn, trung bình tăng 15,6%/năm, từ 84,8 tỷ USD lên 165,6 tỷ USD trong
giai đoạn 2010-2015. Đến giai đoạn 2016-2019, cả xuất khẩu và nhập khẩu đều duy trì xu hướng tăng
nhưng với tốc độ chậm hơn giai đoạn trước. Cụ thể, xuất khẩu tăng trung bình 17%/năm và nhập khẩu
tăng trung bình 11,5%/năm. Nhìn chung, trong cả giai đoạn 2010-2019, nhập khẩu tăng trung bình
11,4%/năm, chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng 14,7% của xuất khẩu, do đó, cán cân thương mại cả
giai đoạn dần dịch chuyển từ thâm hụt sang trạng thái mở rộng thặng dư.

Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam ít nhiều thể hiện sức chống chịu cao hơn trong giai đoạn 20182020. Cần lưu ý, đây là giai đoạn nền kinh tế hứng chịu những tác động bất lợi của chiến tranh thương
mại Mỹ - Trung Quốc (từ giữa năm 2018), và tác động của đại dịch COVID-19 và các biện pháp ứng
phó với đại dịch này ở nhiều thị trường (từ đầu năm 2020). Theo đó, Việt Nam vẫn giữ được đà tăng
trưởng xuất khẩu và nhập khẩu trong các năm 2018-2019. Ngay trong 10 tháng đầu năm 2020, Việt
Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng dương (5%) so với cùng kỳ năm 2019, trong khi tốc độ tăng nhập
khẩu tương ứng đạt 0,3%. Bên cạnh những nỗ lực thích ứng của khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp trong nước, sức chống chịu tốt hơn của nền kinh tế còn xuất phát một phần từ việc kiên

định thực hiện các biện pháp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt
là về tạo thuận lợi cho thương mại, thúc đẩy phát triển thương mại điện tử.

Độ mở thương mại của Việt Nam giữ xu hướng tăng. Tỷ lệ hàng xuất khẩu so với GDP của Việt Nam
tăng từ 62,3% năm 2010 lên 101,0% năm 2019. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ so với
GDP cũng tăng tương ứng từ 72,0% lên 106,8%. Tỷ lệ cũng như tốc độ tăng này tương đối cao so với
các nước trong nhóm RCEP (Bảng 5). Điều này tái khẳng định một nhận định từ trước đó trong
MUTRAP (2015) là Việt Nam vẫn có thể tận dụng tối ưu tiềm năng xuất khẩu ngày cả trong môi trường
bất ổn. Tỷ lệ nhập khẩu so với GDP, và tỷ lệ hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu so với GDP đều giảm trong
năm 2012 nhưng sau đó đã tăng trở lại, lần lượt đạt mức 96,8% và 103,6%.
11


Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi vẫn giữ tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, song tỷ
trọng này có xu hướng giảm trong giai đoạn 2010-2020. Trong các năm 2010 – 2015, xuất khẩu của
doanh nghiệp FDI liên tục tăng, với tốc độ nhanh hơn tăng trưởng xuất khẩu của cả nước. Cụ thể, tăng
trưởng xuất khẩu trung bình của khu vực FDI và cả nước lần lượt là 29,2%/năm và 19,3%/năm. Kể từ
năm 2016, các doanh nghiệp trong nước đã vươn lên mạnh mẽ hơn, đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng
xuất khẩu của cả nước. Đặc biệt, kết quả tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong các năm 2018-2020
có đóng góp chủ yếu là từ khu vực doanh nghiệp trong nước.
Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp FDI có tăng trưởng xuất khẩu chậm hơn từ năm 2018, thậm chí
cịn có tăng trưởng âm trong 10 tháng đầu năm 2020. Tuy vậy, xuất siêu và giá trị xuất khẩu tuyệt đối
vẫn chủ yếu dựa vào đóng góp từ các doanh nghiệp FDI. Chính ở đây, hàm ý từ Hiệp định RCEP – khi
mà Việt Nam chịu thâm hụt thương mại lớn với khu vực này – là khá thách thức đối với Việt Nam.

* Thương mại theo mặt hàng/ngành
Xuất khẩu
Nhìn chung, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019, thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng
hàng nông lâm nghiệp và thủy sản (NLTS, từ 19,9% còn 9,9%) và tăng tỷ trọng hàng công nghiệp (từ
12



80,1% lên 90,1%). Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm NLTS tăng từ 14,3 tỷ USD năm 2010 lên 26,0
tỷ USD năm 2019, với tốc độ trung bình 6,9%/năm. Xuất khẩu nhóm sản phẩm cơng nghiệp tăng trưởng
nhanh hơn, từ 57,9 tỷ USD năm 2010 lên 238,5 tỷ USD năm 2019 với tốc độ trung bình đạt 17,0%/năm.
Tuy vậy, trong khi xuất khẩu hàng công nghiệp liên tục tăng trưởng dương, xuất khẩu hàng NLTS có
những thời điểm giảm (như năm 2015 và 2019, giảm tương ứng 4,8% và 3,1%), và nhìn chung tăng
trưởng chậm hơn trong giai đoạn 2016-2019 (so với giai đoạn 2011-2015, Bảng 9). Một nguyên nhân
thể chế dẫn đến tình trạng này có thể là việc “ngần ngại” hơn trong việc ban hành các quy định nhằm
tăng cường tiêu chuẩn, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu, trong khi các thị trường áp dụng các biện
pháp phi thuế quan chặt chẽ hơn đối với nông sản nhập khẩu. Trong nhóm sản phẩm NLTS, cơ cấu xuất
khẩu sản phẩm nông nghiệp dịch chuyển theo hướng giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm động vật và rau
quả, tăng t và tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thực phẩm. Tuy vậy, rau quả vẫn là loại hàng xuất khẩu
chủ yếu với tỷ trọng trong tổng xuất khẩu đạt 5,1% năm 2019. Các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của
Việt Nam như gạo, cà phê, tiêu, chè, v.v. thuộc nhóm hàng này. Tỷ trọng nhóm hàng thực phẩm vẫn
cịn tương đối thấp, chỉ chiếm 2,4% tổng xuất khẩu năm 2019. Điều này cho thấy Việt Nam còn hạn
chế trong xuất khẩu nông sản chế biến, chủ yếu vẫn xuất khẩu ngun liệu và sản phẩm thơ. Trong
nhóm hàng cơng nghiệp xuất khẩu, các mặt hàng dệt may, giày dép và máy móc điện là các sản phẩm
xuất khẩu chính của Việt Nam, chiếm 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019. Kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng máy móc, thiết bị điện cũng tăng trưởng nhanh chóng với tốc độ tăng trung bình 30,3%/năm.
Theo đó tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng này trong tổng xuất khẩu cũng tăng vọt từ 14,1% năm 2010 lên
41,7% sau 9 năm. Xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu giảm mạnh, trung bình cả giai đoạn 2010-2019 giảm
8,3%/năm. Cơ cấu xuất khẩu sang các nước RCEP cũng dịch chuyển theo hướng giảm dần tỷ trọng sản
phẩm nông nghiệp và tăng tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp. Trung bình giai đoạn 2010-2019, tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm NLTS chỉ đạt 10,0%/năm (cao hơn so với xuất khẩu NLTS nói chung)
trong khi tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp đạt 15,8%/năm (thấp hơn so với xuất khẩu NLTS
nói chung). Như vậy, so với hoạt động xuất khẩu nói chung, Việt Nam dựa nhiều hơn vào thị trường
RCEP ở nhóm mặt hàng NLTS, trong khi xuất khẩu hàng công nghiệp nhiều hơn vào các thị trường
ngồi RCEP. Trong nhóm hàng cơng nghiệp, nhiên liệu xuất khẩu cũng giảm nhanh, trung bình cả giai
đoạn 2010-2019 giảm 8,1%/năm. Trong khi đó, nhóm hàng kim loại và máy móc, điện có tốc độ tăng

trưởng xuất khẩu cao, lần lượt đạt 15,8%/năm và 26,8%/năm giai đoạn 2010-2019.

13


Nhập khẩu
Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam cũng chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng hàng NLTS và tăng
tỷ trọng hàng công nghiệp, song tốc độ chuyển dịch chậm hơn so với cơ cấu xuất khẩu. Nhóm hàng
14


máy móc, thiết bị điện ln giữ tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu hàng nhập khẩu, tăng từ 25,4% năm 2010
lên gần 39,9% năm 2019. Đây cũng là nhóm có tốc độ tăng nhập khẩu nhanh nhất, trung bình đạt
18,8%/năm trong giai đoạn 2010-2019.

Tương tự, cơ cấu nhập khẩu từ các nước RCEP cũng dịch chuyển khá chậm theo hướng giảm dần tỷ
trọng sản phẩm nông nghiệp và tăng tỷ trọng các sản phẩm cơng nghiệp. Trung bình giai đoạn 20102019, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu sản phẩm NLTS đạt gần 9,9%/năm trong khi nhập khẩu sản phẩm
công nghiệp tăng hơn 13,3%/năm. Máy móc, thiết 24 bị điện vẫn là nhóm hàng có tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nhập khẩu từ RCEP, tăng từ 29% năm 2010 lên 45,0% năm 2019

* Theo hàm lượng công nghệ
15


Việt Nam đang nỗ lực hướng cơ cấu xuất khẩu đến các mặt hàng có cơng nghệ cao hơn. Cơ cấu xuất
khẩu hàng hóa có hàm lượng cơng nghệ cao đang dần được cải thiện, tăng từ 18,7% năm 2010 lên
48,2% năm 2019. Các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật thấp tuy có 25 xu hướng giảm dần, nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang RCEP, CPTPP, Nhật Bản, Mỹ và
các nước khối EU.


Kim ngạch hàng hóa cơng nghệ cao sang các đối tác nhóm RCEP chiếm 24,0% tổng kim ngạch xuất
khẩu sang thị trường này năm 2010, đã tăng lên mức 47,2% năm 2019, với tốc độ tăng trung bình
34,0%/năm. Đáng lưu ý, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa cơng nghệ thấp sang Nhật Bản – thị trường Việt
Nam kỳ vọng nhiều trong RCEP – lại có xu hướng tăng trong các năm 2010-2019.

16


Nhập khẩu vào Việt Nam giai đoạn 2010-2019 dần thay đổi theo hướng tăng dần tỷ trọng các mặt hàng
có hàm lượng cơng nghệ cao. Hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn
Quốc chiếm tỷ trọng lớn, và tăng trưởng nhanh. Tỷ trọng nhập khẩu nhóm hàng này trong tổng nhập
khẩu từ Hàn Quốc tăng từ 19,4% năm 2010 lên 60% năm 2019, với tốc độ tăng trung bình đạt
64,4%/năm giai đoạn 2010-2015 và 25,8%/năm giai đoạn 2016-2019. Trong nhập khẩu từ Trung Quốc,
tỷ trọng hàng có hàm lượng cơng nghệ cao tăng từ 29,1% năm 2010 lên 39,2% năm 2019, trong khi tỷ
lệ hàng có 27 hàm lượng cơng nghệ thấp lại giảm. Cùng với việc tỷ lệ hàng có hàm lượng công nghệ
thấp tăng trong xuất khẩu vào Trung Quốc, điều này đặt ra rủi ro Việt Nam tiếp tục bị đẩy lùi xuống
thấp hơn so với Trung Quốc trong chuỗi giá trị.
Diễn biến các hoạt động đầu tư
Cùng với quá trình đổi mới và cải cách kinh tế trong 35 năm qua, Việt Nam ghi nhận xu hướng tăng
nhanh về thu hút FDI, đặc biệt là gắn với các mốc hội nhập vào kinh tế khu vực và toàn cầu. Cụ thể,
thu hút FDI ngày càng tăng cả về số vốn đăng ký, vốn thực hiện và số dự án cấp mới. Đặc biệt vốn đăng
ký tăng mạnh trong giai đoạn 2017-2019, đạt 110,58 tỷ USD, xấp xỉ 92% tổng vốn đăng ký của 7 năm
trước đó (2010-2016). Vốn thực hiện cũng có sự cải thiện rõ rệt từ năm 2015 trở lại đây. Tổng vốn thực
hiện trong 5 năm (2015-2019) đạt 87,28 tỷ USD, bằng 156% vốn thực hiện trong 5 năm trước đó (20102014).

Theo đối tác đầu tư: Sau hơn 3 thập kỷ thu hút đầu tư, Việt Nam đã có sự hiện diện của nhà đầu tư từ
trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, đa phần là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Nguồn vốn FDI chủ
yếu tập trung ở các nhà đầu tư đến từ 15 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoảng 90% tổng lượng vốn
đăng ký giai đoạn 2008-2018, và 93% lượng vốn đăng ký trong giai đoạn 2010-2019, trong đó tập trung
chủ yếu ở Châu Á. Cần lưu ý, 6/10 đối tác đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là các thành viên RCEP, cụ

thể là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan. Giai đoạn 2010-2019, Việt
Nam thu hút tổng lượng vốn FDI đăng ký ước khoảng 257 tỷ USD, trong đó đầu tư từ nhóm RCEP-5
19 chiếm tới 47% tổng vốn, kế đó là các nước ASEAN ở vị trí thứ hai với 19% tổng vốn. EU và Mỹ là
các thị trường xuất khẩu chủ lực, đem lại thặng dư xuất khẩu lớn cho Việt Nam nhưng kết quả thu hút
FDI từ các thị trường này vẫn rất khiêm tốn, chỉ chiếm 6% với EU và chỉ 2% với Mỹ.

17


Thu hút đầu tư từ các nước RCEP
Trong giai đoạn 2010-2019, trong các quốc gia thuộc RCEP thì Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN (chủ yếu
là Singapore), và Trung Quốc là bốn đối tác đầu tư chính vào Việt Nam. Vốn đầu tư từ các quốc gia
phát triển như Úc và Newzealand cịn rất khiêm tốn. Tính chung cho cả giai đoạn 2010-2019, lượng
vốn FDI đăng ký từ khối RCEP chiếm tới 65,7% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam

Tính luỹ kế đến 20/9/2020, trong nhóm 10 quốc gia và vùng lãnh thổ hiện là đối tác đầu tư lớn nhất tại
Việt Nam thì có tới 6 nước RCEP bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và 3 nước ASEAN
(Singapore, Malaysia và Thái Lan). Tổng số vốn đăng ký từ 6 nước này là 231,6 tỷ USD, chiếm 60,7%
tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam. Trong đó Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore lần lượt là ba nhà
đầu tư hàng đầu tại Việt Nam. Lưu ý là FDI đăng ký từ Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng nhanh, chiếm
tỷ trọng 5,6% xét theo vốn đăng ký lũy kế tại thời điểm tháng 9/2020. Trung Quốc hiện đứng thứ bảy
trong nhóm 10 nhà đầu tư nước ngồi lớn nhất ở Việt Nam.

18


1.2 Giai đoạn hiệp định được ký kết và có hiệu lực 2020- đến nay
Vào ngày 15/11/2020 tại Hà Nội, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực ( RCEP) là một hiệp
định thương mại tự do (FTA) bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 5 quốc gia mà ASEAN đã ký
hiệp định thương mại tự do (Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Hiệp định

chiếm khoảng 30% của tổng sản phẩm nội địa GDP toàn cầu, trở thành một khối thương mại lớn nhất
trong lịch sử. Với Việt Nam, Hiệp định chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2022. Việc Hiệp định RCEP
có hiệu lực từ tháng 01 năm 2022 sẽ góp phần đa phương hóa các Hiệp định thương mại tự do mà
ASEAN đã ký kết với từng nước đối tác trước đây, hài hòa các cam kết, quy định trong các hiệp định
này, tối đa hóa các lợi ích kinh tế, đặc biệt là quy tắc xuất xứ và tạo thuận lợi cho thương mại, góp phần
củng cố các chuỗi cung ứng khu vực và phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19.
RCEP có hiệu lực - sự kiện nhiều ý nghĩa
Trải qua thời gian tám năm, 31 vòng đàm phán, 15 cuộc họp của Ủy ban đàm phán thương mại và 19
vòng đàm phán cấp bộ trưởng, cuối cùng các nước đã đạt được thỏa thuận RCEP. Đây không chỉ là một
thỏa thuận thương mại tự do đơn thuần mà cịn thực sự là một thỏa thuận tồn diện. RCEP dựa trên
“kiềng ba chân” gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại điện tử, được cụ thể hóa
bằng một văn kiện dài hơn 14.000 trang với 20 chương, cùng với các phụ lục và lịch trình.
Thương mại và đầu tư
Hiệp định RCEP sẽ tạo thành một thị trường với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng (chiếm khoảng 30%
dân số thế giới) và GDP khoảng 26,2 nghìn tỷ USD (tương đương khoảng 30% GDP tồn cầu), trở
thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới xét về quy mơ dân số. Vì vậy, Hiệp định RCEP
dự kiến sẽ giúp tạo lập một thị trường xuất khẩu ổn định, lâu dài cho các nước ASEAN nói chung và
Việt Nam nói riêng, góp phần thúc đẩy việc thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng
xuất khẩu của Việt Nam
Việt Nam có mối quan hệ thương mại-đầu tư đặc biệt lớn với các nước thành viên ký kết RCEP. Những
đối tác thuộc tốp đầu các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, các nguồn nhập khẩu lớn
nhất vào Việt Nam đều có mặt trong khu vực này.Trong số 14 nước thành viên RCEP còn lại, hầu hết
đều là đối tác đầu tư lớn của Việt Nam. Thậm chí, trong danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu
tư lớn tại Việt Nam, thì có tới 6 đối tác đến từ RCEP. Trong đó, lớn nhất là Hàn Quốc (với 70,38 tỷ
USD), tiếp đó là Nhật Bản (59,89 tỷ USD), Singapore (55,7 tỷ USD), Trung Quốc (18 tỷ USD),
Malaysia (12,8 tỷ USD), Thái Lan (12,5 tỷ USD).

19



RCEP sẽ giúp Việt Nam tăng cường vị thế thương mại và thúc đẩy quá trình phục hồi hậu đại dịch. Việt
Nam đặt mục tiêu đạt mức tăng trưởng xuất khẩu hàng năm ở mức 6 – 7% trong thời gian từ 20212030.Các mặt hàng xuất khẩu chính hưởng lợi từ RCEP bao gồm công nghệ thông tin, dệt may, da giày,
nông nghiệp, ô tô và viễn thông. Trong dài hạn, hiệp định này sẽ tạo ra nền tảng để tạo dựng một chuỗi
cung ứng mới trong khu vực, trong đó vai trị của Việt Nam là hết sức quan trọng.
Từ góc độ thương mại, các nước RCEP là nguồn cung nhập khẩu lớn nhất vào Việt Nam, đặc biệt là
các nguyên phụ liệu và máy móc thiết bị phục vụ nhiều ngành sản xuất, xuất khẩu. Đây là cơ hội để
doanh nghiệp có nguồn đầu vào giá tốt, nguồn cơng nghệ có chất lượng để cải thiện năng lực sản xuất,
cạnh tranh.
Với nguồn cung nguyên liệu đầu vào lớn từ khu vực thị trường RCEP, doanh nghiệp có thể dễ dàng đáp
ứng các quy tắc xuất xứ hơn để hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu trong RCEP.
“RCEP sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu và tiếp cận tốt hơn với các thị trường tiêu dùng lớn như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Indonesia. Hiệp định này sẽ giúp các nhà sản xuất tại Việt Nam
giảm thiểu chi phí và tiếp cận chuỗi cung ứng khắp khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Phần lớn
nguyên liệu thô phục vụ cho xuất khẩu của Việt Nam được nhập từ các nước tham gia RCEP”
“Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn chiếm 98% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam và đóng góp 40%
vào GDP, sẽ hưởng lợi khi RCEP mang đến các cơ hội giúp các doanh nghiệp phát triển lên những nấc
thang cao hơn trong chuỗi cung ứng”
Các chuyên gia của Standard Chartered dự báo thặng dư cán cân vãng lai và nguồn vốn FDI sẽ tiếp tục
là những yếu tố quan trọng hỗ trợ cho tiền đồng (VND) trong dài hạn. RCEP sẽ thúc đẩy xuất khẩu của
Việt Nam, hỗ trợ cán cân vãng lai và thu hút thêm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. “Tổng cán
cân vãng lai và vốn đầu tư trực tiếp ròng vào Việt Nam đạt mức trung bình hàng năm 19 tỷ USD trong
9 năm qua. Với kết quả này, chúng tôi kỳ vọng VND sẽ tiếp tục tăng giá trong những năm tới. Dự báo,
tỷ giá USD/VND sẽ đạt 22.500 vào cuối năm 2022 và 22.000 và cuối năm 2023”
Hiện nay, các báo cáo đánh giá về tác động của RCEP đều cho rằng Hiệp định sẽ mang lại nhiều tác
động tích cực tới nền kinh tế khu vực. Theo đó, tới năm 2030, sẽ làm tăng thu nhập của toàn khu vực
khoảng 0,6%, tương đương với tăng thêm mỗi năm 245 tỷ USD và tạo thêm 2,8 triệu việc làm. Đối với
Việt Nam, các nghiên cứu gần đây đều chỉ ra Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều từ RCEP. Nghiên cứu
của Ngân hàng thế giới năm 2022 dự báo rằng GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 4,9% và xuất
khẩu tăng ở mức 11,4% tới năm 2030.
Cắt giảm thuế quan

Đáng chú ý, sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực, các bên sẽ ngay lập tức thực hiện các cam kết của
mình, trong đó có các cam kết cắt bỏ thuế quan.
RCEP sẽ tiến tới loại bỏ ít nhất 92% dịng thuế nhập khẩu giữa các quốc gia ký kết trong vòng 20 năm,
sẽ thiết lập các quy tắc chung cho thương mại điện tử, thương mại và quyền sở hữu trí tuệ. RCEP được
thiết kế nhằm cắt giảm chi phí và thời gian cho các thương nhân khi cho phép họ xuất khẩu hàng hóa
sang bất kỳ quốc gia ký kết thỏa thuận nào mà không cần đáp ứng các yêu cầu riêng biệt của từng quốc
gia.
Hiệp định RCEP thực thi sẽ cắt giảm thuế quan về 0% đối với nhiều mặt hàng của các quốc gia tham
gia, theo đó chi phí giao dịch được cắt giảm do nhiều thủ tục được đơn giản hóa. Vì vậy, việc xuất khẩu
hàng hóa nói chung và các mặt hàng chủ lực (nông nghiệp, dệt may, da giầy, điện tử, viễn thông, công
nghệ thông tin…) của Việt Nam tiếp tục gặp nhiều thuận lợi.
Cụ thể, Việt Nam và các nước đối tác sẽ xóa bỏ thuế quan đối với ít nhất 64% số dịng thuế ngay khi
Hiệp định có hiệu lực. Đến cuối lộ trình (sau 20 năm) Việt Nam sẽ xóa bỏ gần 90% số dịng thuế với
các nước đối tác, trong khi đó, các nước đối tác sẽ xóa bỏ khoảng 90-92% số dịng thuế cho Việt Nam
và các nước ASEAN sẽ xóa bỏ gần như tồn bộ số dịng thuế cho Việt Nam.
Quy tắc xuất xứ

20


Ưu điểm mà RCEP mang lại không nằm ở mức cắt giảm thuế quan, mà nằm ở việc nới lỏng bộ quy tắc
xuất xứ làm tăng khả năng tận dụng ưu đãi thuế quan cho hàng hóa. Một điểm khác biệt của Hiệp định
này là thay vì 5 hiệp định FTA giữa ASEAN với các đối tác trước đây ta phải áp dụng, tuân thủ 5 bộ
quy tắc xuất xứ để hàng hóa khi xuất khẩu sang thị trường đó được hưởng ưu đãi thuế thì hiệp định này
tạo nên một bộ quy tắc xuất xứ hài hịa.
“Có nghĩa là doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng các nguyên liệu đầu vào từ tất cả các nước trong
khu vực RCEP bao gồm 10 nước ASEAN và 5 nước đối tác để sản xuất ra hàng hóa và xuất khẩu đi bất
cứ nước nào trong số các thành viên RCEP này cũng đều được hưởng ưu đãi thuế quan nếu đáp ứng
được quy tắc xuất xứ,”Theo quy tắc xuất xứ trong RCEP, hàng hóa được coi là có xuất xứ nếu đáp ứng
một trong 3 trường hợp: (i) Là hàng hóa có xuất xứ thuần túy tại một nước thành viên; (ii) Hàng hóa

được sản xuất chỉ từ nguyên liệu có xuất xứ từ một hay nhiều nước thành viên; (iii) Hàng hóa sử dụng
ngun liệu khơng có xuất xứ nhưng đáp ứng quy định tại quy tắc cụ thể mặt hàng.
Hiện nay, Việt Nam đang nhập nguyên liệu từ Nhật Bản, Hàn Quốc để sản xuất hàng điện tử, nhập khẩu
nguyên liệu chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc để sản xuất hàng dệt may… Khi RCEP có hiệu lực sẽ
tạo ra các ưu đãi thuế quan nhiều nhất cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và các thành viên khi được
áp dụng quy tắc xuất xứ nội khối. Đây cũng chính là điểm khác biệt lớn .
Ví dụ: Đối với hàng hóa nơng nghiệp, CPTPP duy trì Quy tắc cụ thể mặt hàng với hầu hết các
hàng hóa nơng nghiệp từ Chương 1 đến Chương 24 theo Hệ thống hài hịa mơ tả và mã hóa hàng hóa
(HS). CPTPP cũng thiết lập Quy tắc chuyển đổi mã số HS của hàng hóa (CTC) rất chặt khi đa số các
mã HS đều phải đáp ứng chuyển đổi Chương. Liên quan đến quy tắc CTC, quy định “de minimis” trong
CPTPP cũng khá phức tạp, đối với các sản phẩm nông nghiệp, CPTPP loại trừ áp dụng tỷ lệ linh hoạt
này với một số nguyên liệu sử dụng để sản xuất mặt hàng bơ, sữa, nước ép hoa quả, dầu ăn... Vì thế
đây được coi là điểm khó trong quy tắc xuất xứ của CPTPP đối với hàng hóa nơng nghiệp.
Trong khi đó, quy tắc xuất xứ theo RCEP (theo cam kết, quy tắc xuất xứ theo VJEPA/AJCEP cũng
được tích hợp trong RCEP) mang lại những lợi thế rõ rệt do có quy mơ thị trường rất lớn bao gồm cả
Trung Quốc – quốc gia có khả năng cung cấp nguồn nguyên liệu rất lớn cũng như tham gia sâu vào quá
trình sản xuất, điều này gỡ được nút thắt lâu nay cho doanh nghiệp sản xuất theo chuỗi mà tồn bộ
ngun liệu hoặc q trình sản xuất khơng đáp ứng được toàn bộ tại một quốc gia do RCEP cho phép
các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp ngun liệu có xuất xứ trong tồn khối. Như vậy,
doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ khơng những từ các nước ASEAN mà
cịn có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ từ các nước đối tác ASEAN như Úc, New Zealand, Nhật
Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Ví dụ như, với hàng thủy sản, các hiệp định trước đây đều yêu cầu xuất
xứ thuần túy tại Việt Nam, nhưng Hiệp định RCEP cho phép nhập khẩu con giống, nuôi trồng tại Việt
Nam và xuất khẩu mà vẫn được hưởng ưu đãi. Đây được coi điểm mở rộng hơn so với các FTA
ASEAN+1, bao gồm cả AJCEP, giúp doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng nguồn nguyên liệu đa
dạng trong toàn khối RCEP để tăng cường khả năng xuất khẩu sang các nước đối tác trong khối. Bên
cạnh đó, ngay khi thực thi Hiệp định RCEP, ngoài việc áp dụng cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ, các
nước thành viên sẽ tiếp tục nghiên cứu và thảo luận về tính khả thi của cộng gộp toàn phần, là quy tắc
xuất xứ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể từng bước tham gia chuỗi cung ứng khu
vực, tương tự như quy tắc xuất xứ trong Hiệp định CPTPP.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là quy tắc xuất xứ trong các hiệp định đều có những điểm khá phức tạp, đòi
hỏi doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao năng lực sản xuất, chế biến sâu, tìm kiếm nguồn nguyên liệu
trong khu vực hoặc phát triển các nguồn nguyên liệu từ trong nước. Hơn nữa, theo các chuyên gia kinh
tế, điều quan trọng nhất là Việt Nam cần đáp ứng quy định xuất xứ bằng cách phát triển công nghiệp
hạ nguồn để hỗ trợ các doanh nghiệp gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, đáp ứng quy định xuất xứ hàng hóa xuất
khẩu vào các thị trường FTA.
RCEP tác động đến chuỗi cung ứng từng ngành như thế nào?

21


Báo cáo chỉ rõ, hiện nay, sản xuất của Việt Nam trong các chuỗi cung ứng chủ yếu tập trung vào hạ
nguồn với việc gia công, lắp ráp (điện tử, ô tô, may mặc) hoặc các sản phẩm hoàn thiện có kỹ thuật thấp
hoặc trung bình (ngành dệt).
Trong khi đó, RCEP sẽ tạo cơ hội để Việt Nam cải thiện giá trị gia tăng và tăng năng suất, khắc phục
tình trạng gia công trong các ngành. Bao gồm thúc đẩy mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế
theo quy mô, thu hút đầu tư vào các ngành sản xuất thượng nguồn để cải thiện giá trị gia tăng và năng
suất lao động.
Tăng cường chun mơn hóa vào các ngành mà Việt Nam đang có lợi thế, từ đó lôi kéo thêm nhiều FDI
trong chuỗi cung ứng đến Việt Nam. Ngoài ra, RCEP giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia nhiều
hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách tận dụng lợi thế về RoO (quy tắc xuất xứ) trong khối, nâng
cao tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan với các đối tác trong hiệp định.
- Đối với ngành điện tử, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong việc tham gia vào chuỗi cung
ứng toàn cầu ngành điện tử, thể hiện qua sự gia tăng cả về xuất nhập khẩu và thu hút FDI. Xuất
khẩu tăng nhanh trong những năm gần đây, trong đó xuất khẩu thành phẩm và linh kiện điện tử
chiếm tỷ trọng ngày càng tăng. Các nước RCEP là đối tác cung cấp bộ phận, linh kiện điện tử
lớn nhất của Việt Nam, chiếm 66% tổng giá trị nhập khẩu nhóm hàng này nhờ vai trò của Hàn
Quốc và Trung Quốc.
Tuy nhiên, mặc dù khối lượng xuất khẩu rất lớn, Việt Nam chỉ giới hạn ở vai trị là nhà tích hợp
thành linh kiện hoặc tích hợp các linh kiện thành sản phẩm cuối cùng. Các công đoạn khác ở

thượng nguồn của chuỗi chủ yếu do Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ, Đài Loan thực
hiện.Với RCEP, báo cáo NCIF chỉ rõ, xuất khẩu và nhập khẩu nội khối có thể tăng lên do giảm
thuế, nhưng khó thu hút chuỗi cung ứng vào các phân khúc có giá trị gia tăng cao.
Về quy tắc xuất xứ (RoO) trong RCEP sẽ góp phần làm tăng FDI vào Việt Nam do xu hướng
đa dạng hóa chuỗi cung ứng theo chiến lược “Trung Quốc+1” trong ngành điện tử.
- Đối với ngành sản xuất ô tô, Việt Nam chủ yếu ở giai đoạn lắp ráp ô tô nguyên chiếc phục vụ
thị trường trong nước, sản xuất một số linh kiện phục vụ trực tiếp cho lắp ráp nguyên chiếc và
xuất khẩu. Mặt khác, Việt Nam nhập khẩu rịng hầu hết các nhóm sản phẩm cơng nghiệp hỗ trợ
có hàm lượng cơng nghệ, vốn và giá trị gia tăng cao.
RCEP sẽ giúp Việt Nam thu hút đầu tư FDI vào chun mơn hóa sản xuất một số linh kiện, phụ
tùng và modun. Các tập đồn ơ tơ lớn trong khu vực đã và đang có kế hoạch chun mơn hóa
sản xuất một số sản phẩm linh kiện, module tại Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường ASEAN.
Điều này góp phần giúp Việt Nam đẩy mạnh thu hút dịng vốn đầu tư chun mơn hóa từ các
tập đồn sản xuất ơ tơ lớn trong khu vực.
- Đối với ngành dệt, hiện Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc là các nhà đầu tư lớn nhất trong
ngành dệt của Việt Nam và chủ yếu tham gia vào công đoạn sản xuất thành phẩm, sợi và chỉ.
Sợi sản xuất ra không được sử dụng trong nước để dệt vải mà chủ yếu để xuất khẩu, trong khi
đó vải sản xuất trong nước chỉ đáp ứng chưa đến 50% nhu cầu, khiến nhập khẩu ngành dệt nhập
khẩu 10 tỷ USD/ năm về vải các loại.
Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng vào ngành dệt của Việt Nam được thể hiện rõ trong vài
năm gần đây. Cụ thể, nhập khẩu nguyên liệu và sản phẩm ngành dệt có xu hướng giảm hoặc
tăng chậm lại, trong khi các dự án FDI vào sản xuất nguyên phụ liệu có xu hướng tăng lên để
tận dụng cơ hội mở rộng xuất khẩu từ các FTA.
Chính vì vậy, RCEP sẽ thúc đẩy xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng vào Việt Nam mạnh
hơn nữa do lộ trình cắt giảm thuế quan nhanh với nguyên liệu và thành phẩm ngành dệt, trong
khi RoO của RCEP tương đối linh hoạt, giúp Việt Nam hấp dẫn hơn với dịng vốn đầu tư nước
ngồi.
- Đối với ngành may mặc, hàng may mặc của Việt Nam phụ thuộc lớn vào vải nhập khẩu do các
doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các thương hiệu lớn, đã có sẵn chuỗi cung ứng riêng. Mặt khác,
22



các doanh nghiệp trong nước chủ yếu gia công cho nước ngoài theo nguồn cung nguyên liệu,
mẫu mã thiết kế được các đối tác nước ngoài chỉ định.
Xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng của ngành may mặc thể hiện thông qua việc nhập khẩu
thành phẩm ngành may mặc (quần áo) từ các thị trường lớn trong RCEP đang giảm hoặc tăng
chậm lại, trong khi đó xuất khẩu và FDI vẫn tăng cao. Điều này đã giúp Việt Nam duy trì vững
chắc ở top 4 thế giới về xuất khẩu hàng may mặc.
RCEP sẽ giúp đẩy nhanh thu hút FDI và dịch chuyển chuỗi cung ứng ngành may mặc vào Việt
Nam, nhờ mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu thông qua các biện pháp cắt giảm thuế quan
và quy tắc RoO linh hoạt, cũng như khả năng nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào thấp hơn từ
các đối tác lớn trong RCEP.

2. Một số cơ hội và thách thức từ RCEP đối với hoạt động thương mại và đầu tư
2.1. Đối với hoạt động thương mại
a. Cơ hội
- RCEP mở ra cơ hội tăng trưởng xuất khẩu
Bao phủ các quốc gia có dân số tới 2,2 tỷ dân, tương đương 30% dân số toàn cầu, hiệp định RCEP tạo
ra một thị trường lớn và tiềm năng cho xuất khẩu. Đây là khu vực có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ,
mức sống cao nên nhu cầu tiêu dùng rất lớn. Do đó, hiệp định RCEP mở ra thêm cơ hội cho doanh
nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu và mở rộng thị trường đặc biệt là các loại mặt hàng mà Việt
Nam có lợi thế như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, v.v.
Thông qua các quy định về cắt giảm và xóa bỏ thuế quan, Hiệp định RCEP dự kiến sẽ đem lại nhiều lợi
ích cho doanh nghiệp Việt Nam.Tự do hóa thương mại trong RCEP giúp Việt Nam tăng trưởng GDP
cao hơn, thúc đẩy tiêu dùng tư nhân và xuất khẩu.
Thực tế, nhiều chuỗi sản xuất nhiều loại hàng hóa của Việt Nam cịn phụ thuộc vào nguồn cung nguyên
liệu (như sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, v.v.) từ nhiều quốc gia thuộc nhóm
RCEP (chẳng hạn Trung Quốc, Hàn Quốc, v.v.). Do đó, việc gia nhập RCEP sẽ giúp giảm bớt các khó
khăn và thách thức về quy tắc xuất xứ, góp phần tạo ra những chuỗi giá trị khu vực mới và giúp doanh
nghiệp tận dụng tốt hơn các ưu đãi thuế quan.

Với việc ký kết một thỏa thuận bao trùm là RCEP, thương mại giữa các quốc gia thành viên sẽ được
thúc đẩy thông qua một mức thuế thấp hơn, quy tắc xuất xứ linh hoạt hơn, và các quy định và thủ tục
hải quan đã được quy chuẩn hóa. Bên cạnh đó, Hiệp định RCEP cũng sẽ thống nhất quy tắc chung để
giảm thiểu các biện pháp phi thuế quan, đồng thời thống nhất các quy trình về hải quan, tạo thuận lợi
cho thương mại.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và Trung Quốc đã phục hồi tương đối nhanh, ý nghĩa của RCEP
đối với xuất khẩu của Việt Nam càng quan trọng hơn. Hiệp định này cũng được kỳ vọng sẽ thêm cơ hội
cho các dịch vụ như logistics, viễn thông, v.v.; tạo ra nền tảng thương mại điện tử tốt hơn, môi trường
đầu tư kinh doanh minh bạch và cạnh tranh hơn.
- Cơ hội mở rộng nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ có chất lượng phục vụ tiêu dùng trong nước và
sản xuất hàng xuất khẩu
Hiệp định RCEP mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn với các thị trường xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ đa dạng cả về loại hình và giá cả của các nước đối tác. Các quy định về xóa bỏ và cắt
giảm thuế quan sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội nhập khẩu ngun vật liệu và máy móc từ
các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao, với mức giá thấp hơn. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể tăng
năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tối ưu chi phí sản xuất, góp phần tăng khả năng cạnh tranh
của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.

23


Trong bối cảnh thu nhập và chất lượng sống của người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, yêu
cầu về chất lượng hàng hóa của người tiêu dùng ngày tăng cao. Trong khi đó, do nhiều yếu tố như dây
chuyền và cơng nghệ sản xuất của Việt Nam cịn lạc hậu, các sản phẩm nội địa không thể đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu khi tham gia RCEP sẽ giúp người tiêu dùng
Việt Nam được tiếp cận với nhiều cơ hội lựa chọn các sản phẩm chất lượng cao hơn với mức giá rẻ hơn,
đặc biệt là các sản phẩm mà Việt Nam khơng có lợi thế cạnh tranh.
- Tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị
Tham gia vào một thị trường rộng lớn như RCEP, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia sâu rộng
hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực. Thông qua các hoạt động hợp tác kỹ thuật và xuất nhập khẩu

hàng trung gian, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận và nhận chuyển giao khoa học, công nghệ;
nâng cao năng lực sản xuất và quản lý; theo đó, được tham gia vào các cơng đoạn sản xuất quan trọng
hơn, địi hỏi trình độ kỹ thuật cao hơn. Quá trình này giúp doanh nghiệp khơng ngừng cải thiện và nâng
cao trình độ, năng lực cạnh tranh và tăng cường vị thế trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
RCEP sẽ giảm các rào cản thương mại và cải thiện khả năng tiếp cận thị trường đối với hàng hóa và
dịch vụ, thu hút các cơng ty nước ngồi tham gia vào một thị trường ASEAN hội nhập hơn. Các doanh
nghiệp FDI, đặc biệt là từ các nước phát triển, sẽ đem lại các tác động lan tỏa tích cực, bao gồm chuyển
giao cơng nghệ, bí quyết kinh doanh, kỹ năng quản lý và cơ hội tiếp cận thị trường, vốn là những yếu
tố doanh nghiệp Việt Nam cịn yếu. Theo đó, doanh nghiệp sẽ dần phát triển và tăng cường năng lực
tham gia vào chuỗi giá trị ở mức cao hơn, có giá trị gia tăng cao hơn khi tham gia các chuỗi giá trị toàn
cầu.
Ngoài ra, liên kết hợp tác với các doanh nghiệp lớn cịn đem đến nhiều lợi ích khác cho doanh nghiệp
Việt Nam như: dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn để đầu tư nâng cấp. Vừa được tiếp cận tài chính, vừa
được chuyển giao cơng nghệ và kỹ năng, các doanh nghiệp Việt Nam dần cải thiện được vị thế của
mình trong chuỗi sản xuất. Ngồi ra, các doanh nghiệp khi được tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,
đặc biệt là khi được liên kết với các doanh nghiệp, tập đồn đa quốc gia, sẽ có động lực cũng như áp
lực phải không ngừng thay đổi và cải thiện để đáp ứng yêu cầu của đối tác.
- Nâng cao năng lực thể chế
Song song với quá trình đàm phán và và tham gia RCEP, Việt Nam đã có những nỗ lực hoàn thiện thể
chế kinh tế ở Việt Nam, cụ thể là: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý; củng cố năng lực của
bộ máy tổ chức; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ theo hướng đảm
bảo cạnh tranh bình đẳng. Bên cạnh đó, việc phải thực hiện hài hòa hơn quy tắc xuất xứ trong RCEP
với quy tắc xuất xứ trong các FTA khác cũng đòi hỏi phải tổ chức thực hiện hiệu quả hơn từ việc ban
hành quy định hướng dẫn và các biện pháp chính sách liên quan.
b. Thách thức
- Bảo đảm khả năng tận dụng FTA nói chung và RCEP nói riêng
Theo Bộ Cơng Thương, thuế suất trung bình trong các cam kết FTA của Việt Nam chỉ từ 0 - 5%, thấp
hơn rất nhiều mức thuế suất trung bình từ 5 - 25% giữa các nước là thành viên Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Tuy nhiên, để được hưởng mức ưu đãi thuế quan của các FTA, hàng hóa xuất khẩu
của Việt Nam phải đáp ứng được các quy tắc xuất xứ được thiết kế riêng cho mỗi FTA. Quy tắc xuất

xứ nhằm xác định sự hợp lệ của hàng nhập khẩu để được hưởng mức thuế ưu đãi.
Một số nghiên cứu cho rằng khả năng tận dụng ưu đãi của Hiệp định ASEAN và các đối tác có cải thiện
nhưng chưa cao. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong
việc tận dụng ưu đãi từ Hiệp định RCEP. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp chưa nắm rõ
các tiêu chí và điều kiện để hàng hóa xuất khẩu được hưởng ưu đãi. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
Việt Nam chưa có tầm nhìn, chiến lược kinh doanh thực sự thân thiện với quy tắc xuất xứ trong FTA
nói chung và trong ASEAN+ nói riêng.Doanh nghiệp ít quan tâm đến việc Việt Nam tham gia đàm
phán các FTA cũng như các điều khoản trong FTA nói chung và RCEP nói riêng.
- Năng lực cạnh tranh xuất khẩu
24


Một thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam là RCEP có thể tạo ra nguy cơ chuyển hướng thương
mại, cụ thể hơn là gia tăng cạnh tranh với Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam đang có ưu thế cạnh tranh
một cách tương đối so với Trung Quốc nhờ Hiệp định Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA), Việt Nam – Hàn
Quốc (VKFTA), và các Hiệp định ASEAN+1. Với RCEP, Trung Quốc có thêm ưu đãi thuế quan khi
xuất khẩu vào các thị trường này và sẽ gia tăng cạnh tranh hơn nữa với Việt Nam và các nước ASEAN.
So với các thành viên trong khối, các doanh nghiệp Việt Nam cịn yếu kém về quy mơ vốn, về năng lực
thiết bị, trình độ cơng nghệ, kỹ năng quản lý và lao động. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ ở thế
bất lợi hơn nhiều trong việc chiếm lĩnh thị trường các nước so với Trung Quốc, bởi các doanh nghiệp
Trung Quốc sản xuất hàng loạt với giá thành rẻ hơn, mẫu mã đẹp hơn.
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh đối với một số sản phẩm nông thủy sản và công nghiệp, tuy nhiên chủ
yếu vẫn là sản phẩm thơ hoặc có hàm lượng chế biến thấp, chất lượng chưa cao. Trong khi đó, cơ cấu
xuất khẩu 2 ngành này của Việt Nam lại tương đồng với các nước khác. Điều này tạo áp lực cạnh tranh
tăng giữa Việt Nam với các nước trong khối.
- Gia tăng nhập siêu
Ngành sản xuất trong nước sẽ phải đối mặt với một thách thức lớn nhất là hàng hóa từ các nước khác
có thể đưa vào Việt Nam với mức thuế suất thấp hơn. Gia tăng nhập siêu có thể gây áp lực đối với cán
cân thanh toán và thị trường ngoại hối, qua đó ảnh hưởng đến tình hình kinh tế vĩ mơ và chính sách tiền
tệ ở Việt Nam. Mặt khác, ngay cả khi gia tăng nhập siêu từ RCEP có thể được bù đắp bởi thặng dư

thương mại từ các thị trường khác, rủi ro hàng xuất khẩu của Việt Nam bị điều tra lẩn tránh thuế vẫn
hiện hữu, qua đó ảnh hưởng đến lựa chọn điều hành xuất khẩu ở cả cấp chính sách và cấp doanh nghiệp.

2.2. Đối với hoạt động đầu tư
a. Cơ hội
Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI từ sự dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc do tác động của
chiến tranh thương mại, công nghệ Mỹ - Trung Quốc, cũng như những xu hướng mới trong và sau đại
dịch COVID-19.
Theo đó, các nhà đầu tư nước ngồi đã và đang cân nhắc việc dịch chuyển một số công đoạn, lĩnh vực
đầu tư FDI sang một số nền kinh tế mới nổi có chi phí lao động tương đối thấp hơn như Ấn Độ, ASEAN
trong đó có Việt Nam…Một số lý do có thể kể đến gồm:
Thứ nhất là, nhằm né tránh rủi ro chiến tranh thương mại – công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc, các nhà
đầu tư có xu hướng tìm kiếm một thị trường đầu tư sản xuất có định hướng xuất khẩu ổn định hơn, ít
rủi ro hơn, đồng thời có thể tránh được việc áp thuế cao của Mỹ.
Hai là, các nhà đầu tư muốn tiếp tục đa dạng hóa chuỗi sản xuất. Đồng thời, một số quốc gia và doanh
nghiệp muốn giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc; do đó muốn tìm kiếm và dịch chuyển một phần sang
địa điểm đầu tư mới, trong khi vẫn giữ và tận dụng cơ sở đã đầu tư tại Trung Quốc, cũng như giảm
thiểu tác động bởi những cú sốc khi xảy ra đứt gãy một khâu/mắt xích trong chuỗi.
Ba là, các nhà đầu tư muốn tận dụng cơ hội mới từ các thị trường tiềm năng như Việt Nam, Indonesia,
Philippines,... Trong số các nước hưởng lợi từ sự dịch chuyển đầu tư, Việt Nam được đánh giá là một
điểm sáng về thu hút đầu tư do môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, thị trường trong nước
lớn hơn, mức sống ngày càng tăng; lợi thế về sự tương đồng với Trung Quốc về văn hóa, chính trị và
vị trí địa lý, điểm giúp tiết kiệm tối đa chi phí dịch chuyển sản xuất và vẫn giữ được mối liên hệ chặt
chẽ với các cơ sở sản xuất hiện tại có tại Trung Quốc; hội nhập sâu rộng của Việt Nam về kinh tế,
thương mại, đối ngoại, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, v.v.
Bốn là, đại dịch COVID-19 thúc đẩy việc sắp xếp lại chuỗi sản xuất toàn cầu. Dịch COVID -19 làm
đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, đồng thời cho thấy sự phụ thuộc lớn của chuỗi sản xuất,
cung ứng tồn cầu vào Trung Quốc. Do đó, các tập đoàn đa quốc gia muốn dịch chuyển đầu tư sang các
nước Đông Nam Á.
25



×