1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại hiện nay, sự bùng nổ của những thành tựu khoa học
công nghệ được ứng dụng vào sản xuất và đời sống đã làm tăng đáng kể của
cải, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, song một bộ phận dân cư
vẫn bị nghèo đói. Đó là nghịch lý trên con đường phát triển. Với khoảng dân
số thế giới,tức khoảng 1.2 tỷ người đang sống trong tình trạng nghèo khổ thu
nhập dưới 1USD/ngày, 800 triệu người đói, 40 triệu người chết 1 năm do đói
và đang trở thành vấn đề nhức nhối.
Xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Theo Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), hiện nay 90% số hộ nghèo của cả nước
là nằm ở nông thôn và chiếm từ 13% đến 15% dân số là ở nông thôn, trong đó
vùng sâu, vùng xa và miền núi chiếm tới 40%. Phần lớn hộ nghèo nằm trong
hộ thuần nông. Theo chuẩn nghèo (2009) trên cả nước Việt Nam hiện có
khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số cả nước. Nông nghiệp nông
thôn Việt Nam có nhiều mặt biến chuyển tốt. Trong quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, một số số hộ nông dân trở thành hộ giàu có, thu nhập và đời sống
tăng lên rõ rệt. Ở những vùng khác nhau đã có những ông chủ trang trại, chủ
trại rừng Bên cạnh một số hộ giàu và khá giả trong nông thôn hiện nay, đại
bộ phận kinh tế hộ nông dân còn thuộc diện trung bình và nghèo. Đặc biệt là
ở vùng nông thôn và miền núi. Trong những năm qua được sự chỉ đạo của cấp
uỷ Đảng và chính quyền địa phương, sự nỗ lực của toàn thể quần chúng,
phong trào xoá đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng được phát triển sâu
rộng đã giúp cho nhiều hộ vượt qua đói nghèo và vươn lên khá giả, một số
nơi đã thanh toán được nạn đói kinh niên. Chủ trương chính sách của Đảng ta
là: Xoá đói giảm nghèo đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, thu hẹp
dần khoảng cách thu nhập giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.
1
2
Hàm Yên là một huyện miền núi cách thành phố 42km về phía bắc của
tỉnh Tuyên Quang,huyện gồm có 18 xã và một thị trấn là một huyện còn gặp
nhiều khó khăn trong phát kinh tế và xã hội. Trong đó xã Thái Sơn là một là
một xã nghèo của huyện cùng hưởng ứng các chương trình, chính sách của
đảng và nhà nước. Nhân dân và chính quyền huyện Hàm Yên nói chung và
Xã Thái Sơn nói riêng cùng triển khai tiến hành Thực hiện chương trình
135,134 và 167 của Thủ tưởng Chính phủ thành công. Đảng bộ địa phương
phân công giao cho các ban ngành thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo,
đồng thời đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi,
đoàn kết giúp nhau làm giàu. Đây là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu
dài. Làm tốt công tác xoá đói, giảm nghèo sẽ góp phần đem lại sự công bằng
xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên nên trong quá trình
thực tập tại xã Thái Sơn, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang em đã chọn đề
tài nghiên cứu của mình: “Đánh giá thực trạng và phát triển kinh tế cho hộ
nghèo tại địa bàn xã Thái Sơn, ,huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang”, làm
đề tài thực tập tốt nghiệp.
Nhằm đánh giá đúng đắn thực trạng đói nghèo, tìm ra nguyên nhân và
đề ra những biện pháp thiết thực để từng bước góp phần xoá đói, giảm nghèo
ở địa phương mình một cách hiệu quả .
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển kinh tế của
hộ nghèo nói riêng và người dân trong vùng nói chung, tìm ra nguyên nhân
dẫn đến nghèo và tái nghèo là gì. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát
triển kinh tế cho hộ nông dân trong vùng.
1.2.2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích đánh giá thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của hộ nông dân
xã. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn, xem xét đánh giá vấn đề đói
nghèo của các hộ nông dân trong nền kinh tế thị trường nông thôn hiện nay.
2
3
Nghiên cứu đề xuất những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế nhằm
giảm nghèo cho các hộ nông dân ở xã Thái Sơn huyện Hàm Yên trong những
những năm tới.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và trong nghiên cứu khoa học
Đề tài là kết quả của sự phân tích tổng hợp tìm tòi học tập giúp cho
sinh viên:
- Bổ xung các kiến thức về nghèo đói đã được học về lý thuyết trong
nhà trường.
- Bổ xung những kiến thức về xác định thực trạng và nguyên nhân
đói nghèo.
- Giúp sinh viên được tiếp cận với thực tế, nâng cao kiến thức cho
bản thân.
- Có cái nhìn tổng thể về thực trạng nghèo đói của người dân tại xã
- Trang bị thêm kinh nghiêm thực tế khi ra công tác.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Đề tài có thể là cơ sở để có những định hướng giải pháp nhằm góp
phần xóa đói giảm nghèo cho địa phương.
Đối với công tác xóa nghèo của xã. Thông qua đề tài các lãnh đạo địa
phương có thể nhìn nhận rõ hơn về nguyện vọng và khó khăn của người dân,
đặc biệt là người nghèo là gì. Từ đó công tác xóa nghèo tại địa phương đạt
hiệu quả cao nhất.
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1.1. Một số lý luận về nghèo và giảm nghèo
Thế nào là người nghèo?
Người nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được
xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của địa phương [4].
Nghèo là một cuộc sống thiếu về vật chất hay tinh thần, tiêu dùng hang
ngày, trinh độ giáo dục y tế thấp, dễ bị tổn thương và rủi ro cao, không có
quyền và tiếng nói nhiều trong xã hội. Vì thế xóa đói giảm nghèo được định
nghĩa là làm giảm đi những thiếu thốn đó trong cuộc sống [4].
Nghèo được diễn tả là sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống
tương ứng với các tiêu chuẩn nhất định. Thước đo tiêu chuẩn này và các
nguyên nhân dẫn đến nghèo thay đổi theo từng địa phương và theo thời gian.
Tổ chức y tế thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người
nghèo là người có thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mước thu nhập bình
quân trên đầu người hàng năm của quốc gia đó [4].
Tóm lại nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của địa phương.
Thế nào là hộ nghèo ?
Hộ Nghèo là tình trạng một số hộ gia đình chỉ thỏa mãn một phần tối
thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng
đồng, xét trên mọi phương diện.
Nghèo được chia thành các mức khác nhau: Nghèo tuyệt đối, Nghèo
tương đối hoặc nghèo có nhu cầu tối thiểu.
Nghèo tuyệt đối
4
5
Theo ngân hàng thế giới “Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở danh
giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải
đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê, mất
phẩm cách vượt qua sức tưởng tượng ” [9].
Ngân hàng thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương
đương của địa phương so với đô la thế giới để thỏa mãn nhu cầu sống như là
chuẩn cho nạn nghèo tuyệt đối. Bước tiếp đưa ra mức ranh giới nghèo (chuẩn
nghèo) cho từng địa phương, từng khu vực. Được xác định từ 2 đôla/
người/ngày cho châu Mỹ La Tinh và từ 3 - 4 đôla/người/ngày là cho những
vùng Đông Âu, cho đến 14 đôla/người/ngày cho những nước công nghiệp [9].
Nghèo tương đối
Nghèo tương đối có thể xem như là việc cung cấp không đầy đủ các
tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã
hội nhất định so với sự đáp ứng đầy đủ của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể coi là khách quan, tức là sự hiện hữu không
phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo
tương đối.Khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào
điều kiện khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất, và việc thiếu
sự cung cấp nhu cầu phi vật chất ngày càng được coi trọng. Việc nghèo đi về
văn hóa xã hội, thiếu sự tham gia các hoạt động trong cuộc sống cộng đồng là
do thiếu hụt về tài chính (Những người nghèo) xem như là một thách thức cho
các các cấp chính quyền về công tác xóa nghèo toàn diện cho người dân [9].
2.1.1.2. Phương pháp xác định chuẩn nghèo của một số quốc gia trên thế giới
Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá
mức độ giàu nghèo. Nước Mỹ áp dụng mức chuẩn từ những năm 60 của thế
kỷ trước, cụ thể, thu nhập 18.600 đô la/năm là ngưỡng nghèo đối với các gia
đình có bốn người (gồm bố mẹ và hai con), và thu nhập 9.573 đô la/năm là
ngưỡng nghèo đối với người độc thân trong độ tuổi lao động. Theo chuẩn này
thì năm 1993 nước Mỹ có 15,1% dân số nghèo khổ, năm 2000 tỷ lệ đó giảm
xuống còn 11,3%, nhưng tới năm 2003 thì tỷ lệ người nghèo của nước Mỹ
tăng lên 12,5% (tức là khoảng 35,9 triệu người dân Mỹ sống trong tình trạng
nghèo đói).
5
6
Ma-lai-xi-a sử dụng tiêu chuẩn 9.910 ca-lo một ngày tính trên một gia
đình có hai người lớn và ba trẻ em để làm đường nghèo. Ấn Độ áp dụng
ngưỡng nghèo với chuẩn mực tiêu thụ bình quân đầu người hàng ngày 2.400
ca-lo đối với vùng nông thôn và 2.100 ca-lo đối với vùng đô thị. Pa-ki-xtan
lấy đường nghèo là tiêu thụ 2.350 ca-lo bình quân một người lớn qui ước
hàng ngày. Phi-lip-pin lại lấy ngưỡng nghèo ở mức 2.000 ca-lo. Tương tự, Xri
Lan-ca: 2.500 ca-lo; Nê-pan: 2.124 ca-lo; Thái Lan: 2.099 ca-lo; Bang-la-đet:
2.122 ca-lo; A-dec-bai-gian: 2.200 ca-lo; một số quốc gia khác lại sử dụng
ngưỡng nghèo là tiêu thụ một ngày 2.100 ca-lo một người, như Lào, Cam-pu-
chia, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Ngay trong một quốc gia mà người ta cũng
sử dụng các tiêu chuẩn nghèo khác nhau, ví dụ ở Xri Lan-ca, các nhà nghiên
cứu không phải lúc nào cũng lấy 2.500 ca-lo làm ngưỡng nghèo.
Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng ấy, vẫn còn tình trạng thiếu
thống nhất về tiêu chuẩn nghèo đói quốc gia. Năm 2000, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội đưa ra ngưỡng nghèo mới làm căn cứ xác định mục
tiêu xoá đói giảm nghèo cho giai đoạn 2001 - 2005. Ngưỡng nghèo đó được
ấn định cho từng khu vực: nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000
đồng/người/tháng; nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng; thành
thị: 150.000 đồng. Tiêu chuẩn được Tổng cục Thống kê sử dụng trong các
cuộc điều tra mức sống dân cư là mức tiêu thụ 2.100 ca-lo/ngày/người giống
như một số quốc gia khu vực.
2.1.1.3. Phương pháp xác định chuẩn nghèo của chương trình xóa đói giảm
nghèo quốc gia
- Trong việc lựa chọn tiêu thức đánh giá WB đã lựa chọn tiêu thức phúc
lợi với những chỉ tiêu về bình quân đầu người bao gồm cả ăn uống, học hành,
mặc, thuốc men, dịch vụ y tế, nhà ở, giá trị hàng hoá lâu bền. Tuy nhiên báo
cáo về những số liệu này về thu nhập ở Việt Nam sẽ thiếu chính xác bởi phần
lớn người lao động tự hành nghề.
- WB đưa ra hai ngưỡng nghèo:
+ Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực
gọi là ngưỡng nghèo lương thực.
6
7
+ Ngưỡng nghèo thứ hai là bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi lương
thực, gọi là ngưỡng nghèo chung.
- Ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm mà WB đưa ra theo cuộc điều
tra mức sống 1998 là lượng lương thực, thực phẩm tiêu thụ phải đáp ứng nhu
cầu dinh dưỡng với năng lượng 2000-2200 kcal mỗi người mỗi ngày. Người
dưới ngưỡng đó thì là nghèo về lương thực. Dựa trên giá cả thị trường để tính
chi phí cho rổ lương thực đó. Và theo tính toán của WB chi phí để mua rổ
lương thực là 1.286.833 đồng/người/năm.
- Cách xác định ngưỡng nghèo chung
Ngưỡng nghèo
lương thực
Ngưỡng nghèo được tính toán về phần phi lương thực năm 1998 là
503038 đồng/người/năm từ đó ta còn ngưỡng nghèo chung là 1789871
đồng/người/năm.
Quan điểm của tổng cục thống kê Việt Nam
- Tiêu chuẩn nghèo theo tổng cục thống kê Việt Nam được xác định
bằng mức thu nhập tính theo thời giá vừa đủ để mua một rổ hàng hoá lương
thực thực phẩm cần thiết duy trì với nhiệt lượng 2100 kcalo/ngày/người.
Những người có mức mức thu nhập bình quân dưới ngưỡng trên được xếp
vào diện nghèo.
Quan điểm của bộ lao động thương binh và xã hội
- Theo quan điểm của bộ lao động thương binh và xã hội cho rằng
nghèo là bộ tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của
từng khu vực.
- Bộ lao động thương binh và xã hội đã đưa ra chuẩn nghèo đói dựa
những số liệu thu thập về hộ gia đình như sau:
+ Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trong một tháng
quy ra gạo được 13 kg.
+ Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập tuỳ theo vùng.
Vùng nông thôn, miền núi hải đảo là những hộ có thu nhập dưới 15 kg gạo.
7
8
Vùng nông thôn đồng bằng trung du dưới 20 kg gạo.
Vùng thành thị dưới 25 kg gạo.
2.1.1.4. Cơ sở phân định hộ nghèo, cận nghèo trong khi tiến hành đề tài
Theo chỉ thị số: 1752/CT - TTg về việc tổ chức tổng điều tra hộ nghèo
trên toàn quốc phục vụ cho việc thực hiện chính sách an sinh xã hội giai đoạn
2011 - 2015.
Mức chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn này như sau
Khu vực nông thôn những hộ có thu nhập bình quân từ: 400.000đ/
người/ tháng (từ 4.800.000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ: 500.000đ/
người/ tháng (từ 6.000.000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Mức cận nghèo áp dụng trong giai đoạn nay như sau
Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đến 520.000đ/người/tháng là hộ cân nghèo.
Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đến 650.000 đ/người/tháng là hộ cân nghèo.
2.2. Thực trạng về đói nghèo trong nước và trên thế giới
2.2.1. Tình hình về đói nghèo ở nước ta
Chính sách đổi mới của Đảng từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay và nhất là từ khi có Nghị quyết số 22/TƯ ngày 27-11- 1989 của bộ chính
trị “ Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế _ xã hội miền núi
“ và quyết định số 72/HĐBT ngày 13-3-1990 của hội đồng bộ trưởng (nay là
Chính phủ) “ về một số chủ trương biện pháp tiếp tục phát triển kinh tế xã hội
miền núi “ nhằm cụ thể hoá việc phát triển kinh tế xã hội vùng cao, miền núi
ngày càng đạt được nhiều thành tựu. Có thể nói chưa bao giờ các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước lại có tác động mạnh mẽ đến như vậy đối
với vùng cao, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vốn quen với một
cuộc sống có nhu cầu thấp về tiêu thụ và hưởng thụ.
Trong tình hình đó sự phân hoá giầu nghèo ngày càng rõ nét. Một
nhóm nhỏ đã năng động sáng tạo biết cách làm ăn để vượt lên. Một nhóm lớn
vẫn còn loay hoay chưa dám mạnh dạn thay đổi., kiếm tìm nguồn lực, phương
sách tăng thu nhập. Nhóm đa số thực sự chỉ trông vào hạt ngô hạt lúa, hứng
8
9
chịu nhiều hơn sự rủi ro, thất bát mùa màng. Không có lương thực cũng có
nghĩa là không thể chăn nuôi để tăng thu nhập, không có tiền để đầu tư vào
vật tư, giống cây trồng để sản xuất nên năng suất thấp, thu hoạch ít hơn, trong
khi số người trong gia đình ngày càng tăng lên. Phương sách đơn giản và đỡ
tốn kém nhất là đốt phá rừng làm nương rẫy để tăng thêm lương thực, thậm
chí một số đồng bào dân tộc Thái, Dao và Mông quay sang trồng cây thuốc
phiện để tạo thu nhập cho cuộc sống.
Tuy chưa có cuộc điều tra riêng rẽ chính xác cho vùng dân tộc thiểu số,
nhưng hai cuộc điều tra chung ở nông thôn cả nước đều cho thấy kết quả là
mức độ nghèo đói diễn ra trầm trọng nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc,
vùng duyên hải Trung bộ và Tây nguyên. Kết quả cuộc điều tra năm 1992 về
các dân tộc Thái, Dao, Tày, Nùng, Mông, Ơ Đu, Khơmú, Ê Đê, Gia Rai, Ba
Na, Xơ Đăng trên địa bàn miền núi Tây Bắc, Việt Bắc, miền Trung và Tây
Nguyên đã cho một kết luận đáng chú ý về tỷ lệ phân hoá giầu nghèo như sau:
Giàu, khá: 9,3%
Trung bình: 45%
Nghèo: 45,7%
Sự giầu nghèo giữa các dân tộc thiểu số là một vấn đề cần được quan
tâm để tìm ra phương sách phù hợp. Cùng một vùng, khi người giầu hoặc khá
ở dân tộc Nùng là 10% thì dân tộc Giáy chưa có sự hình thành tầng lớp này. ở
dân tộc Thái là 8 - 10 % trong khi người Mông ở Nghệ An lại là 31,25% do
còn lén lút trong trồng bán thuốc phiện.
Lấy mốc cuộc điều tra năm 1993 mức độ giầu khá, trung bình tính
chung cả nước gấp gần 2,5 lần so với các tỉnh trung du và gần 4 lần so với các
tỉnh miền núi phía bắc. Trong cuộc điều tra này đã phát hiện một vấn đề rất
đáng quan tâm là chỉ số nghèo đói ở Việt Nam được xếp ở mức độ rất thấp.
Tỷ lệ chi phí cho nhu cầu lương thực chiếm tới 70% chi phí cho một gia đình
thuộc 20% số dân nghèo nhất và là 66% chi phí cho một gia đình thuộc 20%
số dân nghèo nói chung. Mức chi phí từ 66% - 70% là qua cao so với nhu cầu
về nhiều mặt khác của một gia đình như dinh dưỡng từ những thực phẩm thịt
động thực vật, chi phí học hành, hưởng thụ văn hoá- thông tin
9
10
Trong việc phân chia mức độ nghèo đói, có thể phân chia ra các nhóm
như sau:
Nhóm thứ nhất: một số hộ đói nghèo chủ động tìm kiếm cơ hội thoát ra
khỏi cảnh nghèo đói. Họ tìm đến các nhóm dân tộc có trình độ sản xuất cao
hơn, giỏi làm kinh tế để học tập kinh nghiệm, tìm tòi các địa điểm, địa phương có
điều kiện làm việc để có thu nhập cao hơn. Họ mạnh dạn vay vốn phát triển sản
xuất, tìm kiếm để mở rộng sản xuất ngoài nông nghiệp và chăn nuôi.
Nhóm thứ hai: Nhóm này ít năng động hơn có thể khá lên thoát khỏi
đói nghèo nhờ vào các chương trình phát triển giao thông, có đường sá tốt để
giao lưu buôn bán trao đổi hàng hoá và nhờ vào được hưởng các dự án kinh
tế, văn hoá, xã hội. Nhưng nhóm này tỏ ra kèm năng động hơn nhóm thứ nhất
và cũng đễ bị đẩy xuống diện đói nghèo nếu các chương trình, dự án trên địa
bàn kết thúc. Đó là nhóm thiếu bền vững.
Nhóm thứ ba: Đây là nhóm chiếm đa số là những người không hoặc rất
ít khả năng tham gia vào các hoạt động của nền kinh tế thị trường đang ngày
càng phát triển. Họ chỉ biết trông chờ vào ruộng nương hoặc phát đồi rừng
làm nương để hy vọng có lương thực khá hơn, thậm chí ngay cả trong điều
kiện thuận lợi về giao thông, chợ, tín dụng ưu đãi mà họ vẫn không nghĩ ra
hoặc không giám mạnh dạn tìm cơ hội thay đổi cuộc sống. Tâm lý dân tộc
thiểu số quen sống dựa vào tự nhiên an phận thủ thường, dễ thoả mãn vào các
nhu cầu cũng là một yếu tố đáng quan tâm một phần số họ là những người
neo đơn, bệnh tật, già nua, độc thân, họ sẽ bị tụt hậu mãi về phía sau khi nền
kinh tế không ngừng tăng trưởng.
Mặc nhiên hộ là dân tộc thiểu số hay đa số nhưng khi cư trú ở các khu
vực miền núi có khó khăn thì họ phải chịu đựng những thiệt thòi chung. Dù
cho sự thiệt thòi có khác nhau tuỳ thuộc vào khả năng tạo thu nhập, sáng kiến
của các dân tộc. Trong cuộc điều tra năm 1992 người Tày đông đứng đầu
trong các dân tộc thiểu số sống tập trung ở Việt Bắc, có tỷ lệ đói nghèo chiếm
tới 58,1%. Ngoài sự khác biệt về vùng có chênh lệch khá lớn thì một thực tế
cho thấy trong 53 dân tộc thiểu số cũng có sự phân cách nhất định giữa các
nhóm đầu bản, giữa bảng và cuối bảng về mức độ giầu nghèo. Những dân tộc
10
11
Thái, Mường, Tày thường đứng ở những bậc thang cao hơn cả. Họ vùa có số
dân đông, nơi cư trú khá thuận lợi, trình độ dân trí cao.
Một nhóm dân tộc quá ít người thường chịu những thiệt thòi hơn. Có
thể là do lịch sử để lại những yếu kém tồn tại. Họ không đủ lực để tranh chấp
những vùng đất mầu mỡ hoặc họ đến sau những nơi tươi tốt đã thuộc về dân
tộc khác đến trước. Có thể họ bị chèn ép, họ tự ý dắt nhau đi sâu vào những
vùng hoang vắng. Những vấn đề ấy trong lịch sử của bất kỳ một quốc gia nào
cũng có thể diễn ra, không phải là hiện tượng cá biệt. Di chứng lịch sử để lại
nên họ đành phải chấp nhận một số phận ít may mắn hơn các dân tộc khác và
vì thế độ đói nghèo cũng nhiều hơn. Các dân tộ trong nhóm này gồm: Lào, La
Hủ, Phù Lá, Lự, Chứt, Cờ Lao, La Ha, Cống, Pu Péo, Ơ Đu, La Chí, Kháng,
Pà Thẻn, Lô Lô, Mảng, Bố Y, Ngái, Shi La, Rơ Măm, BRâu.
Một nhóm dân tộc thiểu số khác cũng cần đề cập đến là những người
du canh du cư một cách khá thường xuyên hoặc di dân tự do. Nhóm này gồm
cả một bộ phận dân tộc có số dân đông như Mông, Ba Na, Gia Rai và gần đây
là cả Tày, Nùng và Giao vào các vùng đất còn rừng và mầu mỡ ở Tây
Nguyên. Đây là một nhóm người mà cuộc sống cũng rất bấp bênh và còn
nhiều khó khăn chưa ổn định cuộc sống.
Một nhóm nữa là một vài dân tộc còn khá lạc hậu, tồn tại nhiều phong
tục tập quán cổ hủ và có nguy cơ giảm dân số hoặc suy thoái nòi giống, còn
giữ những nét hoang dã, chưa hoà nhập được với cuộc sống lao động sản
xuất, vẫn quen hái lượm săn bắn, dựa vào thiên nhiên. Nhà ở tạm bợ, ăn uống
thiếu vệ sinh, luôn trong tình trạng đói nghèo đã làm cho những dân tộc này
tăng dân số rất chậm. Năm 1995, dân tộc Chứt ở bản Rào Tre, huyện Hương
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có 19 hộ với 103 nhân khẩu trưởng bản là một bà tên là
Đại, người bé như một đứa trẻ 11 - 12 tuổi, nặng chừng 30 kg do suy thoái nòi
giống. Trước đó 2 năm một dự án định canh định cư đã được thực hiện ở đây.
Bản có ruộng nước, được cấp trâu bò, xây nhà cho các hộ, đào giếng nước ăn,
mở lớp học nhưng điểm quan trọng cần lưu ý là số ruộng đó lại do người
kinh phát canh. Mùa đến, tuỳ theo người kinh cho bao nhiêu gạo thì cho, bản
lúc nào cũng vắng tanh, chỉ có phụ nữ và trẻ con, đàn ông thì đi rừng hết, họ
đi hàng tháng, đêm ngủ trong hang đá hoặc leo lên cây nghĩa là họ vẫn quen
cuộc sống dựa vào thiên nhiên, không chịu làm ruộng mặc dù đã có ruộng và
trâu bò.
11
12
2.2.2. Tình hình đói nghèo trên thế giới.
Các ước tính chính xác nhất cho tình hình nghèo đói toàn cầu đến từ
Nhóm Nghiên cứu Phát triển của Ngân hàng Thế giới (WB), vừa cập nhật dữ
liệu từ năm 2005 cho những số liệu tuyệt đối về số lượng người sống trong
cảnh nghèo đói (tránh nhầm lẫn với các biện pháp tương đối thường được sử
dụng ở các nước giàu). Các ước tính mới cho thấy, trong năm 2008, năm đầu
tiên của cuộc khủng hoảng tài chính và lương thực, cả số lượng và tỷ lệ người
có mức sống dưới 1,25 USD/ngày (mức được xếp loại nghèo đói theo chuẩn
giá cả năm 2005) đã giảm trên mọi khu vực của thế giới. Đây là lần suy giảm
rộng khắp đầu tiên kể từ khi WB bắt đầu tổng hợp số liệu năm 1981.
Các ước tính cho năm 2010 vẫn chưa hoàn chỉnh, song theo WB, chúng
cho thấy tình trạng nghèo đói toàn cầu năm đó chỉ bằng 1/2 mức năm 1990.
Như vậy, thế giới đã đạt “mục tiêu phát triển thiên niên kỷ "của LHQ là giảm tình
trạng đói nghèo trên thế giới xuống còn một nửa từ năm 1990 đến 2015- sớm hơn
5 năm. Điều này cho thấy, mặc dù cuộc khủng hoảng kép, tốc độ giảm nghèo dài
hạn vẫn được duy trì ở mức trên 1% trong giai đoạn 2008-2010.
Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. Một nửa
tỷ lệ suy giảm dài hạn của đói nghèo là nhờ đóng góp của nước này với
khoảng 660 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói tính từ năm 1981. Trung
Quốc cũng là động lực chính cho sự tiến bộ phi thường của Đông Á, khu vực
mà vào đầu những năm 1980 có tỷ lệ nghèo đói cao nhất trên thế giới, với
77% dân số sống dưới 1,25 USD/ngày. Trong năm 2008, tỷ lệ này chỉ còn là
14%. Nếu không nhờ Trung Quốc, con số có thể kém ấn tượng rất nhiều.
Trong số khoảng 1,3 tỷ người sống dưới mức 1,25 USD/ngày trong năm 2008
thì có tới 1,1 tỷ người sống bên ngoài Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc có đóng góp lớn nhất cho việc cải thiện tình hình đói
nghèo dài hạn thì châu Phi là sự chuyển biến lớn nhất gần đây. Châu Phi là
lục địa duy nhất có số lượng người nghèo tăng liên tục trong các năm 1981 tới
2005. Số lượng này gần như tăng gấp đôi từ 205 triệu người vào năm 1981
lên tới 395 triệu người trong năm 2005. Nhưng trong năm 2008, con số này
đã giảm được 12 triệu người, tương đương 5%, đưa tỷ lệ người nghèo tại châu
lục này lần đầu tiên xuống dưới một nửa dân số, khoảng 47%. Số lượng người
12
13
nghèo tại khu vực Mỹ Latinh và Đông Âu và Trung Á cũng đã đảo ngược xu
thế sang chiều giảm dần kể từ năm 2000.
Tất cả đều là những tin tức đáng mừng, phản ánh thành công dài hạn
của Trung Quốc, tác động của các chương trình xã hội ở Mỹ Latinh và tăng
trưởng kinh tế gần đây ở châu Phi. Nó cũng là một kết quả của việc mở rộng
tài khóa có chu kỳ tại nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là Trung Quốc,
trong nỗ lực thích ứng với cuộc khủng hoảng năm 2007-2008. Nhiều nhà kinh tế
(bao gồm cả một số chuyên gia tại Ngân hàng Thế giới) đã hoài nghi về các
chương trình này, lo sợ chúng sẽ thúc đẩy lạm phát, trở nên không hiệu quả và hạn
chế về mặt thời gian. Trong thực tế, những chương trình này đã giúp làm cho các
nước nghèo và trung bình tăng khả năng thích ứng đối với thay đổi.
Ước tính của Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO) rằng số người
nghèo đói đã tăng từ 875 triệu trong năm 2005 lên 1 tỷ người năm 2009 đã
được chứng minh là không chính xác và dần bị rơi vào quên lãng. Chuyên gia
Derek Headey của Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực quốc tế đã chỉ ra
rằng mặc dù giá lương thực thế giới tăng vọt, người dân tại các nước nghèo và
trung bình vẫn đánh giá so với năm 2006, tình hình giá lương thực vẫn dễ thở
hơn trong năm 2008.
Hầu hết những tiến bộ trong cuộc chiến này đều được tập trung vào
những người nghèo nhất, với thu nhập thấp hơn hơn 1,25/ngày. Số liệu từ WB
cho thấy số lượng người có mức thu nhập trung bình từ 1,25-2 USD/ngày chỉ
giảm rất ít, từ 2,59 tỷ người năm 1981 xuống 2,44 tỷ trong năm 2008 (mặc dù
mức giảm này, nếu so với đỉnh 2,92 tỷ người của năm 1999, sẽ ấn tượng hơn).
Theo ông Ravallion, giám đốc Nhóm Nghiên cứu Phát triển của WB, những
chính sách giảm nghèo dường như có tác dụng mạnh nhất tới nhóm người cực
nghèo. Năm 1981, có 645 triệu người có thu nhập từ 1,25-2 USD/ngày. Đến
năm 2008 con số này đã gần như tăng gấp đôi lên 1,16 tỷ người. Ngay cả khi
nhóm nghèo trung bình này có chiều hướng tăng lên, thì đó là do một lượng
không nhỏ những người từ nhóm cực nghèo chuyển lên, phần còn lại là do gia
tăng dân số. Nhóm những người cực nghèo dường như đã thoát khỏi điều tồi
tệ nhất của suy thoái sau năm 2007. Nhưng vẫn còn rất nhiều điều phải làm
cho nhóm còn lại, nhóm người có thu nhập từ 1,25-2 USD/ngày.
13
14
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là hộ nghèo và các hộ nông dân trên
địa bàn xã Thái Sơn, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
3.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: đề tài nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi
xã Thái Sơn, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
Thời gian nghiên cứu: từ 16/02/2012 đến 19/05/2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
Thứ 1: Đánh giá điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tại xã Thái Sơn -
huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên Quang .
Thứ 2: Điều kiên tự nhiên: Vị trí địa lý, điều kiện địa hình, điều kiện
khí hậu địa hình thủy văn, tài nguyên thiên nhiên.
Thứ 3: Điều kiện kinh tế - xã hội: Tình hình dân số và lao động, cơ sở
hạ tầng phục vụ đời sống và sản xuất, hoạt động tăng trưởng kinh tế kinh tế,
điều kiện xã hội.
Thứ 4: Đánh giá thực trạng, nguyên nhân và những yếu tố ảnh hưởng
chính đến nghèo tại xã Thái Sơn.
Thứ 5: Phân tích các nguyên nhân nghèo của nhóm hộ điều tra.
Thứ 6: Một số giải pháp phát triển kinh tế cho hộ nghèo tại địa phương
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.1.1. Thông tin thứ cấp
Những tài liệu về kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo của các tỉnh miền
núi phía bắc Việt Nam và một Quốc gia trên thế giới
Những tài liệu đã có về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và nhân văn
ở địa phương.
Những báo cáo tổng kết từng quỹ của xã.
Những kết quả nghiên cứu, những kinh nghiệm liên quan đến công tác
xóa đói, giảm nghèo ở địa phương.
14
15
3.4.1.2. Thông tin sơ cấp
Do có sự khác biệt về ngôn ngữ dân tộc trong các khu vực nghiên cứu
nên phải kết hợp phỏng vấn, thảo luận nhóm. Đồng thời quan sát trên đối
tượng cụ thể.
Đề tài sử dụng một số công cụ của phương pháp PRA, RRA để thu thập
thông tin và phỏng vấn cán bộ, người dân có địa vị xã hội, mức sống, thành
phần dân tộc khác nhau tại xã Thái Sơn.
Những chủ đề phỏng vấn tập trung vào:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và con người tại xã Thái Sơn-
huyện Hàm Yên-tỉnh Tuyên Quang.
- Thực trạng nghèo tại xã Thái Sơn.
- Những nguyên nhân dẫn đến nghèo của hộ nông dân trong xã.
- Đánh giá về những kết quả đạt được và những tồn tại của các chính
sách giảm nghèo đã và đang thực hiên tại xã.
- Giải pháp nhằm giảm nghèo ở địa phương.
Công cụ tập trung chủ yếu vào bảng câu hỏi phỏng vấn trong đó có
những câu hỏi định hướng và bán định hướng.
Tiêu chuẩn chọn mẫu điều tra: Chọn mẫu điều tra là vấn đề hết sức
quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả nghiên cứu. Phải đảm bảo tính
đại diện cho toàn bộ địa bàn nghiên cứu. Với phạm vi không gian đề tài thực
hiện trên địa bàn là xã Thái Sơn. Với mục tiêu chính là nghiên cứu và phân
tích các nguyên nhân nghèo.
Tiến trình thực hiện nghiên cứu:
- Để bắt đầu đợt khảo sát trước tiên phải tìm hiểu chung địa bàn nghiên
cứu, gặp gỡ, làm quen trao đổi nội dung và cách làm với cán bộ địa phương.
Qua đó lắm bắt được quan điểm của lãnh đạo địa phương để có sự giúp đỡ
trong công việc tổ chức khảo sát của đề tài.
15
16
- Điều tra và hoàn thiện bộ câu hỏi phỏng vấn.
- Công việc khảo sát được tiến hành các buổi trao đổi ý kiến với cán bộ
lãnh đạo địa phương và cộng đồng người dân, tại hộ gia đình, trên đồng ruộng
- Thời gian phỏng vấn được bố trí vào lúc thuận tiện cho công việc của
người dân: Buổi trưa, buổi tối
3.4.2. Phương pháp sử lý số liệu
Quá trình xử lý và phân tích thông tin được thực hiên bằng máy tính sử
dụng: (Microsff offce access 2003, Microsff offce exel 2003, Microsff offce
word 2003) theo phương pháp thống kê, phân tích so sánh các mẫu thu thập.
16
17
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới công tác xóa đói
giảm nghèo của xã Thái Sơn,huyện Hàm Yên
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Xã Thái Sơn là xã miền núi nằm ở phía Nam huyện Hàm Yên, cách
trung tâm thị trấn 14 km. Xã có 20 thôn, dân số năm 2011 có 1789 hộ và 7181
nhân khẩu, tổng diện tích đất tự nhiên là 4065,83 ha.
- Về địa giới hành chính:
- Phía Đông giáp xã Bình Xa phân cách bởi con sông Lô.
- Phía Tây giáp xã Thành Long.
- Phía Nam giáp xã Thái Hoà.
- Phía Bắc giáp thị trấn Tân Yên.
Xã có trục đường quốc lộ 2 đi qua từ Nam đến Bắc dài 6 km, có đường
tỉnh lộ km 31 đi Chiêm Hoá dài 6 km và có con sông Lô chảy qua địa bàn xã
từ Bắc xuống Nam dài 12 km.
4.1.1.2. Điều kiện địa hình
Do vị trí địa lý của xã nằm ở miền núi, đồi núi đa dạng, đồi núi chiếm
khoảng 80% diện tích có ưu thế phát triển ngành trồng cây lâm nghiệp, công
nghiệp chế biến nông lâm sản, cây nguyên liệu giấy, xen kẽ các thung lũng có
thể xây dựng các hồ đập thuỷ lợi và đất đai màu mỡ có thể trồng cây lương
thực, thực phẩm.
Mang đặc điểm của địa hình miền núi nên diện tích đất đai của xã được
chia thành hai loại đất chính như sau:
Đất bằng chiếm khoảng 20% diện tích đất tự nhiên được phân bố rải rác
trên toàn xã.
Đất đồ núi chiếm khoảng 80% diện tích tự nhiên.
Thuận lợi
Do sự phân bố của địa hình và đất đai xã Thái Sơn nên rất thuận lợi cho
phát triển các ngành nông lâm nghiệp, ở các vùng đất bằng có thể trồng các
cây trồng nông nghiệp ngắn ngày (lúa, ngô, khoai, lạc, đậu tương), còn
17
18
những vùng đồi núi diện tích lớn tập phát triển các cây trồng lâm nghiệp và
cây trồng lâm nghiệp chủ yếu là cây keo, bạch đàn, mỡ để góp phân tăng thu nhập
cho người dân và giúp công tác xoá đói giảm nghèo đạt được hiệu quả tốt.
Khó khăn
Phân bố của địa hình và đất đai xã Thái Sơn, diện tích đất bằng, đất
nông nghiệp ngắn ngày được phân bố rải rác trên toàn nên diện tích rất manh
mún nhỏ lẻ, rất khó đưa các khoa kỹ thuật tiên tiến vào để áp dụng trong sản
xuất, không thuận tiện trong chăm sóc và tưới tiêu. Vùng đồi núi các dải đồi
thường hay bị phân cách bởi các núi do vậy đất rừng để trồng cây lâm nghiệp
không thể tập trung và chỉ phát triển trên những khu đồi có đất đai phù hợp
với quy mô diện tích nhỏ hẹp.
4.1.1.3. Điều kiện khí hậu, nguồn nước và thủy văn
Xã Thái Sơn mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm, hàng năm chia
thành 4 mùa rõ rệt. Lượng mưa tập trung nhiều nhất vào tháng 7, tháng 8.
Mùa mưa thường hay xảy ra lũ lớn, lũ và lốc xoáy cục bộ, lượng mưa cao. Xã
có môt con sông (sông Lô) chảy qua dọc theo phía Đông xã dài trên 12 km có
nhiều thuận lợi cho giao thông đường thuỷ, nước tưới, soi bãi ven sông màu
mỡ nhưng cũng hay bị lũ lụt gây thiệt hại hoa màu và ách tắc giao thông
đường bộ, ngoài ra còn có hai con suối chảy từ phía tây nhập lại với nhau tại
km 31 và chảy xuôi theo hướng nam về xã Thái Hoà, đây cũng là con suối
thường gây lũ lụt cục bộ vào mùa mưa làm ách tắc giao thông và xô sỏi, cát,
đá vào đồng ruộng.
Về thuận lợi
Với khí hậu mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm, nên các loại cây
trồng và sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng và phong phú, lượng mưa lại dải
hầu hết ở các tháng trong năm. Nước tưới tiêu cho các đồng ruộng và hoa
màu rất thuận lợi. Ao hồ và các công trình thuỷ lợi trên địa bàn xã luôn có
lượng nước tích trữ đảm bảo cho người dân sản xuất nông lâm nghiệp.
Về khó khăn
Với khí hậu mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm, trong sản xuất
nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, các loại sâu bệnh hại thường phát triển
mạnh khi có điều kiện khí hậu thuận lợi làm thiệt hại đến năng suất và phẩm
18
19
chất của một số mặt hàng nông sản. Với lượng mưa tập nhiều vào tháng 7,
tháng 8 hàng năm làm cho mực nước của sông Lô, các suối và ao hồ dâng cao
gây lũ lụt và tàn phá đồng ruộng, hoa màu của nông dân, môt số hộ nuôi trồng
thủy sản còn mất trắng mỗi khi có lũ cục bộ, lũ cục bộ và mưa lớn còn làm xô
sỏi, cát đá vào đồng ruộng. Gây ách tắc giao thông đường bộ.
4.1.1.4. Tài nguyên đất
Xã Thái Sơn là một xã miền núi có địa bàn khá rộng lớn có tổng diện
tích đất tự nhiên là 4065,83 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 3464,99
ha (đất trồng cây hàng năm 1244,68 ha, đất trồng cây lâu năm 2220,31ha), đất
lâm nghiệp là 2155,97 ha và đất nuôi trồng thủy sản 64,34 ha. Diện tích đất
phi nông lâm nghiệp và đất chưa sử dụng là 600,24 ha.
Thuận lợi
Đất nông nghiệp của xã chủ yếu tập trung ở các vùng đất ven sông Lô
và dưới các thung lũng nên đất rất màu mỡ. Đất ở vùng bên bờ sông Lô do
được phù xa bồi đắp nên cây trồng nông nghiệp ngắn ngày phát triển và sinh
trưởng tốt, năng suất cao. Đất ở vùng thung lũng xen đồi núi thích hợp trồng
các loại cây trồng lâu năm (cam, quýt, chanh, vải, nhãn, mận, mơ). Với tiềm
năng từ tài nguyên đất của xã, nếu có sự chỉ đạo đúng đắn của chính quyền
địa phương, phát huy tối đa từ nguồn tài nguyên này thì đói nghèo sẽ dần
được đẩy lùi.
Khó khăn
Do sự gia tăng dân số hàng năm nên diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp lại, người dân họ sử dụng đất nông nghiệp đó để làm nhà ở và
một số doanh nghiệp có xu hướng xây dựng nhà xưởng trên diện tích đất nông
nghiệp (nhà máy gạch tilen). Cũng vì người dân trưa hiểu hết về tác dụng của
phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật nên đã làm cho diện tích đất nông
nghiệp ngày càng bị nghèo chất dinh dưỡng, thêm vào đó nạn phá rừng, đốt
rừng làm nương dẫy thường xuyên xảy ra làm cho đất bị xói mòn, rửa trôi.
4.1.1.5. Tài nguyên rừng
Đất rừng lâm nghiệp của xã là 2155,94 ha chiếm 53% tổng diện tích đất
trong toàn xã. Trong đó có 115 ha là diện tích trồng chè, còn lại là đất rừng
sản xuất. Rừng trồng chủ yếu bằng các loại cây như: keo, mỡ, bạch đàn Sản
19
20
lượng thu gỗ là 17.000 m
3
, chất lượng rừng phòng hộ ở mức trung bình, do
trong khu vực địa hình đồi núi cao, độ dốc lớn, đất bạc màu. Khai thác sản phẩm
gỗ trên địa bàn xã chủ yếu là từng rừng sản xuất của tổ chức và hộ gia đình.
Thuận lợi
Đất rừng chiếm 53% diện tích nên rất phù hợp trong phát triển kinh tế
từ rừng, mà toàn bộ diện tích đất rừng của xã là diện tích đất rừng sản xuất.
Trong khi đó người dân nơi đây và chính quyền lại hiểu được lợi ích của
mang lại nên diện tích rừng của xã luôn được phủ xanh.
Khó khăn
Diện tích rừng trên địa bàn xã thường là những đồi nhỏ không tập trung
được thành một vùng chuyên canh chủ yếu là quy mô hộ gia đình. Sản xuất
kinh doanh về sản phẩm từ rừng chưa phát triển mới chú ý tới trồng rừng;
khai thác, tiêu thụ lâm sản từ rừng sản xuất của các hộ gia đình và tổ chức,
chủ yếu là tiêu thụ sản phẩm thô, chưa coi trọng khâu chế biến sản xuất để
giải quyết việc làm, tăng giá trị của sản phẩm, thu nhập cho người trồng rừng.
4.1.1.6. Tài nguyên khoáng sản
Xã có nguồn khoáng sản đá vôi khá dồi dào tập trung tại khu vực trung
tâm xã, trữ lượng lớn có thể khai thác phục vụ nhiều mục đích khác nhau hiện
trưa có số liệu khảo sát trữ lượng. Có mỏ kao lanh trữ lượng lớn trải dài đến
xã Thành Long. Có nguồn quặng sắt rải rác phát lộ trên hầu khắp xã nhưng
trưa được đánh giá trữ lượng, quy mô, có nguồn sỏi cát xây dựng trên dòng
sông Lô trải dài 12 km dồi dào phục vụ cho xây dựng phát triển hạ tầng và
giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động.
Về thuận lợi là vùng đất có nhiều đá vôi, cát, sỏi phục vụ cho xây dựng
các công trình và cơ sở hạ tầng của xã, phục vụ cho người dân xây các công
trình nhà ở và các công trình phụ trong gia đình, sản xuất vật liệu xây dựng.
Một số nguồn tài nguyên khoáng sản (mỏ sắt, kao Lanh) có trữ lượng trải dài
khắp toàn xã rất thuận tiện phục vụ cho phát triển công nghiệp khai khoáng,
phát triển cơ khí phục vụ cho phát triển nông thôn.
Về khó khăn tuy có nguồn khoáng sản khá dồi dào nhưng lại chưa xác
định rõ về mặt trữ lượng. Do vậy thường xuyên xảy ra tình trạng khai thác
khoáng sản trái phép một cách bừa bãi.
20
21
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Tình hình dân số và lao động
Theo số liệu thống kê của UBND xã Thái Sơn năm 2011: Xã gồm 20
thôn bản, có 1789 hộ với 7181 nhân khẩu. Trong đó số người trong độ tuổi
lao động là 4326 người chiến 60,24%, mật dân số khá thưa thướt trung bình
có 177 người/km.
Bảng 4.1: Thống kê số hộ và sô khẩu của xã Thái Sơn
STT Tên Thôn, bản
Số hộ Số khẩu
Tổng số
(hộ)
Tỷ lệ
(%)
Tổng số
(Khẩu)
Tỷ lệ (%)
1 1 Thái Thủy 78 4,36 323 4,49
2 2 Thái Thủy 61 3,41 256 3,56
3 3 Thái Thủy 56 3,13 224 3,12
4 4 Thái Thủy 57 3,19 198 2,76
5 5 Thái Thủy 69 3,86 280 3,89
6 6 Thái Thủy 62 3,47 255 3,55
7 Khởn 117 6,54 485 6,75
8 1 Minh Thái 84 4,70 344 4,79
9 2 Minh Thái 67 3,75 295 4,11
10 34 56 3,13 187 2,59
11 31 168 9,39 610 8,49
12 1 Thái Bình 67 3,74 252 3,51
13 2 Thái Bình 121 6,76 571 7,95
14 3 Thái Bình 138 7,72 579 8,05
15 4 Thái Bình 137 7,66 476 6.63
16 Quang Trung 76 4,25 303 4,21
17 1 An Thạch 140 7,83 620 8,63
18 2 An Thạch 70 3,91 300 4,18
19 An Lâm 79 4,42 287 3,09
20 Thái Ninh 86 4,81 336 4,68
Tổng cộng: 1789 100 71181 100
Nguồn UBND xã Thái Sơn năm 2011
21
22
Từ bảng số liệu thống kê số hộ và số nhân khẩu, với khảo sát và điều
tra thực tế tại địa phương của chúng tôi. Cho thấy sự phân bố dân cư của địa
phương không đồng đều, dân tập đông ở các khu vực trung tâm xã và các
vùng đất màu mỡ ven sông Lô và dưới thung lũng thuận tiện trong sản xuất
nông lâm nghiệp. Sự phân bố này phụ thuộc vào địa hình và độ cao của
xã.Với 6 đơn vị thôn có số nhân khẩu đông nhất: Khởn, thôn 31, 2 Thái Bình,
3 Thái Bình, 4 Thái Bình, 1 An Thạch ta thấy rằng ở những thôn bản có điều
tự nhiên thuận lợi và giao thông đi lại rễ ràng, kinh tế phát triển thì dân cư
tập trung sinh sống đông hơn các vùng khác.
Trong đó có thôn 31 có số hộ đông nhất trên toàn xã với 168 hộ chiếm
9,39% và số nhân khẩu là 610 chiếm 8,49% đứng thứ hai toàn xã.
Số nhân khẩu đông nhất trên toàn xã là 1 An Thạch với nhân khẩu là 620
chiếm 8,63% và số hộ là số hộ là 140 hộ chiếm 7,83%, đứng thứ hai toàn xã.
Ở các thôn Thái Thủy dân cư sinh sống trên địa bàn còn thưa thớt và
cách trung tâm xã khá xa và người dân nơi đây đi lại hết sức khó khăn. Không
có đường giao thông và đường bê tông mà chủ yếu là đường đất.
Qua bảng 4.1 và phân tích trên ta thấy dân cư sinh sống trên địa bàn xã
Thái Sơn tập trung ở những vùng có giao thông đi lại thuận tiện , đất đai màu
mỡ, có nhiều tài nguyên. Còn nhữn vùng không thuận tiện về giao thông và
đất đai nghèo chất dinh dưỡng thì dân cư dân số sinh sống với mật độ thấp.
22
23
Bảng 4.2: Thống kê lao động tại xã Thái Sơn
TT Tên thôn, bản
Số LĐ
trong
độ
tuổi
Tổng số lao động trong độ tuổi chia ra theo nhóm tuổi
Từ 18 đến 30 Từ 31 đến 45
Từ 46 đến
hết tuổi LĐ
Tổng
số
Chia ra
Tổng
số
Chia ra
Tổng
số
Chia ra
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
1 1 Thái Thủy 234 68 35 33 106 57 49 60 28 32
2 2 Thái Thủy 167 53 27 26 62 34 28 62 32 30
3 3 Thái Thủy 118 38 17 21 44 28 26 36 17 19
4 4 Thái Thủy 137 56 29 27 45 24 21 36 16 20
5 5 Thái Thủy 176 52 28 24 86 42 44 38 19 17
6 6 Thái Thủy 150 55 27 28 66 34 32 29 13 16
7 Khởn 275 95 47 48 128 67 61 52 21 29
8 1 Minh Thái 209 67 34 33 76 39 37 66 34 32
9 2 Minh Thái 191 78 42 37 67 35 32 46 22 24
10 34 139 42 24 18 62 34 28 35 14 21
11 31 354 134 74 60 150 76 74 70 36 34
12 1 Thái Bình 151 53 27 26 62 36 26 36 16 20
13 2 Thái Bình 380 135 70 65 155 80 75 90 42 48
14 3 Thái Bình 354 124 64 60 146 76 70 84 45 39
15 4 Thái Bình 243 98 50 48 86 44 42 59 29 31
16 Quang Trung 155 56 30 26 62 37 35 37 17 20
17 1 An Thạch 372 112 58 56 158 83 75 102 48 54
18 2 An Thạch 154 54 28 26 62 34 28 38 18 20
19 An Lâm 168 72 35 37 57 28 29 49 23 26
20 Thái Ninh 189 65 32 33 78 39 37 46 22 24
Tổng cộng: 4326 1507 806 701 1758 927 831 1061 505 556
Nguồn UBND xã Thái Sơn năm 2011
23
24
Với số người trong độ tuổi lao động là 4326 người chiếm 60,24% dân
số. Trong đó lao động nam có 2238 người chiếm 51,70%, nữ có 2208 người
chiếm 48,30%. Lao động nông lâm nghiệp có 3389 người chiếm 78,3%, tổng
số lao động toàn xã; lao động phi nông nghiệp có 937 người chiếm 21,7%.
Lao động qua đào tạo có 774 người chiếm 17,89% tổng số lao động, trong đó
lao động nông lâm nghiệp 336 người, lao động phi nông nghiệp 438 người.
Với lực lượng lao động dồi dào, tỷ lệ nam-nữ đồng đều đây có thể là thế
mạnh về nguồn lao động của địa phương.
Bảng 4.3:Thống kê lao động nông nghiệp và phi nông
nghiệp tại xã Thái Sơn
TT Tên xóm Số khẩu
Nông nghiệp Phi nông nghiệp
Số khẩu Tỷ lệ % Số khẩu Tỷ lệ %
1 2 3 4 5=4/3 6 7=6/3
1 1 Thái Thủy 234 222 66,47 12 33,53
2 2 Thái Thủy 167 158 94,61 9 5,39
3 3Thái Thủy 118 112 94,92 6 5,08
4 4Thái Thủy 137 123 89,78 14 10,22
5 5 Thái Thủy 176 161 91,48 15 8,52
6 6Thái Thủy 160 154 96,25 6 3,75
7 Khởn 275 273 99,27 2 0,73
8 1 Minh Thái 209 179 85,65 30 14,35
9 2 Minh Thái 191 168 87,96 23 12,04
10 34 139 108 77,70 31 22,30
11 31 354 146 41,25 208 58,75
12 1 Thái Bình 151 113 78,83 38 21,17
13 2 Thái Bình 380 287 75,53 93 24,47
14 3 Thái Bình 354 243 68,64 11 31,36
15 4 Thái Bình 243 87 35,80 156 64,20
16 Quang Trung 155 148 95,48 7 4,52
17 1 An Thạch 372 310 83,33 62 16,67
18 2 An Thạch 154 83 53,90 71 46,10
19 An Lâm 168 30 17,86 138 82,14
20 Thái Ninh 189 184 97,35 5 2,65
Tổng cộng 4326 3389 78,34 937 21,66
24
25
Nguồn: số liệu thống kê của xã năm 2011
Phần lớn các hộ nông dân sinh sống trên địa bàn xã Thái Sơn sản xuất
nông lâm nghiệp là chủ yếu, sản xuất nông lâm nghiệp của xã có 3389 khẩu
tham gia chiếm 78,34% tổng số lao động toàn xã. Trong đó có Thôn Khởn
sản xuất nông lâm nghiệp có 273/275 khẩu chiếm 99,27% đứng đầu trong
toàn xã có số lao động sản xuất nông lâm nghiệp, thôn An Lâm là có số lao
động tham gia sản xuất nông lâm nghiệp ít nhất với 30/168 khẩu chiếm
17,86%, An Lâm cũng lại là thôn có số lao động phi nông nghiệp đông nhất
138 lao động chiếm 82,14%. Các hộ ở đây sản xuất gạch để phục vụ xây các
công trình và nhà ở nên thu hút được rất nhiều lao động trong vùng và các
vùng lân cận.
Trong các thôn có đường giao thông đi lại khó khăn thì khó thu hút
được số lao động tham gia trong hoạt động phi nông nghiệp như 6 thôn Thái
Thủy, Khởn, Thái Ninh, Quang Trung. Thôn Khởn có số lao động tham gia
hoạt động phi nông nghiệp ít nhất xã chỉ có 2/275 chiếm 0,73%.
Qua đó xã Thái Sơn là xã mang tính thuần nông, số lao động tham gia
vào các ngành thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp với tỷ lệ khá lớn. Còn số lao
động tham gia vào các ngành phi nông nghiệp thấp, chỉ tập ở các nơi có giao
thông đi lại rễ ràng.
4.1.2.2. Cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống và sản xuất
Xã có hai tuyến quốc lộ và tỉnh lộ đi qua hệ thống đường giao thông
liên thôn, liên xã và giao thông nội đồng hiện nay đã xuống cấp và trưa được
đầu tư nên ảnh hưởng đến nhu cầu đi lại cũng như giao lưu thương mại của
nhân dân trong xã. Đường quốc lộ 2 chạy dọc qua địa bàn xã với chiều dài 6
km hiện nay là đường trải nhựa, thuận tiện cho việc thông thương hàng hóa
cũng như việc phát kinh tế của xã. Đường tỉnh lộ 190 chạy qua xã với chiều
dài 5 km hiện nay là đường trải nhựa, thuận tiện cho việc thông thương hàng
hóa cũng như việc phát triển kinh tế của nhân dân trong xã. Đường liên thôn
có 6 tuyến dài 22,95 km, hiện trạng có hai tuyến dài 2,5 km, hiện trạng mặt
đường 2-4 m, nền đường rộng 3-6 m đã nhựa hóa được một tuyến dài 1,2 km,
giải cấp phối 2,1 km còn lại là 19,65 km đường đất. Trục đường thôn tổng
chiều dài 45,05 km, hiện trạng mặt đường 2-4 m nền đường rộng 3-5 m đã bê
25