Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận cao học tư tưởng hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.07 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Lý do chọn đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết cấu của tiểu luận

Nội Dung
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
2. Giá trị lí luận và giá trị thực tiễn


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải
phóng giai cấp, giải phóng con ngườichiếm một vị trí quan trọng trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây cũng là vấn đề cơ bản của đường lối cách
mạng Việt NamTư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân
tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo của
người trong việc vận dụng những nguyên lý phổ biến của Chủ nghĩa Mac
Leenin vào hồn cảnh Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách


mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người được coi
là bước phát triển mới học thuyết Mac Leenin về cách mạng thuộc địa ở thời
điểm các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh cho độc lập, tự do. Vì vậy
chúng em xem đây là nội dung rất đáng quan tâm, cần thiết làm và hiểu rõ tư
tưởng này của Hồ Chủ tịch
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a, Mục đích
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, thực chất là vấn đề đấu tranh
để giải phóng các dân tộc thuộc địa. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vơ
sản, đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng XHCN.
Phân tích làm rõ những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này.
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc nhằm trang
bị cho sinh viên những kiến thức, lý luận cơ bản về cách mạng giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đồng thời qua đó giúp sinh
viên biết hệ thống lại vấn đề một cách logic, thu nhặt, xử lý thông tin, vận
dụng các kiến thức cơ bản phục vụ việc tự học, tự làm việc của bản thân, giúp
sinh viên trình bày tốt cho các môn học và định hướng việc sắp xếp làm đò án

1


tốt nghiệp của sinh viên, quan trong hơn làviệc liên hệ được với thực tiễn của
đất nước, của thời đại từ đó liên hệ đến bản thân.
b, Nhiệm vụ nghiên cứu
Sinh viên phải nêu rõ tiểu luận tiến hành để giải quyết tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc từ đó giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. u cầu cao hơn đó là trình bày rõ ràng mạch lạc để
nguwoif khác có thể nhận thức được đây là luận điểm sáng tạo, là sự phát
triển mà Hồ Chí Minh được minh chứng bằng cuộc cách mạng giải phóng dân

tộc ở Việt Nam từ đó đóng góp thêm vào kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mac
Lênin.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a, Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, tiến đến giải
phóng giai cấp, giải phóng con người hệ tư tưởng quan trọng, cơ bản cũng là
chủ đạo trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến: độc lập cho dân
tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
b, Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu trong hơn một nửa thời gian học mơn Tư
tưởng Hồ Chí Minh, tại trường ĐH Cơng Nghiệp TPHCM. Nội dung nghiên
cứu chủ yếu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc để hiểu rõ hơn luận điểm này trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, và luận
điểm này đóng góp như thế nào đối với kho tàng lý luận Chủ nghĩa Mac
Lênin.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a, Cơ sở lý luận
Quan điểm của Mác-Ăngghen-Lênin về vấn đề dân tộc. Khái niệm:
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế,
lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hố giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và
bộ tộc. Quan điểm của chủ nghĩa Mác:Dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Mác2


Ăngghen đã đặt nền tảng lý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách
khoa học. Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý
luận toàn diện và sâu sắc. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh – là vấn
đề dân tộc thuộc địa“Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh
giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước
ngồi, giành độc lập dân tộc, xố bỏ áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền
dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập”. Độc lập, tự do là

quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.“Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”. Trích "Tun Ngơn Độc Lập" Bác Hồ đọc
tại Quảng trường Ba đình ngày 02/09/1945.
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Độc
lập hoàn toàn và thật sự trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao. Trong nền độc lập, mọi người đều được ấm no, tự do, hạnh phúc. Độc
lập thật sự phải gắn với hồ bình thật sự. “Nhân dân chúng tơi thành thật
mong muốn hồ bình...kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất
nước”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh
giành độc lập. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là một động lực to
lớn của đất nước. Chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và sự thức tỉnh ý
thức dân tộc. “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng
sản...”, đó là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân
tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế.Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Hồ Chí Minh xác định con
đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Do đó, “giành
được độc lập rồi phải tiến lên CNXH...”. “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải
gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội”. Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả
3


các dân tộc khác. “Phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như
là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”.
b, Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được dựa trên phương pháp duy vật biện chứng,phương pháp
trừu tượng hóa khoa học, phương pháp thống kê, logic, lịch sử. Cơ sơ phương

pháp luận:.Bảo đảm sự thống nhất, nguyên tắc tính đảng, và tính khoa
học.Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền thực tiễn.Quan điểm
lịch sử cụ thể.Quan điểm toàn diện và hệ thống.Quan điểm kế thừa và phát
triển
Kết hợp nghiên cứu tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hổ
Chí Minh. Các phương pháp cụ thể:.Vận dụng các phương pháp liên ngành
khoa học xã hội và nhân văn, lý luận chính trị để nghiên cứu tồn bộ hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh như mỗi tác phẩm riêng của Người..Các phương pháp
cụ thể thường áp dụng như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu... việc vận
dụng các phương pháp và kết hợp các phương pháp cụ thể phải căn cứ vào nội
dung
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6. Kết cấu của tiểu luận

4


Nội Dung
Chương 1
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phong dân tộc
1.1 .1 Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng

con người trong chủ nghĩa Mác-Lênin Chủ ng hĩa Mác-Lênin có sứ mệnh
lịch sử và vạch rõ con đường và phương pháp đấu tranh để giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Những vấn đề trên đây đã được các nhà kinh điển của giai cấp vô sản
chỉ ra từ rất sớm. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm 1848, Mác,
Ăngghen khơng chỉ luận giải vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc
mà vấn đề giải phóng con người cũng được đề cập sâu sắc: “sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi

người”.Tuy nhiên do cả hai ông đều sống ở Tây Âu nơi mà chủ nghĩa tư bản
phát triển tới trình đọ cao nên trước hết các ơng nhấn mạnh vấn đề giải phóng
giai cấp, Mác và Ăngghen đã viết: “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột
người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ bị xóa bỏ”.Mác và
Ăngghen cho rằng giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để
giải phóng dân tộc. Sau Mác và Ăngghen, Lênin đã trực tiếp giải quyết vấn đề
giải phóng dân tộc.Trong thời kì chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột
cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc. Một trong những đặc điểm cơ bản là xâm
chiếm thuộc địa, một số nước đế quốc biến 70% dân số thế giới thành thuộc
địa, Lênin đã kế tục và phát triển sự nghiệp của Mác, Ăngghen khi thành lập
Quốc tế I và Quốc tế II đại diện cho giai cấp cơng nhân, cho phù hợp với tình
hình mới, Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập đại diện cho giai
cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Tuy nhiên, trong cơng cuộc giải
phóng Lênin vẫn cho rằng trước hết phải giải phóng giai cấp cơng nhân.

5


1.1.2 Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
vào điều kiện các nước thuộc địa.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đúc kết được nhiều điều
quan trọng, trong đó đáng chú ý: Thứ nhất, khi phân chia các thứ cách mạng,
nếu lấy tư tưởng làm tiêu chí thì có ba loại: tư bản cách mạng, dân tộc cách
mạng, giai cấp cách mạng; nếu lấy mục tiêu của từng dân tộc và nhân loại thì
có hai loại: dân tộc cách mạng và thế giới cách mạng. Thứ hai, lý luận do
phân tích kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta từ trước đến
nay kết luận thành. Vì vậy, “Học chủ nghĩa Mác-Lênin không phải nhắc như
con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa MácLênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin ở
Việt Nam là nói đến chủ trương chính sách của Đảng... Chủ nghĩa Mác-Lênin

khơng phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xơviết”. Nếu thấy
người ta làm thế nào mình cũng bắt chước một mực làm theo thế ấy, thì đó
vừa là lý luận sng, vơ ích, vừa chưa biết khéo lợi dụng kinh nghiệm: “nghe
người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà
khơng xét hồn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Mác đã xây
dựng học thuyết của mình trên cơ sở châu Âu mà châu Âu thì chưa phải là
tồn nhân loại. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng khơng thể cấm
bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác, bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có được”, cần: “ Xem xét lại chủ
nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương
Đơng, trong đó có Việt Nam, suốt hơn 50 năm đầu thế kỷ XX là vấn đề dân
tộc, thuộc địa. Do đó, nếu ở phương Tây, các nhà kinh điển macsxit cho rằng
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người tuy
có liên quan mật thiết với nhau nhưng ưu tiên giải phóng giai cấp cơng nhân
thì Hồ Chí Minh đối với phương Đơng, trong đó có Việt Nam giải phóng dân
6


tộc là nhiêm vụ trên hết, trước hết. Nói cách khác, Hồ Chí Minh khẳng định
chúng ta phải làm dân tộc cách mạng là vì mâu thuẫn dân tộc giữa một bên là
toàn thể dân tộc Việt Nam sống thân phận nô lệ với một bên là bọn cướp nước
là mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa. Giải
quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc lập, tự do là nhiệm vụ hàng đầu, khơng
giành được độc lập dân tộc thì khơng có gì hết. Hồ Chí Minh cho rằng trong
điều kiện các nước thuộc địa thì giải phóng dân tộc là cơ sở để giải phóng giai
cấp, gải phóng con người. Trong quan hệ dân tộc và giai cấp thì địi hỏi phải
giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, thì trước hết là lợi
ích giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề lướn về lý luận và thực tiễn trước
kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã giải quyết

thành công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp nói riêng. Đay là một trong những nguyên nhân dẫn đến
thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua.
1.2 Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc
1.2.1 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vơ sản
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta
đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác
nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Tất cả các phong trào yêu
nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh
dũng, với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng dậy", nhưng rốt cuộc
đều bị thực dân Pháp dìm trong hiển máu. Đất nước lâm vào "tình hình đen
tối tưởng như khơng có đường ra". Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối
cứu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm
một con đường cứu nước mới. Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã
bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được
chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy con đường
7


của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" : con
đường của Phan Châu Trinh cững chẳng khác gì "xin giặc rủ lịng thương" ;
con đường cùa Hồn Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang
nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ơng cha,
nhưng Hồ Chí Minh khơng tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra
đi tìm một con đường mới, tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân
dân đói khổ lầm than, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang trong mình khát

vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bơn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái
Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng
đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc
theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: “Trong
thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vơ sản, là cuộc
cách mạng tồn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó khơng chỉ giải
phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dưong, đến với nhân loại cần
lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn Ái
Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư
bản phát triển : Anh. Pháp, Mỹ
Người đọc Tun ngơn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc
cách mạng tư sản Mỹ ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách
mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy : "Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công
8


nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa" Bởi lẽ đó, Người khơng đi theo con
đường cách mạng tư sản.
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga khơng chỉ là một
cuộc cách mạng vơ sản, mà cịn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Nó nêu tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và "mở
ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân
tộc"

Người "hồn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba" bởi vì V.I.Lênin và
Quốc tế thứ ba đã "bênh vực cho các dân tộc bị áp bức". Người thấy trong lý
luận của V.I.Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc : con đường
cách mạng vô sản.
Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết : "Chỉ có giải phóng
giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vơ
sản. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản"... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ".
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vơ sản vào Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều,
nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa
đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng vơ sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông
đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí
Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
9


sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó,
Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng
CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về
CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn tích
phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu

và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài,
gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải
phóng con người, làm cho con người phát triển tồn diện, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là
độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền
đề đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ khơng có gì hết. Độc
lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn
bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do.
Vì vậy, phải xây
dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ
độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của
tồn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm
của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó khơng có một bức tường thành nào
ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi
bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô
sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long
trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-91945). Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-91945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
10


do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Với Tuyên ngôn
độc lập, Hồ Chí Minh đã tun bố với tồn thế giới về quyền độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc
Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác

lập và bảo vệ quyền con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh
đạo đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm
trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với
tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”, “không có gì q hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở
đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực
dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh
trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập
dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt
Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một
trong những tư tưởng lớn của thời đại.
1.2.2 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt
Nam ra đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp. Ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh
lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân
dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc,
dân chủ cho nhân dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các
lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất
bại không tránh khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước
11


và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con
đường cứu nước mới, khác về chất, con đường mà các thế hệ người Việt Nam
yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt Nam cần một đường lối chính trị đúng

đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham mưu lãnh đạo thì Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp
ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân
chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp,
sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản
Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách
mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”.. Nhiệm vụ lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là:
"Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";...
Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng cơng nhân và nơng dân
thốt khỏi ách tư bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi
quyền lợi tự do cho nhân dân".. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thơng qua
tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định:
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của
toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh
phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và
12


nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam

là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng
của dân tộc Việt Nam”. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là
Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, khơng thiên tư, thiên vị”.
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác
- Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm
chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó
phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu
dài, chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con
dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng. Đảng đó cịn biết tập hợp các lực lượng
cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là: hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh
đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong q trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày
dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một
chân lý, “ở Việt Nam khơng có một lực lượng chính trị nào khác, ngồi Đảng
Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng
lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc
đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”.
Gần 90 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam,
quãng thời gian chưa dài nhưng những gì mà giai cấp, dân tộc đã thực hiện
được quả là phi thường. Nếu không phải là một đảng Mác xít-Lêninnít chân
chính như Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa
13



Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp cơng
nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích
đến như vậy.
Với tất cả sự khiêm tốn của người Cộng sản, có thể nói, Đảng Cộng sản
Việt Nam thật vĩ đại! Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là lãnh tụ của giai
cấp, của dân tộc, xứng đáng là chính đảng cách mạng duy nhất được giai cấp,
dân tộc trao cho sứ mệnh lịch sử.
1.2.3 Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn
dân trên cơ sở liên minh công nông
Cách mạng Tháng Tám đã thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam, từ nơ
lệ thành chủ nhân của đất nước, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo
ra sức mạnh vơ cùng to lớn của dân tộc.
Sức mạnh đó được hun đúc, phát triển qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại
đánh thắng hai đế quốc to và đã phát huy hiệu lực mạnh mẽ trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, văn nghệ, khoa học, y tế, giáo dục...
Giai cấp công nhân là đội ngũ tiên phong, thông qua Ðảng Cộng sản
lãnh đạo công cuộc cách mạng vĩ đại. Công nhân liên minh với nơng dân, hai
giai cấp đó đã trở thành đội quân chủ lực hùng hậu của cách mạng, sát cánh
cùng trí thức tạo nên lực lượng chính trị rộng lớn, lực lượng vũ trang cách
mạng kiên cường, làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc, phát triển
chiến tranh nhân dân ở cả nông thôn, rừng núi và thành thị, vừa dồn sức ra
tiền tuyến vừa củng cố hậu phương, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa củng
cố chính quyền cách mạng vừa phát huy dân chủ, nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa, tinh thần.
Cơng nhân, nơng dân đã tạo ra sức mạnh quyết định để chiến thắng,
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, trụ vững trước mọi thử thách của
chiến tranh lâu dài và sóng gió chính trị, là chỗ dựa để củng cố niềm tin vào
thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


14


Ðội ngũ trí thức gắn bó với cơng nhân, nơng dân, trưởng thành trong
thực tiễn đấu tranh cách mạng, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân trí, phát triển khoa học, y tế, giáo
dục, văn hóa, văn nghệ...
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự
nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng làm nịng cốt”...
Trong đó, “thực hiện cho được liên minh cơng nơng vì đó là sự bảo đảm chắc
chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”.
Khối đại đồn kết tồn dân tộc trên nền tảng cơng nhân, nơng dân, trí
thức, đã phát triển qua các thời kỳ: Mặt trận Việt Minh rồi Mặt trận Liên Việt
đến Mặt trận Tổ quốc, đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, các tôn giáo,
dân tộc, các nhân sĩ tiến bộ, trở thành một trong các nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nơng dân, Hồ Chí
Minh cho rằng, nơng dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng
hóa nên họ ln có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó,
cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nơng dân và là
sự nghiệp của tồn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một
lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp
công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống
nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn
có lực lượng to lớn, sẵn có lịng nồng nàn u nước, sẵn có chí khí kiên quyết
đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất
là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo,
nòng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nơng dân, nhưng Hồ Chí
Minh ln khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và

Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nơng làm nịng cốt cho
Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng
15


rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải
chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy
động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây
là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng
thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung kịp thời
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách
mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách
chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
1.2.4 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con
đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với
đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa
giành thắng lợi hoàn toàn
Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ
thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ
yếu rồi”. Thực tiễn đã chứng minh điều đó, năm 1858, thực dân Pháp đã dùng
bạo lực phản cách mạng để xâm lược nước ta, chúng dùng quân đội - “một
công cụ to dùng để áp bức” với hạm đội, tàu chiến, binh lính tinh nhuệ và các
loại vũ khí hiện đại thời bấy giờ để uy hiếp, xâm lược một triều đình phong
kiến với vài khẩu súng thần cơng và những anh lính khố. Sau khi chiếm được
nước ta, chúng tiếp tục dùng bạo lực phản cách mạng để bóc lột nhân dân ta
tới tận xương tủy, khơng những thế chúng cịn đàn áp đẫm máu những phong
trào đấu tranh của nhân dân ta dù cho đó có là đấu tranh theo phương pháp
hịa bình hay dấy binh khởi nghĩa. Bác đã nhận rõ bản chất của bọn xâm lược,

“lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết khơng chừa. Càng gần thất bại thì chúng
càng hung ác” Trong bản Tuyên ngôn độc lập Bác đã từng chỉ rõ: “Ngày 9
tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp
hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được
16


ta, trái lại, trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật. Trước
ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh
để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố
Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng cịn nhẫn tâm giết nốt
số đơng tù chính trị ở n Bái và Cao Bằng”. Cho nên Người khẳng định:
“Độc lập tự do khơng thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân
tộc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Đó
là quan điểm mấu chốt trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đã được thể hiện
trong Khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ.
Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí
Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải
được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính
trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến
tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh khơng hề đối lập với
tinh thần u chuộng hịa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam
mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ Chí
Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hịa bình: “Dụng việc binh là
việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”. Theo Người, hịa bình phải là nền

hịa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân
chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến
hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng.
Bạo lực cách mạng ở Việt Nam là sức mạnh của quần chúng nhân dân
dân được giác ngộ và tổ chức thành hai lực lượng: Lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, hai hình thức đấu tranh: Đấu tranh chính trị và đấu tranh quân
17


sự, kết hợp khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Vì vậy, khởi nghĩa
vũ trang là cuộc nổi dậy to lớn của quần chúng với sự kết hợp chặt chẽ giữa
đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự, dùng vũ khí để đánh đuổi bọn cướp
nước, giành chính quyền. Người nói: Tùy tình hình cụ thể mà quyết định
những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết
hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi
cho cách mạng. Quán triệt quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, Người đã chỉ rõ, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực cách mạng của
quần chúng, nghĩa là toàn dân vùng dậy đánh đuổi qn xâm lược. Đó chính
là nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng của Người.
Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh khơng
tuyệt đối hóa vai trị của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh
cách mạng. Với Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương
pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi
về nước chuẩn bị giành chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ
tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị
thành lập đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Người căn dặn:
“Chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người
trước, súng sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động là kết hợp

qn sự với chính trị.
Trong q trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và
Đảng đã chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ
sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng
thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị
của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chuẩn bị đón chờ thời cơ khởi
nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được

18


ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền
về tay nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
kế thừa và phát huy nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt
Nam đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, với ba thứ
quân và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của quân đội để
đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp với xây dựng
lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến tiến hành tổng
tiến công, giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2.
2.1 Giá trị lý luận
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin xác định con đường cứu nước theo
khuynh hướng chính trị vơ sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân
tộc là do Hồ Chí Minh hoạch định, chứ không phải đã tồn tại từ trước.
Hồ Chí Minh khơng tự khn mình trong những ngun lý có sẵn
khơng rập khn máy móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở
thuộc địa, mà có sự kết hợp hài hịa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải
quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp

trong vấn đề dân tộc gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Sử dụng “phương pháp làm việc biện chứng”, Người đã phân tích thực
tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử
cụ thể ở thuộc địa xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và
truyền bá vào Việt Nam.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một
hệ thống những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những
thử thách hết sức gay gắt. Trong những năm 1923-1924, 1927-1928 và 19341938, Quốc tế Cộng sản khơng ủng hộ mà coi đó là những tư tưởng “dân tộc
chủ nghĩa”. Những năm 1930-1935 tư tưởng đó bị phê phán trong Ban Chấp
19


hành Trung ương Đảng và trên báo chí ở nước ngoài. Song, thực tiễn đã
chứng minh lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng
đắn.
2.2 Giá trị thực tiễn
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin
về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ sáng tạo, bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phướng pháp tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đó là một di sản tư tưởng qn sự vơ giá mà
Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và nhân dân ta.
2.2.1 Làm chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là ánh sáng
soi đường cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm
chân lý, là ngọn cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trước khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
đó được những người Việt Nam yêu nước tiếp thu như một ánh sáng chân lý
của chính mình, “giống như người đang khát mà có nước uống, đang đói mà
có cơm ăn”.

Tư tưởng đó thâm nhập vào phong trào cơng nhân và phong trào u
nước Việt Nam, góp phần quyết định trong việc xác lập con đường cứu nước
mới, làm cho phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang quỹ đạo cách
mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Xam rồi đem
chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc truyền bá cho
họ dẫn dắt họ đi theo con đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu
nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự chuyển hóa tiêu biểu nhất là Tân
Việt cách mạng đảng, từ lập trường tư sản đã chuyển sang lập trường vơ sản.
Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp gỉai phóng
và phát triển dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
20


2.2.2 Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Xam
Trước hết. cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một vũ khí tư tưởng mới của phong trào
yêu nước Việt Nam, làm cho phong trào yêu nước chuyển dần sang quỹ đạo
cách mạng vô sản và cũng trở thành một trong những điều kiện dẫn đến sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin
được truyền bá vào giai cấp công nhân, soi đường chỉ lối cho giai cấp công
nhân đấu tranh, làm cho giai cấp công nhân ngày càng giác ngộ, phong trào
công nhân Việt Nam phát triển mạnh theo phương hướng từ tự phát đến tự
giác và trở thành một điều kiện dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Ba là. lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, nhất là
những tư tưởng hình thành trong những năm 20 của thế kỷ XX là sự chuẩn bị
tích cực về mặt tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2.3 Đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân

tộc của Đảng
Là cơ sở hình thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc, phản ánh yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng
nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân, phù hợp với xu thế phát
triển tất yếu của thời đại đặt nền móng vững chắc để xây dựng nền Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua
đầu năm 1930.
Là cơ sở để phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội qua ba giai đoạn chiến lược. Từ tư
tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ tám
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đã xác định đưòng lối cách
mạng giải phóng dân tộc với chủ trương “thay đổi chiến lược”, nhấn mạnh
21


cuộc đấu tranh dân tộc ở thuộc địa. Đó là những bước đi khác nhau để tiến lên
chủ nghĩa xã hội. là biểu hiện của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội được khẳng định ngay từ Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.
Là cơ sở của đường lối chiến tranh nhân dân, tồn dân, tồn diện. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được tiếp tục phát triển
trong tiến trình cách mạng Việt Nam; được quán triệt, vận dụng và phát triển
trong sự nghiệp kháng chiến - kiến qũc. Hình thành nên đường lối qn sự
nói chung và đường lối chiến tranh nhân dân nói riêng của Đảng Cộng sản
Việt Nam nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược.
Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng phát triển và ngày càng hoàn
chỉnh gắn liền với sự nghiệp và tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh. Đó là ngọn cờ
trăm trận trăm thắng của dân tộc Việt Nam trước những kẻ thù đế quốc lớn

mạnh
2.2.4 Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách
mạng Việt Nam (1940-1975) đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ tính
khoa học, tính cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến
lên. Cùng nhân loại biến thế kỷ XX thành một thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực
dân trên toàn thế giới. Những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam
trong thế kỷ XX chứng tỏ hùng hồn giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

KẾT LUẬN

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO

23



×