Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luạn môn lịch sử đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.56 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
1

Lý do chọn đề tài.
Thế kỷ XXI, chúng ta đang bước vào thời kỳ chạy đua
giữa các nền kinh tế trên thế giới. Kẻ nào mạnh sẽ nắm giữ
những giá trị cốt lõi và tiến lên, kẻ yếu sẽ tự bị đào thải ra
khỏi vịng xốy khơng ngừng vận động và phát triển.
Hiểu biết sâu sắc về thời đại giúp ta tìm thấy xu hướng
tất yếu trong vơ vàn những hiện tượng phức tạp, mang tính
ngẫu nhiên của đời sống xã hội, giúp ta nhìn xa trơng rộng,
nắm bắt khuynh hướng và quy luật phát triển của nhân loại
để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát
triển của lịch sử; lường trước được những thách đố phức tạp,
tránh được những vấp váp sai lệch trên đường đi; từ đó sẽ
khơng bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp
của đời sống chính trị quốc tế. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: ”Khi
phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào phải đặt trong bối cảnh
lịch sử nhất định, vì chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những
đặc điểm cơ bản của một thời đại, người ta mới có thể tính
đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước khác.”
Do đó, việc nghiên cứu những lý luận về cải tổ, đổi mới
đất nước là điều vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện
nay. Từ những kinh nghiệm thực tiễn, Đảng ta đã đúc kết
thành những văn bản mang tính nền tảng, là bước đệm cho
sự đi lên của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó,
Đại hội VI năm 1986 là cột mốc đầu tiên đánh dấu cho sự
1


chuyển mình của nền kinh tế - chính trị Việt Nam, là chiếc la


bàn mang tính định hướng lâu dài cho cả quá trình phát triển
của nước ta. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả lựa chọn đề tài:
“QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG
TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI LÀ BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM. NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY” làm
đề tài nghiên cứu tiểu luận của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
-

Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình Đổi
mới đất nước tại Đại hội VI năm 1986.

-

Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thu thập thông xin và phân tích những nguyên nhân,
hạn chế, nội dung của Đại hội VI năm 1986. Từ đó, đưa ra
nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ xây dựng đất nước ta trong
thời đại mới

2. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp thu thập số liệu, phương pháp định tính,
phương pháp định lượng, phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp quy nạp và diễn giải, phương pháp lịch sử
và logic.
3. Kết cấu tiểu luận

2


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài
liệu tham khảo, tiểu luận gồm có 3 Chương và 6 Tiết.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI
ĐẤT NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI
1.1. Cơ sở lý luận:
1.1.1. V.I. Lê-nin và cuộc đổi mới tư duy đầu tiên về chủ

nghĩa xã hội “Chính sách cộng sản thời chiến”
Nhà nước Xơ-viết - chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới đã ra đời ở nước Nga sau Cách mạng Tháng
Mười năm 1917. V.I. Lê-nin cùng Đảng Cộng sản Nga đã lãnh
đạo xây dựng CNXH từ một nền kinh tế lạc hậu và kiệt quệ,
lại bị 14 nước tư bản đế quốc bao vây, các lực lượng phản
động ở trong nước chống phá.
“Chính sách cộng sản thời chiến” (thực hiện từ năm
1918 đến đầu năm 1921) thực chất là một biện pháp tình
thế, thích ứng với trạng thái ngặt nghèo, khi Nhà nước Xơviết phải đương đầu với thù trong, giặc ngồi. Để huy động
các nguồn lực cho những nhu cầu cấp thiết, các biện pháp
mệnh lệnh hành chính thiên về việc sử dụng quyền lực nhà
nước để trưng thu lương thực, thực phẩm và các tư liệu sản
xuất, kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm nhằm
phục vụ cho nhu cầu quốc phòng và dân sinh đã được ban bố

và thực hiện. Nhiều nguồn lực cho nhu cầu quốc phòng và
dân sinh cấp thiết đã được huy động, qua đó giúp củng cố và
phát triển sức mạnh của chính quyền Xô-viết. Tuy nhiên, sau
một thời gian thực hiện, phương pháp mệnh lệnh hành chính
4


đã bộc lộ bất cập trong hoàn cảnh cụ thể của nước Nga
đương thời. Tình trạng trì trệ đã xuất hiện, thậm chí đã có cả
những phản ứng gay gắt của xã hội, như “vụ nổi loạn
Cronxtat”.
V.I. Lê-nin đã nhận ra, giải pháp tình thế chỉ đúng trong
thời điểm ngặt nghèo, nay đã trở thành khuyết điểm khi nó
bị kéo dài quá mức. Vấn đề nổi bật là, không thể dùng ý chí
chủ quan để xây dựng CNXH mà khơng trải qua giai đoạn
quá độ. V.I. Lê-nin nhận định: “Mùa xuân 1921, chúng ta thấy
rõ rằng chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương
pháp “xung phong”, nghĩa là dùng con đường ngắn nhất,
nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và
phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”[1].
Chính sách cộng sản thời chiến, có thể xem như thử
nghiệm đầu tiên về mơ hình CNXH đã gặp khủng hoảng và
tất yếu phải đổi mới.
“Chính sách kinh tế mới” - bước tiến của lý luận
về chủ nghĩa xã hội.
Từ mùa xuân năm 1921, V.I. Lê-nin đã khởi xướng cuộc
cải cách đầu tiên về mơ hình và biện pháp xây dựng CNXH
thông qua NEP. Cần hiểu rằng, NEP khơng chỉ là một chính
sách quản lý vĩ mơ về kinh tế, mà là một cải cách có tính
tổng thể về CNXH, gồm nhiều nội dung:

Một là, những bất hợp lý của “Chính sách cộng sản thời
chiến” bị bãi bỏ, chế độ “trưng thu lương thực thừa” được
5


thay bằng thuế lương thực với tư cách là “liệu pháp cấp tốc,
cương quyết nhất, cấp thiết nhất” để phát triển sản xuất.
Việc trao đổi hàng hóa trên cơ sở của nguyên tắc thị trường
được thừa nhận và phục hồi, quan hệ hàng - tiền là “đòn
bẩy” kinh tế, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ giữa
cơng nghiệp với nông nghiệp, giữa thành thị với nông thôn.
Lợi ích của người lao động được quan tâm và thực hiện, nông
dân được phép mua bán và trao đổi lương thực “thừa” của
mình.
Hai là, phát triển “chủ nghĩa tư bản nhà nước” - mắt
xích “trung gian quan trọng để xây dựng CNXH”. V.I. Lê-nin
đặt câu hỏi, đồng thời khẳng định rằng: “Liệu có thể kết hợp,
liên hợp, phối hợp Nhà nước Xơ-viết, nền chun chính vơ
sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? Tất nhiên là
được.”[2]. Người nhận định: “Kinh tế nông dân, với tư cách là
một nền kinh tế tiểu nông, không thể đứng vững được, nếu
không có một sự tự do trao đổi nào đó, và khơng có những
quan hệ tư bản chủ nghĩa gắn liền với tự do trao đổi đó.”[3].
Tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của
trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản (CNTB) - một sự phát
triển khơng thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất
nhỏ, “chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng
nào muốn áp dụng nó”. Và thái độ đúng đắn là “Chúng ta
phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó
vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích

trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm
6


phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng
cường lực lượng sản xuất lên”[4]. V.I. Lê-nin đã đề xuất một
số hình thức CNTB nhà nước như chế độ tơ nhượng, chế độ
hợp tác, chế độ đại lý thu mua, đại lý tiêu thụ, chế độ cho
thuê.
Ba là, phải học tập và sử dụng những giá trị văn minh
nhân loại được tạo ra từ CNTB; kiên quyết phản đối việc
“đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ
nghĩa xã hội”. Theo V.I. Lê-nin, ở một nước kinh tế lạc hậu thì
giải pháp hiện thực để có được kinh nghiệm, tri thức quản lý
hiện đại là học hỏi bằng việc thuê và trả lương cao cho
chuyên gia tư sản.
V.I. Lê-nin cho rằng, khơng có sự chỉ đạo của các
chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có
kinh nghiệm tổ chức quản lý, thì không thể nào chuyển lên
CNXH được.
Bốn là, chuyển trọng tâm của cách mạng sang tổ chức
và phát triển văn hóa. V.I. Lê-nin viết: “Chúng ta buộc phải
thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa
xã hội đã thay đổi về căn bản. Sự thay đổi căn bản đó là ở
chỗ: trước đây đặt trọng tâm cơng tác của chúng ta vào đấu
tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền... Ngày nay, trọng tâm ấy đã chuyển sang cơng tác
hịa bình tổ chức “văn hóa”[5]. Chủ nghĩa xã hội khơng thể
ra đời từ “những cuộc xung phong” hay những sắc lệnh duy ý


7


chí nữa, mà là tùy ở kết quả của việc có kết hợp được chính
quyền xơ-viết với những tiến bộ mới nhất của CNTB.
Năm là, củng cố chính quyền Xơ-viết, tăng cường vai trò
của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ
chức với biện pháp kinh tế để xây dựng CNXH.
Những quan niệm mới mẻ và đúng đắn của NEP đã
được thực tiễn xác nhận. Nước Nga Xơ-viết chỉ trong một thời
gian ngắn đã có nhiều chuyển biến tích cực: từ năm 1922,
thành thị đã có đủ lương thực - thực phẩm. Năm 1925 sản
xuất nông nghiệp đạt 87%; công nghiệp đạt 75% sản lượng
của năm 1913; đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt, chính trị
ổn định, khối liên minh công nông được củng cố, phát triển.
Song từ Đại hội XV của Đảng Cộng sản Liên Xơ, tháng 121927, với đường lối tập thể hóa nơng nghiệp bằng con đường
hợp tác hóa sản xuất và tổ chức các nông trường quốc doanh
lớn, với cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung NEP đã chấm
dứt vai trị lịch sử của nó ở Liên Xơ.
1.1.2. NEP và đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam

Một hạn chế trong tư duy về biện pháp xây dựng CNXH
ở Việt Nam, cũng tương tự như V.I. Lê-nin đã vạch ra là, “đem
chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa
xã hội”. Vấn đề lớn trong tư duy cũ là, chưa phân định rõ sở
hữu tư nhân với sở hữu tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường
với tư cách là một trình độ của sản xuất hàng hóa với kinh tế
thị trường là đặc trưng của kinh tế tư bản chủ nghĩa.
8



Từ một trạng thái tư duy như vậy, việc vận dụng kinh tế
thị trường vào quá trình sản xuất, trao đổi và tiêu dùng là
bước tiến lớn lao và có thể xem là tiêu biểu nhất trên lĩnh
vực đổi mới tư duy kinh tế. Tư duy này đã vận động từ chỗ kỳ
thị kinh tế thị trường, đến việc coi nó như một yếu tố mà kế
hoạch hóa cần tham chiếu, sau đó coi thị trường là một cơ
chế để quản lý và đến nay là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được coi là mô hình kinh tế tổng quát
của đất nước. Bước tiến dài ấy cần có được những luận
chứng vững chắc của thực tiễn và của lý luận. Chính những
tư tưởng của V.I. Lê-nin về NEP đã tiếp sức và làm thành một
trong những cơ sở lý luận cho đổi mới tư duy về con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam.
Cũng cần nói thêm rằng, NEP của V.I. Lê-nin còn là “bảo
bối” để hỗ trợ tinh thần cho giới lý luận Việt Nam. Một trong
những trở lực lớn của việc đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam
thời kỳ trước đổi mới là những lo ngại về “mất lập trường”,
“sai quan điểm”. Chính những lo ngại đó đã khiến cho đổi
mới tư duy lý luận không hề dễ dàng. “Chúng ta phải đi
xuyên qua những dằn vặt tinh thần chưa từng có, phải vượt
qua những cơn sốc tâm lý vốn không được chuẩn bị, mặt
khác, ngay cả những ý tưởng sáng tạo mới trong lý luận cũng
phải trải qua những thử thách với khơng ít nghiệt ngã của
thực tiễn và dư luận xã hội”(7).
Với tinh thần cầu thị, sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn,
những điểm nổi bật của NEP, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
9



khẳng định phương hướng phát triển kinh tế đất nước trong
thời kỳ quá độ là: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”(8).
Định hướng đó thể hiện tư duy biện chứng, cách mạng
của người cộng sản, bảo đảm cho thành công của sự nghiệp
xây dựng CNXH ở Việt Nam.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Bối cảnh lịch sử trước đổi mới đất nước
1986
1.2.1.1. Tình hình thế giới:
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước, thế giới chứng kiến
những quá trình mới diễn ra đang làm thay đổi mọi mặt đời
sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân loại. Tồn cầu hoá kinh
tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại không
ngoại trừ một quốc gia, dân tộc nào, nếu muốn phát triển
bắt buộc phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Cùng với tồn cầu hố kinh tế, cuộc cách mạng khoa học
công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ ngày càng mạnh
mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa
học công nghệ, phát triển các ngành công nghệ cao, như
công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ sinh học.
10


Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế
thế giới. Chẳng những các lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh

tế thế giới có nhiều thay đổi theo hướng dựa vào tri thức và
khoa học công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất mới
có hàm lượng R&D và giá trị gia tăng cao, ngành dịch vụ
ngày càng có vai trị quan trọng và tỷ trọng lớn dần trong cơ
cấu kinh tế quốc dân.
Mặt khác, nó làm thay đổi các quan hệ kinh tế và quản
lý kinh tế thế giới theo hướng:
- Trong các nước tư bản phát triển phát triển, sau các
cuộc khủng hoảng cơ cấu và dầu lửa, từ đầu những năm 80,
đã tiến hành chính sách điều chỉnh kinh tế. Nội dung cơ bản
là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các
ngành có hàm lượng Khoa học cơng nghệ cao, thực hiện điều
tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các cơng cụ vĩ mơ, thực
hiện tư nhân hố khu vực kinh tế nhà nước, tăng cường vai
trò của kinh tế tư nhân.
- Các nước đang phát triển như Đông Á và Đông Nam Á
cũng thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển
năng động của thế giới. Các cải cách ở đây bao gồm cải cách
cơ cấu và xác định đúng chiến lược kinh tế để nâng cao sức
cạnh tranh và phát triển, mở cửa hội nhập và liên kết kinh tế,
khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài coi đây là động lực phát triển kinh tế.

11


- Các nước xã hội chủ nghĩa cũ trước các khó khăn
chồng chất đã tiến hành cải cách kinh tế nhằm khắc phục cơ
chế kế hoạch hóa hành chính chỉ huy, chuyển đổi sang kinh
tế thị trường. Cải cách kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đã
đạt được những thành tựu to lớn và là tấm gương cho Việt

Nam tham khảo.
Như vậy, có thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng
khắp trên thế giới cùng với q trình tồn cầu hố, cuộc cách
mạng khoa học cơng nghệ lần thứ 3 đã tạo áp lực mạnh mẽ
cho công cuộc đổi mới về kinh tế ở Việt Nam.
1.2.1.2. Tình hình Việt Nam trước đổi mới 1986.
Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ và anh hùng, cách
mạng miền Nam từng bước lớn mạnh và giành được nhiều
thắng lợi to lớn. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa
Xuân năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống
nhất tổ quốc.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới
- giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong 5 năm 1976 - 1980, trên mặt trận kinh tế, nhân
dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng: Khắc
phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh xâm
lược do đế quốc Mỹ gây ra và của cuộc chiến tranh biên giới;
khôi phục phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp,
12


giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở
miền Nam bị chiến tranh tàn phá; củng cố kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ở miền Bắc, bước đầu cải tạo và sắp
xếp công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam, đưa một bộ
phận nông dân Nam Bộ, nông dân Nam Trung Bộ vào con
đường làm ăn tập thể; bước đầu phân bố lại lực lượng lao
động xã hội; tăng cường một bước cơ sở vật chất- kỹ thuật

của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976 - 1980
chưa tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra;
những mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng;
thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội;
thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ khơng ổn định; đời sống
của nhân dân lao động cịn khó khăn. Lịng tin của quần
chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà
nước giảm sút.
Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2
(1981-1985), nhiều Nghị quyết và Quyết định quan trọng của
Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm từng bước sửa đổi
cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp,
kinh tế tư nhân và xóa bỏ quan liêu bao cấp. Trước đó, từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), bước đầu có cách nhìn
mới về nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận miền Bắc
tồn tại 3 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể và cá
thể; miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế là quốc doanh,
tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân và cá thể. Đó là
13


bước khởi đầu thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh
doanh, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, nền kinh tế nói chung và sản xuất cơng
nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi
vào khủng hoảng. Trong khi nguồn viện trợ của bên ngoài,
các nguồn vốn và hàng hoá vật tư, nguyên liệu và hàng hoá
tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận
của đế quốc Mỹ ngăn cản Việt Nam bình thường hóa quan hệ

với thế giới.
1.2.2. Ngun nhân đổi mới đất nước 1986.
1.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan (trực tiếp)
Sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền
cuối năm 1985
Hậu quả của cuộc khủng hoảng do cuộc tổng điều
chỉnh giá - lương - tiền năm 1985 làm cho nền kinh tế Việt
Nam càng trở nên khó khan. Tiền phát hành ra không đủ
phục vụ lưu thông, các xí nghiệp, nhà máy khơng có vốn lưu
động, khơng có tiền trả lương cho cơng nhân.
Hàng loạt khó khăn, thiếu thốn đó đổ lên đầu lãnh đạo
các cơ sở sản xuất, cán bộ lãnh đạo các địa phương - những
người hằng ngày phải đối diện với người lao động, với người
dân. Nếu chấp hành đúng quy định thì cán bộ hồn thành
nhiệm vụ nhưng người lao động thiếu đói; nếu làm khá, họ sẽ
bị kỷ luật vì vi phạm pháp luật, có thể mất chức và hơn nữa
có thể bị quy kết đi ngược lại chủ trương, đường lối.
14


1.2.2.2. Nguyên nhân khách quan (gián tiếp)
Sự vận dộng không ngừng của thế giới
Đường lối đổi mới là cả một q trình Đảng ta tìm tịi,
nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta trên cơ
sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu có phê
phán, chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới, tham
khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, đặc biệt là các
nước trong khu vực.
Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự
kiện, những nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội diễn ra với nhịp

độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một qui mơ to lớn chưa
từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có
sự phát triển, bổ sung lí luận cho phù hợp mà trước tiên phải
có cách nhìn mới, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đây
chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới, cải cách mà
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó
có Việt Nam.

15


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TỒN QUỐC LẦN THỨ VI
2.1. Tóm lược nội dung đổi mới 1986.

(Ảnh: TTXVN)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại
Hà Nội từ ngày 15 đến 18 - 12 - 1986 (họp trù bị từ ngày 5
đến ngày 14 tháng 12 năm 1986).
Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu
đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội có 32 đồn đại
biểu quốc tế.
2.1.1. Mục tiêu kinh tế - xã hội
Đảng ta đã đặt ra những mục tiêu cụ thể sau đây:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy.

16


- Bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển

sản xuất.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất
mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
- Tạo chuyển biến tốt về mặt xã hội.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh
2.1.2. Đổi mới về kinh tế
- Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần.
- Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kế hoạch
hóa theo phương thức hạch tốn kinh doanh xã hội chủ
nghĩa.
- Đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp hóa,
thực hiện 3 chủ trương kinh tế:
+ Sản xuất lương thực, thực phẩm.
+ Sản xuất hàng tiêu dùng.
+ Sản xuất hàng xuất khẩu.
2.1.3. Đổi mới về chính trị
- Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng,
đổi mới quản lý và điều hành của nhà nước cho phù hợp với
cơ cấu và cơ chế kinh tế mới.

17


- Đổi mới về quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở,
kêu gọi hợp tác và đầu tư nước ngồi.
2.2. Ý nghĩa đổi mới 1986
2.2.1. Thay đổi tình thế đất nước
Đại hội VI (1986) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt

rất cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ
chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo và phong cách của
Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, cuộc cách mạng này đã khẳng định đối
với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách
mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống cịn. Đại hội VI đã đem lại
luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình,
đưa đất nước tiến lên.
Ngọn gió đổi mới của Đảng đến từ Đại hội VI đã bắt kịp
thời cơ, phù hợp với thực tiễn phát triển và hợp lòng dân. Từ
một nước phải nhập khẩu gạo, chỉ ít năm sau đổi mới, Việt
Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn của
thế giới.
Cũng từ một nước mà tình trạng lạm phát tới vài trăm
%, thì nhờ đổi mới, lạm phát quay trở về một con số. Từ một
nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, chỉ có một thành
phần, Việt Nam đã hoàn thành thể chế kinh tế thị trường
18


theo định hướng xã hội chủ nghĩa với tốc độ tăng trưởng
cao.
2.2.2. Rút ra những bài học kinh nghiệm cho xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đại hội rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn trong toàn bộ
hoạt động của mình:
Thứ nhất, Đảng phải quán triệt tư tưởng dân là gốc, xây

dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan.
Thứ ba, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Thứ tư, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính
trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hình thành hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

19


CHƯƠNG 3: NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
3.1. Về nhận thức và tư tưởng:
3.1.1. Nhận thức về các mâu thuẫn cơ bản trong
giai đoạn hiện nay của thời đại.
Sự vận động không ngừng của thế giới đương đại và
giai đoạn hiện nay của thời đại với những diễn biến phức tạp
và hàm chứa nhiều mâu thuẫn. Những mâu thuẫn cơ bản nổi
bật hiện nay là:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản diễn ra gay gắt. Đây là cách diễn đạt mới vì
trước đây thường nói mâu thuẫn giữa “phe xã hội chủ nghĩa
và phe đế quốc chủ nghĩa”. Sở dĩ có cách diễn đạt mới này
khơng chỉ vì khơng cịn hai phe như trước, mà cịn vì cách đề
cập trước đây chỉ bó hẹp trong phạm vi mâu thuẫn giữa hai
phe, chưa bao quát được cuộc chiến tranh giữa hai chiều

hướng phát triển ngay trong lòng mỗi quốc gia cũng như trên
phạm vi toàn thế giới. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, bởi sự
vận động của mâu thuẫn này sẽ tác động nhiều mặt đến các
mâu thuẫn khác.
Thứ hai, mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản
giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng xã hội
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng
sâu sắc. Chính từ mâu thuẫn này đã dẫn tới mâu thuẫn giữa
20


các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các
tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các
Trung tâm tư bản tiếp tục phát triển. Hai mâu thuẫn này
phản ánh chân thực, mơ tả khách quan bức tranh tồn cảnh
ở các nước tư bản phát triển khi nhiều tầng lớp nhân dân
tham gia đấu tranh vì dân sinh, dân chủ; các tập đồn tư bản
độc quyền, các cơng ty xun quốc gia, các trung tâm tư bản
lớn luôn giành giật nhau gay gắt, nhiều khi gây ra các xung
đột, chiến tranh kinh tế, thương mại khốc liệt.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển. Các
nước tư bản phát triển thống nhất với nhau về bản chất chế
độ và lợi ích giai cấp nhưng giữa các nước đó cũng có những
mâu thuẫn khó khoan nhượng về lợi ích quốc gia, lợi ích của
mỗi tập đồn tư bản. Các nước tư bản phát triển đang bị
cuốn vào cuộc cạnh tranh sống còn nhằm chiếm đoạt tài
nguyên, năng lượng, nhân lực chất lượng cao và chiếm lĩnh
các thị trường béo bở trên khắp các châu lục, khai thác mọi
tiềm năng của các nước khác để tích lũy và xuất khẩu tư
bản, gia tăng nhiều tối đa trên quy mơ tồn cầu.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa các thế lực cường quyền, hiếu
chiến muốn thống trị thế giới với với nhân dân thế giới đấu
tranh cho hịa bình, độc lập dân tộc, cơng bằng, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Thế giới đang diễn ra quá trình vừa hợp tác
vừa đấu tranh, xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau vơ cùng
phức tạp để thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh
21


đó, các thế lực hiếu chiến, cường quyền ln thực hiện các
chính sách áp đặt, gây ra các xung đột cục bộ, xung đột khu
vực, xung đột biên giới, biển đảo. Mâu thuẫn giữa các nước
lớn cũng thường được giải quyết thông qua các cuộc chiến
tranh “mượn tay người” ở các điểm nóng; các cuộc chiến
giành giật tài nguyên, chiến tranh thương mại. Tình hình đó
làm cho nhân dân u chuộng hịa bình trên tồn thế giới hết
sức lo lắng và đề cao cảnh giác.
Thứ năm, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lồi
người càng tăng với tình trạng tài nguyên thiên nhiên ngày
càng cạn kiệt. Sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế - xã
hội luôn có mối quan hệ khăng khít với mơi trường và điều
kiện thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường là cơ
sở và nhân tố quan trọng cho sự phát triển. Nếu biết sử dụng
hợp lý các nguồn tài nguyên và các yếu tố địa lợi, kinh tế xã hội sẽ tăng trưởng mạnh mẽ và phát triển bền vững. Vậy
nhưng hiện nay vấn đề sử dụng quá mức và thiếu trách
nhiệm đã gây ra vấn nạn cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường ngày càng nghiêm trọng.
3.1.2. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng
tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Thế giới hiện nay là thế giới tồn cầu hóa, hội nhập

quốc tế; là cả một khơng gian mở, đan xen lợi ích, tùy thuộc
lẫn nhau. Một khi khủng hoảng kinh tế ở một khu vực hoặc
một nước lớn kéo theo khủng hoảng toàn cầu; một khi giá
22


dầu mỏ lên xuống thất thường và đột biến đủ làm cho kinh
tế thế giới bị ảnh hưởng. Nhìn vấn đề toàn cầu, nhất là một
số vấn đề an ninh phi truyền thống buộc cả cộng đồng quốc
tế phải chung tay giải quyết. Sự biến đổi khí hậu khác
thường, thiên tai nghiệt ngã đang diễn ra rất đáng lo ngại. Sự
phát triển không thể ngăn cản của các loại vũ khí giết người
khủng khiếp cũng là yếu tố làm cho bất kỳ giới cầm quyền
nào, cho dù là nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa
cũng phải tính tốn kỹ vấn đề chiến tranh hay hịa bình. Như
vậy, cùng với việc đổi mới nhận thức của toàn nhân loại, đặc
biệt là của giới lãnh đạo các nước về trách nhiệm chung đối
với sự phát triển thế giới, những nhân tố khách quan nêu
trên vừa thúc đẩy, đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho việc cùng
tồn tại và hợp tác cùng phát triển đối với tất cả các nước.
Trong khi nhận rõ sự hợp tác giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản hiện nay là khá toàn diện, thì khơng thể
qn rằng những mâu thuẫn giữa hai chiều hướng phát triển
này vẫn chứa đựng mâu thuẫn vốn có. Các thế lực hiếu chiến
và thù địch chưa bao giờ từ bỏ dã tâm muốn xóa sổ chủ
nghĩa xã hội. “Diễn biến hịa bình” là một trong những chiến
lược tổng thể của chủ nghĩa đế quốc nhằm thực hiện mục
tiêu đó. Đây là cuộc chiến tranh khơng khói súng nhưng thực
sự là kế sách nham hiểm phá vỡ thành lũy của chủ nghĩa xã
hội từ bên trong, là chiến thuật “mối xây nhà” nhằm làm

thối hóa về tư tưởng, mục ruỗng cơ cấu kinh tế - chính trị xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa. Tất cả những thủ đoạn
23


mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với các nước
xã hội chủ nghĩa, cũng như đối với giai cấp những người lao
động trên toàn thế giới cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp
hiện nay không kém phần gay gắt, quyết liệt và phức tạp.
Bởi vậy, trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới, thu
hút vốn đầu tư, công nghệ và hợp tác giao lưu với các nước
tư bản, các nước xã hội chủ nghĩa phải luôn kiên định bảo vệ
nền tảng tư tưởng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
hợp tác cùng phát triển nhưng luôn cảnh giác và sẵn sàng
đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và mục tiêu lý
tưởng của mình.
3.1.3. Các vấn đề tồn cầu và an ninh phi truyền
thống ngày càng nghiêm trọng.
Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều chịu tác
động của vấn đề toàn cầu như khủng bố quốc tế, tội phạm
xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai,
thảm họa môi trường sinh thái, an ninh lương thực, an ninh
nguồn nước, an ninh mạng, nghèo đói và dịch bệnh. Cả thế
giới giới đã chứng kiến đại dịch Covid-19, trở thành thảm họa
toàn cầu khiến hàng triệu người mắc bệnh, hàng trăm ngàn
người chết, khiến tâm trạng xã hội rối loại, kinh tế toàn cầu
khủng hoảng, hoạt động xã hội ngưng trệ, đảo lộn. Trong
những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn đó, cạn
kiệt tài nguyên, nhất là năng lượng và nguồn nước đang là
vấn đề nổi trội, tác động tới an ninh và phát triển của nhiều
24



nước, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên của các nền
kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh
tế của các nước đang phát triển sẽ tăng vọt dẫn tới việc cạnh
tranh các nguồn tài nguyên vốn đã gay gắt sẽ trở nên
nghiêm trọng hơn.
Cùng với những vấn đề đe dọa an ninh toàn cầu nêu
trên, an ninh biển cũng đang nổi lên trong thời gian tới. An
ninh biển không chỉ liên quan đến an toàn các tuyến đường
hàng hải mà ngày càng mở rộng ra các khía cạnh khác như
an ninh mơi trường biển, các nguồn lợi hải sản. Do tác động
của việc gia tăng các tranh chấp biển, đảo và các chuyển
biến của an ninh phi truyền thống khác, an ninh biển sẽ trở
thành một trong những vấn đề chi phối quan hệ giữa nhiều
nước.
3.2. Về hành động
3.2.1. Trực tiếp:
Rèn luyện chun mơn.
Mỗi ngành nghề sẽ có những vai trị, vị trí khác nhau
trong xã hội. Chính vì vậy, khi cịn ngồi trên ghế giảng
đường, sinh viên cần nâng cao chuyên để vận dụng khả
năng của mình cho sự phát triển chung của đât nước.
Không ngừng trau dồi học hỏi nhiều kỹ năng.
Sinh viên hiện nay không những phải học những kiến
thức trên giảng đường mà cịn cần có mục tiêu trau dồi các
25



×