Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Hiện trạng và giải pháp quản lý môi trường thị trấn tân uyên, huyện tân uyên , tỉnh lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369 KB, 65 trang )

1

MỤC LỤC
Trang


-2-

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
“Bảo vệ mơi trường là một vấn đề sống cịn của đất nước, của nhân loại,
là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói giảm
nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hồ bình và tiến bộ xã hội trên phạm
vi tồn thế giới”. Đó là lời mở đầu của chỉ thị số 36- CT/TW ngày 25/6/1998
của Bộ Chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khố VIII về tăng
cường cơng tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Quán triệt tinh thần và nội dung của chỉ thị trên, các ngành, các cấp
trong cả nước đã và đang đẩy mạnh công tác bảo vệ mơi trường, chống ơ
nhiễm và suy thối mơi trường. Để giữ cho được sự phát triển cân bằng kinh
tế - xã hội và bảo vệ mơi trường, hay nói một cách khác, phát triển kinh tế xã hội tạo tiềm lực để BVMT, còn BVMT tạo ra tiềm năng tự nhiên và xã
hội mới cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội trong tương lai. Chính vì
vậy, việc BVMT nói chung và cơng tác quản lý mơi trường nói riêng góp
phần vơ cùng quan trọng và rất cần thiết trong thời kỳ hiện nay. Tuỳ thuộc
vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hệ thống pháp lý, mục tiêu phát triển
mà lựa chọn phương pháp quản lý môi trường cho phù hợp với điều kiện của
từng quốc gia, từng địa phương. Nên cùng với cả nước, ban lãnh đạo tỉnh
Lai Châu trong những năm gần đây đã có những chủ trương chính sách, biện
pháp giải quyết các vấn đề về môi trường như: đấy mạnh công tác tuyên
truyền giáo dục về bảo vệ môi trường; ứng dụng khoa học công nghệ tiên


tiến trong sản xuất sạch hơn...
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết bảo vệ môi trường và được sự phân công
của ban chủ nhiệm khoa Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo GS.TS. Nguyễn Thế
Đặng, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Hiện trạng và giải pháp quản lý
môi trường thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên , tỉnh Lai Châu”.


-3-

1.2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được hiện trạng môi trường của thị trấn.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước của thị trấn Tân Un
về mơi trường.
- Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp quản lý và các biện pháp bảo
vệ môi trường có hiệu quả.
1.3. u cầu của đề tài
- Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, KT - XH và phát triển của thị trấn Tân
Uyên. Đánh giá được sự ảnh hưởng của nó đến mơi trường.
- Đánh giá được hiện trạng môi trường của thị trấn.
- Các giải pháp về công tác quản lý nhà nước, quản lý nhân sự và các
biện pháp bảo vệ môi trường được đề xuất phải có tính khả thi.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
- Giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng phân tích, đánh giá.
- Q trình thực tập giúp sinh viên học hỏi được những kinh nghiệm
thực tế, bổ sung những kiến thức phục vụ cho công việc sau này.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý môi trường của cấp cơ sở.
- So sánh với những kiến thức thực tế được trang bị trong nhà trường, từ

đó rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
- Đề xuất những giải pháp hiệu quả cho công tác BVMT.


-4-

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
- Luật số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của nước cộng hồ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ mơi trường (Luật Bảo vệ môi trường).
- Luật tài nguyên nước 1998/QH, 20/05/1998. Nxb Chính trị Quốc gia.
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP, ngày 09/8/2006 của Thủ tướng Chính
phủ “Hướng dẫn thi hành Luật BVMT 2005”.
- Nghị định số 81/2006/NĐ-CP, ngày 09/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ
“Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường”.
- Nghị định số 21/2008/NĐ-CP, ngày 28/02/2008 của Thủ tướng Chính
phủ “Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP, ngày
09/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật BVMT”.
- Nghị quyết số 41/NQTW của Bộ Chính trị “Về tăng cường cơng tác
BVMT trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
- Quyết định số 277/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về việc
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn giai đoạn 2006 - 2010”.
- Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt
chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020.
- Nghị định số 117/2007/NĐ-CP của Chính phủ “Về sản xuất, cung cấp
và tiêu thụ nước sạch”.
- Quyết định số 59/2006/QĐ-BTC của Bộ tài chính “Về việc quy định

mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định, lệ phí cấp phép
thăm dị, khai thác, sử dụng tài ngun nước, xả nước thải vào nguồn nước và
hành nghề khoan”...
- Quyết định số 159/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án “Đổi mới và hiện đại hóa cơng nghệ trong ngành cơng nghiệp khai
khống đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025".


-5-

- Quyết định số 256/2003/QĐ- TTg của thủ tướng chính phủ phê duyệt
“Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia năm 2010 và định hướng đến năm
2020”, trong đó đã đưa ra danh mục 36 chương trình, nhiệm vụ ưu tiên thực
hiện đến năm 2010.
- Kế hoạch quốc gia về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường đến năm 2010
- Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện công ước Stockholm về các
chất ơ nhiễm hữu cơ khó phân hủy.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về định hướng phát triển bền
vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam).
2.2. Cơ sở lý luận
2.2.1. Những khái niệm về môi trường
Theo Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo
quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
* Khái niệm: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân
tạo bao quanh con người có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và sinh vật
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
+ Môi trường tự nhiên: Bao gồm các yếu tố tự nhiên như các yếu tố vật

lý, hoá học và sinh học, tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người.
+ Môi trường xã hội: Là tổng thể các quan hệ giữa người với người tạo
nên sự thuận lợi hoặc trở ngại cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân và
cộng đồng loài người.
+ Môi trường nhân tạo: Là tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội do con
người tạo nên và chịu sự chi phối của con người.
Môi trường theo nghĩa rộng là tổng các nhân tố như khơng khí, nước,
đất, ánh sáng, âm thanh, cảnh quan, xã hội…Có ảnh hưởng tới chất lượng
cuộc sống con người và các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho sinh sống và
sản xuất của con người. Môi trường theo nghĩa hẹp là các nhân tố như: Không


-6-

khí, đất, nước, ánh sáng…liên quan tới chất lượng cuộc sống con người,
không xét tới tài nguyên (Trương Thành Nam, 2006)[5]
2.2.2. Những vấn đề trong quản lý môi trường.
Quản lý môi trường là một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội, có
tác động điều chỉnh các hoạt động của con người dựa trên sự tiếp cận có hệ
thống và các kỹ năng điều phối thông tin.
Quản lý môi trường là một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội, có
tác động điều chỉnh các hoạt động của con người dựa trên sự tiếp cận có hệ
thống và các kỹ năng điều phối thông tin, đối với các vấn đề mơi trường có
liên quan đến con người, xuất phát từ quan điểm định lượng, hướng tới sự
phát triển bền vững và sử dụng hợp lý tài nguyên (Nguyễn Ngọc Nông và cs,
2006)[7].
Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường là một nội dung cụ thể của
quản lý Nhà nước. Đó là việc sử dụng các cơng cụ quản lý trên cơ sở khoa
học, kinh tế, luật pháp để tổ chức các hoạt động nhằm bảo đảm giữ cân bằng
giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ mơi trường. Tổng hợp biện pháp luật

pháp, chính sách, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi
trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội của quốc gia (Khoa học môi
trường đại cương, Lê Văn Khoa, 2001)[3]
Mục tiêu trong công tác quản lý mơi trường hiện nay:
- Khắc phục và phịng chống suy thối, ơ nhiễm mơi trường phát sinh
trong các hoạt động sống của con người.
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ mơi trường, ban hành
các chính sách về phát triển kinh tế xã hội phải gắn với bảo vệ môi trường,
nghiêm chỉnh thi hành luật BVMT.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường từ trung ương
đến điạ phương, công tác nghiên cứu đào tạo cán bộ về môi trường.
- Phát triển đất nước theo các nguyên tắc phát triển bền vững được hội
nghị Rio – 92 thông qua.
- Xây dựng các công cụ hữu hiệu về quản lý môi trường quốc gia, các
vùng lãnh thổ riêng biệt.


-7-

Các nguyên tắc chủ yếu trong công tác quản lý môi trường:
- Hướng tới phát triển bền vững.
- Kết hợp các mục tiêu quốc tế, quốc gia, vùng lãnh thổ và cộng đồng
dân cư trong việc quản lý môi trường.
- Quản lý môi trường xuất phát từ quan điểm tiếp cận hệ thống và cần
được thực hiện nhiều biện pháp và cơng cụ tổng hợp đa dạng và thích hợp.
- Phịng ngừa tai biến, suy thối mơi trường cần được ưu tiên hơn việc
xử lý phục hồi môi trường nếu để xảy ra ô nhiễm.
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền.
2.2.3. Các cơ sở để xây dựng nên hệ thống quản lý môi trường
Cơ sở triết học của quản lý mơi trường

- Ngun lý về tính thống nhất vật chất của thế giới gắn tự nhiên, con
người và xã hội thành một hệ thống rộng lớn: “Tự nhiên - Con người - Xã
hội”. Sự thống nhất của hệ thống trên được thể hiện trong các chu trình sinh
địa hóa của 5 thành phần cơ bản: Sinh vật sản xuất; sinh vật tiêu thụ; sinh vật
phân hủy; con người và các chất vô cơ; hữu cơ cần thiết cho sự sống của sinh
vật và con người.
- Tính thống nhất của hệ thống “Tự nhiên - Con người - Xã hội” gắn
liền với q trình tiến hóa của sinh quyển và lịch sử phát triển của xã hội loài
người. Yếu tố con người là mắt xích quan trọng trong mối quan hệ Tự nhiên Con người - Xã hội, yếu tố Xã hội quyết định sự bảo tồn của sự sống trên trái
đất, nguồn tài nguyên có giá trị khác nhau đối với con người và xã hội loài
người trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Xã hội ngày càng phát triển thì
việc gắn bó với tự nhiên là điều tất yếu. Cơ sở thống nhất của hệ thống Tự
nhiên - Con người - Xã hội được quy định bởi cấu trúc chặt chẽ liên hoàn của
sinh quyển và bởi cơ chế hoạt động theo nguyên tắc tự tổ chức, tự bảo vệ, tự
điều chỉnh, tự làm sạch của chu trình sinh địa hóa. Vì vậy cần phải có quan
điểm hệ thống và toàn diện trong việc giải quyết các vấn đề môi trường và
quản lý môi trường hiện nay.
- Quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển
của xã hội lồi người. Tự nhiên và xã hội đều có một q trình phát triển lịch


-8-

sử lâu dài và phức tạp. Con người và xã hội ngày càng phát triển thì những tác
động đến tự nhiên ngày càng gia tăng. Ngược lại, sự phát triển của con người
không tách rời khỏi tự nhiên và mối quan hệ của con người với xã hội loài
người (Nguyễn Ngọc Nông và cs, 2006)[7].
Cơ sở khoa học – kỹ thuật – công nghệ của quản lý môi trường
Quản lý môi trường là việc thực hiện tổng hợp các biện pháp khoa học,
kỹ thuật, kinh tế, luật pháp, xã hội nhằm bảo vệ môi trường sống và phát triển

bền vững kinh tế, xã hội.
Từ những năm 1960 đến nay, nhiều số liệu, tài liệu nghiên cứu về môi
trường đã được tổng kết và biên soạn thành các giáo trình, chuyên khảo.
Trong đó, có nhiều tài liệu cơ sở, phương pháp luận nghiên cứu môi trường,
các nguyên lý và quy luật môi trường.
Nhờ kỹ thuật và công nghệ môi trường, các vấn đề ô nhiễm do hoạt
động sản xuất của con người đang được nghiên cứu, xử lý hoặc phòng tránh,
ngăn ngừa. Các kỹ thuật phân tích, đo đạc, giám sát chất lượng môi trường
như kỹ thuật viễn thám, tin học,... được phát triển ở nhiều nước trên thế giới.
Quản lý môi trường là cầu nối giữa khoa học môi trường với hệ thống “
Tự nhiên - Con người - Xã hội” đã được phát triển trên nền phát triển của các
bộ môn chuyên ngành (Nguyễn Ngọc Nông và cs, 2006)[7].
Cơ sở kinh tế của quản lý môi trường
Quản lý môi trường được hình thành trong bối cảnh của nền kinh tế thị
trường và thực hiện điều tiết xã hội thông qua các công cụ kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động phát triển và sản xuất của cải
vật chất đều diễn ra với sức ép của sự trao đổi hàng hóa theo giá trị. Loại hàng
hóa có chất lượng tốt và giá thành rẻ sẽ được tiêu thụ nhanh hơn. Trong khi
loại hàng hóa kém chất lượng và đắt sẽ khơng có chỗ đứng. Vì vậy chúng ta
có thể dùng các phương pháp và công cụ kinh tế để đánh giá và định hướng
hoạt động phát triển sản xuất có lợi cho cơng tác bảo vệ mơi trường.
Các công cụ kinh tế rất đa dạng gồm các loại thuế, phí và lệ phí, cota ơ
nhiễm, quy chế đóng góp có bồi hồn, trợ cấp kinh tế, nhãn sinh thái, hệ
thống các tiêu chuẩn ISO. Một số ví dụ về phân tích kinh tế trong quản lý tài


-9-

nguyên và môi trường như lựa chọn sản lượng tối ưu cho hoạt động sản xuất
có sinh ra ơ nhiễm, hoặc xác định mức khai thác hợp lý tài nguyên tái tạo

(Nguyễn Ngọc Nông và cs, 2006)[6].
Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường
Cơ sở luật pháp của quản lý môi trường là các văn bản về Luật quốc tế
và Luật quốc gia về lĩnh vực môi trường.
Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc
tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa các tổ chức quốc tế trong
việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và
mơi trường ngồi phạm vi tàn phá quốc gia.
Các văn bản luật chính thức được hình thành từ thế kỷ XIX và đầu thế
kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. Từ hội nghị quốc tế
về “Môi trường và con người” tổ chức vào năm 1972 tại Thụy Điển và sau
hội nghị thượng đỉnh Rio 92 có rất nhiều văn bản luật quốc tế được soạn thảo
và ký kết.
Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ
luật, trong đó có Luật bảo vệ mơi trường được quốc hội nước Việt Nam thông
qua ngày 27/12/1993, đây cũng là văn bản quan trọng nhất. Chính phủ cũng
ban hành Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật bảo
vệ môi trường và Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 về xử phạt vi phạm hành
chính về bảo vệ mơi trường. Bộ luật hình sự, hàng loạt các thơng tư, nghị
định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện luật môi trường đã
được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường đã được soạn thảo và thông
qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ mơi trường được đề cập đến trong các văn bản
khác như luật khoáng sản, luật đất đai, luật bảo vệ rừng,...
Các văn bản trên cùng với các văn bản về luật quốc tế được nhà nước ta
phê duyệt là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường (Nguyễn Ngọc Nông và cs, 2006)[6].
2.2.4. Các công cụ quản lý môi trường
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công
tác quản lý môi trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi



-10-

một cơng cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ
trợ lẫn nhau.
Công cụ quản lý mơi trường có thể phân loại theo chức năng gồm:
Công cụ điều chỉnh vi mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Công cụ
điều chỉnh vi mơ là luật pháp và chính sách. Cơng cụ hành động là các cơng
cụ có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế – xã hội, như các quy định hành
chính, quy định xử phạt v.v... và cơng cụ kinh tế. Cơng cụ hành động là vũ
khí quan trọng nhất của các tổ chức môi trường trong công tác bảo vệ mơi
trường. Thuộc về loại này có các cơng cụ kỹ thuật như GIS, mơ hình hố,
đánh giá mơi trường, kiểm tốn mơi trường, quan trắc mơi trường. Cơng cụ
quản lý mơi trường có thể phân loại theo bản chất thành các loại cơ bản sau:
• Cơng cụ luật pháp chính sách bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật
quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách mơi
trường quốc gia, các ngành kinh tế, các địa phương.
• Các cơng cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền
của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các cơng cụ này chỉ áp dụng có
hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
• Các cơng cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trị kiểm sốt và giám sát
nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và
phân bố chất ơ nhiễm trong mơi trường. Các cơng cụ kỹ thuật quản lý
có thể gồm các đánh giá môi trường, minitoring môi trường, xử lý chất
thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các cơng cụ kỹ thuật quản lý có
thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế phát triển như
thế nào.
2.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.3.1. Tình hình quản lý mơi trường trên thế giới
Nhận thức được ảnh hưởng nguy hại của ô nhiễm môi trường đối với

việc phát triển bền vững, Hội thảo về Môi trường và Phát triển bền vững của
Liên Hợp Quốc được tổ chức từ ngày 3/6/1992 đến ngày 14/6/1992 tại Rio De


-11-

Janeiro, tại Brazil là một chương trình tồn cầu nhằm giải quyết vấn đề môi
trường và phát triển.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững diễn ra
tại Johannesburg, Nam Phi với sự tham gia của 109 vị nguyên thủ quốc gia,
hơn 45.000 đại biểu của hơn 190 nước và các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội
khác. Nội dung chính của Hội nghị là thu hẹp khoảng cách giữa các nước giàu
và các nước nghèo trên thế giới, xóa bỏ nghèo đói, nhưng khơng làm ảnh
hưởng tới môi sinh. Hội nghị đã thông qua hai văn kiện quan trọng: Tuyên bố
chính trị Johannesburg 2002 và kế hoạch thực hiện. Hai văn kiện này khẳng
định sự cấp thiết phải thực hiện phát triển kinh tế trong tương quan chặt chẽ
với bảo vệ môi trường và bảo đảm công bằng xã hội ở tất cả các quốc gia, khu
vực và toàn cầu. Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội là nội dung quan trọng trong kế hoạch thực hiện.
Tổng chi cho môi trường của các nước thuộc khối liên minh châu Âu
EU là 1,77% GDP, trong đó ngân sách nhà nước chiếm 0,44%; ngành công
nghiệp dịch vụ môi trường chiếm 0,86% và doanh nghiệp chiếm 0,47%. Có
xu hướng chuyển dịch chi BVMT từ nhà nước sang ngành công nghiệp dịch
vụ mơi trường. Ví dụ, khu vực Nhà nước nhà nước giảm từ 0,7% xuống còn
0,44% năm 2006 trong khi công nghiệp dịch vụ môi trường tăng từ 0,8% lên
0,86% GDP năm 2006. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là sự tăng
cường tham gia của doanh nghiệp và ngành công nghiệp môi trường. Kết quả
điều tra từ 39 nước cho thấy, mức chi bình quân từ ngân sách nhà nước cho
môi trường là 0,55%GDP. Cao nhất là Jordan (3,7%), tiếp đó là Butan
(1,94%), Trung Quốc (1,49%), Đan Mạch 1,09%. Thấp nhất là Ghana

(0,02%). Trong khu vực châu Á, cao nhất là Trung Quốc (1,49%), Nhật
(0,44%), Hàn Quốc (0,39%). Chi cho môi trường của Việt Nam năm 2010 là
0,386%, cao hơn Lào (0,06%) và Thái Lan (0,2%) (Tổng cục môi trườngViện Khoa học quản lý mơi trường )[12]
2.3.2. Tình hình quản lý môi trường ở Việt Nam
Tại Việt Nam, quan điểm về áp dụng chứng chỉ kỹ thuật trong quản lý
mơi trường đó được đề cập trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của
Bộ Chính trị về tăng cường cơng tác bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời


-12-

kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết của Bộ Chính trị số
41-NQ/TW ngày 15/11/2004 và gần đây nhất là nghị quyết số
27/BCSĐBTNMT ngày 2/12/2009 của Ban cán sự Đảng Bộ TN&MT về việc
tăng cường chủ trương kinh tế hóa ngành TN&MT.
Thuế và phí mơi trường
Thuật ngữ thuế và phí mơi trường thường được sử dụng để chỉ khoản
thu với hai mục đích: Tạo động lực giảm phát thải ô nhiễm và tạo nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước. Có hai loại thuế/phí mơi trường chính: Thuế đánh
vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường (thuế Pigovian), và thuế nguyên
liệu/sản phẩm (hay còn gọi là thuế gián tiếp).
Hiện tại ở Việt Nam, loại thuế/phí đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra
môi trường đang được áp dụng dưới hình thức phí BVMT đối với nước thải,
đối với chất thải rắn và khai thác khoáng sản.
Phí BVMT đối với nước thải được quy định tại Nghị định 67/2003/NĐCP ngày 13/6/2003. Tuy nhiên, sau hơn 6 năm thực hiện, phí BVMT đối với
nước thải vẫn cịn bộc lộ nhiều bất cập. Các cơ quan quản lý cịn lúng túng
trong cách thu và tính phí. Các doanh nghiệp cũng tìm cách trốn tránh và nợ
phí. Kết quả là tỷ lệ thu phí nước thải cơng nghiệp cịn thấp. Phí BVMT đối
với chất thải rắn thơng thường và chất thải rắn nguy hại được quy định trong
nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007. Ngồi ra, phí vệ sinh được áp

dụng 2003 theo quy định tại Thông tư số 71/2003/TT-BTC ngày 30/7/2003
của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, khoản thu từ các khoản phí này khơng đủ bù
đắp chi phí thu gom, xử lý chất thải rắn. Ngoài ra, các văn bản hiện tại khơng
quy định rõ trách nhiệm thu phí của các đơn vị, tổ chức nên việc thu phí ở các
địa phương cịn gặp nhiều khó khăn.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được thực hiện theo Nghị định
số 63/2008/NĐ - CP ngày 13/5/2008 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thu phí
cịn gặp nhiều khó khăn do đối tượng phải nộp phí chưa tự giác thực hiện
nghĩa vụ này. Cịn tình trạng doanh nghiệp kê khai sản lượng khai thác thấp
hơn thực tế để giảm số phí phải nộp.
Ngồi ba loại phí thuộc nhóm thuế/phí Pigovian nêu trên cịn có Luật
Thuế BVMT mới được thơng qua và sẽ có hiệu lực từ tháng 7/2011. Đây là


-13-

quy định thuế đánh vào nguyên liệu/sản phẩm, bao gồm 8 nhóm sản phẩm:
xăng dầu, than, mơi chất làm sạch chứa HCFC, túi nhựa xốp (túi nilon) và
nhóm hạn chế sử dụng như: thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ
mối và thuốc khử trùng kho. Một điểm đáng lưu ý là thuế BVMT được định
nghĩa là “loại thuế gián thu, thu vào một số sản phẩm, hàng hóa gây tác động
xấu đến mơi trường”. Định nghĩa này là định nghĩa hẹp của thuế BVMT vì
mới đề cập đến loại thuế nguyên liệu/sản phẩm chứ chưa bao hàm loại thuế
đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường. Ưu điểm của việc áp dụng
thuế BVMT đối với ngun liệu/sản phẩm là dễ tính tốn và dễ áp dụng.
Nhược điểm, loại thuế này chỉ khuyến khích gây ô nhiễm mà không khuyến
khích đầu tư xử lý ô nhiễm trong q trình sản xuất ra sản phẩm đó. Vì vậy,
tác động giảm ơ nhiễm của loại thuế này chỉ là tác động gián tiếp (thông qua
việc sản xuất ít đi) chứ không phải tác động trực tiếp vào q trình phát thải ơ
nhiễm. Đối với những hàng hóa thuộc loại xa xỉ thì loại thuế này có tác dụng

nhiều trong việc hạn chế ô nhiễm (thông qua hạn chế tiêu dùng/sản xuất)
nhưng với hàng hóa thiết yếu thì loại thuế này ít có tác dụng giảm ơ nhiễm.
Một số công cụ kinh tế khác
Ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số
71/2008/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Ký quỹ mơi
trường đã đem lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ trong cơng tác kiểm
sốt ơ nhiễm đối với các hoạt động khai thác khống sản. Tuy nhiên, việc áp
dụng cơng cụ này trên thực tế chỉ mới dừng lại các dự án quy mơ nhỏ hoặc
cịn ở giai đoạn thử nghiệm do cơng thức dự tốn chi phí cải tạo, phục hồi mơi
trường, chưa cụ thể, khó thực hiện.
Cơ chế hỗ trợ tài chính cho các các hoạt động BVMT được thực hiện
theo quy định tại Nghị định số 04/2009/NĐ - CP ngày 14/1/2009. Ngoài ra,
thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có những điều khoản
ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch
vụ, thiết bị và công nghệ môi trường. Mặc dù đã có cơ chế hỗ trợ tài chính
song chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia các hoạt động này vì nhu cầu đầu
tư cho mơi trường chưa cao. Nói cách khác, "cầu" cho hoạt động BVMT chưa
đủ cao để kích thích các hoạt động "cung".


-14-

Một cơ chế khác là Quỹ Môi trường đã được hình thành nhằm hỗ trợ
vốn cho các doanh nghiệp đầu tư BVMT như: Quỹ Môi trường cấp quốc gia
(Quỹ BVMT Việt Nam, Quỹ Bảo tồn Việt Nam), Quỹ BVMT các tỉnh/TP,
Quỹ Môi trường ngành. Sau một thời gian hoạt động, các quỹ mơi trường đã
góp phần đưa nguồn vốn của Nhà nước để thực hiện dự án môi trường hiệu
quả; bước đầu huy động được một phần nguồn lực từ trong và ngoài nước cho
các hoạt động BVMT. Tuy nhiên các quỹ này chưa phát huy hết hiệu quả do
nguồn vốn chưa đủ, các doanh nghiệp chưa có nhiều thơng tin về các thủ tục

vay cũng như chưa có áp lực cần vay vốn đầu tư BVMT.
Công cụ công khai hóa thơng tin hoạt động mơi trường của doanh
nghiệp nhằm tạo áp lực từ cộng đồng và người tiêu dùng đến việc doanh
nghiệp tuân thủ các qui định môi trường cũng đã được áp dụng nhưng mới chỉ
ở quy mô nhỏ trong khuôn khổ một số dự án thử nghiệm tại Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh, Bắc Ninh và Quảng Nam. Chương trình cấp Nhãn sinh thái đã
được Bộ TN&MT phê duyệt năm 2009 nhằm khuyến khích các mơ hình sản
xuất và tiêu thụ các sản phẩm thân thiện với mơi trường. Đặt cọc hồn trả,
mặc dù chưa có quy định của nhà nước nhưng cũng đã được áp dụng có tính
tự phát ở một số lĩnh vực như đặt cọc vỏ chai.
Có thể nói một số lượng đáng kể các công cụ kinh tế trong quản lý ô
nhiễm đã được triển khai ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả của các cơng cụ
này cịn chưa được như mong đợi do các quy định còn bất cập, năng lực thực
hiện còn hạn chế đặc biệt là các chế tài chưa đủ mạnh để tạo động lực tuân
thủ các quy định này.
Quản lý môi trường với các doanh nghiệp Việt Nam:
Quá trình hoạt động cơng nghiệp đã ngày càng làm cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường và kết quả là làm suy thối chất lượng sống của
cộng đồng. Điển hình cho vấn đề môi trường hiện nay là vụ Vedan (Đồng
Nai) và Miwon (Phú Thọ) đã để lại hậu quả nặng nề mà theo tính tốn sơ bộ
sẽ mất rất nhiều tiền bạc và thời gian để có thể phục hồi lại mơi trường đó bị
ảnh hưởng. Do đó, bảo vệ môi trường đã trở thành một vấn đề hết sức quan
trọng, là một trong những mục tiêu chính nằm trong chính sách chiến lược
của quốc gia. Ngày nay, vấn đề mơi trường đã được nói nhiều hơn, được nhà


-15-

nước và các bộ ngành quan tâm hơn, được coi như một yếu tố phát triển
song hành cùng kinh tế. Với tình hình thực tế và nhu cầu khơng chỉ từ người

dân, từ chính phủ mà chính cả khách hàng cũng mong muốn các tổ chức đối
tác làm ăn có trách nhiệm hơn với môi trường. Một thực tế hiện nay là luật
bảo vệ môi trường Việt Nam chưa thực sự có tính ngăn chặn và răn đe cao
và nhiều doanh nghiệp vẫn có thể lách luật được. Thứ trưởng Bộ TN&MT
Trần Hồng Hà cho biết: “Khơng chỉ có Vedan, theo thống kê hiện nay, trong
số hơn 100 khu công nghiệp ở Việt Nam có đến 80% đang vi phạm các quy
định về môi trường. Bộ TN&MT đã đang và sẽ tổ chức nhiều đoàn thanh tra
đi khắp các địa phương, lập danh sách đen các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm
trọng, có khả năng bị đóng cửa, trong đó sẽ đặc biệt chú ý đến các điểm
nóng về mơi trường hiện nay như sơng Thị Vải, tỉnh Khánh Hồ, lưu vực
sơng Nhuệ, sơng Đáy....” vậy có nghĩa là 80% các khu cơng nghiệp hiện vẫn
đang nằm ngồi tầm quản lý chặt chẽ về môi trường.
Tại Việt Nam năm 1993, nhà nước đã ban hành Luật bảo vệ môi trường
và hiện nay có rất nhiều các văn bản dưới luật và các hướng dẫn về quản lý
môi trường được ban hành và điển hình mới đây nhất là TT 08 về hướng dẫn
đánh giá tác động môi trường, QĐ 23 về chất thải nguy hại, các quyết định về
sử dụng tài nguyên thiên nhiên…
Với mục đích xây dựng và đưa vào áp dụng một phương pháp tiếp cận
chung về quản lý môi trường, tăng cường khả năng đo lường được các kết quả
hoạt động bảo vệ môi trường, tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng môi
trường cũng như nâng cao hình ảnh tổ chức, năm 1993 tổ chức tiêu chuẩn
quốc tế ISO đã xây dựng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 hướng đến thống nhất việc
quản lý môi trường trong tổ chức một cách có hệ thống.
Với một số những ưu điểm vượt trội trong công tác giảm thiểu các rủi
ro mơi trường thì hiện nay rất nhiều doanh nghiệp đang muốn tiếp cận với
ISO 14000. Thực tế cho thấy để một doanh nghiệp nằm trong khu công
nghiệp, chế xuất.. xây dựng hệ thống xử lý nước thải đôi khi tốn hàng trăm
triệu đồng có khi đến hàng tỷ đồng. Để làm giảm tác động của ô nhiễm doanh
nghiệp có thể có hai lựa chọn, một là đẩy mạnh cơng tác xử lý đầu ra hai là
kiểm sốt thật tốt khâu đầu vào cũng như quá trình sản xuất để giảm thiểu tối

đa chất thải. Thông thường hai cách này được phối kết hợp tuy nhiên do vấn


-16-

đề môi trường chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức dẫn đến việc
kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường trong q trình sản xuất đang cịn rất yếu kém
kể cả mặt chuyên môn lẫn quản lý. Qua thống kê rất nhiều các đơn vị thực
hiện hệ thống quản lý mơi trường ISO 14001 thì thấy rằng doanh nghiệp có
thể không cần đầu tư quá nhiều vào khâu xử lý mà chuyển trọng tâm sang
quản lý thật tốt các quá trình mà có khả năng rủi ro cao về mơi trường cũng
như có nguồn thải cao. Việc quản lý như thế sẽ dẫn đến được việc phân loại
ngay từ đầu nguồn chất thải tạo cơ hội cho việc tái chế chất thải đồng thời
giảm lượng chất thải tổng hợp sau sản xuất (rất khó tái chế) tăng giá trị gia
tăng cho doanh nghiệp. Đây cũng là một trong các yếu tố quan trọng góp phần
cho doanh nghiệp tiếp cận dần với sản xuất sạch hơn. Với việc xác định chính
xác các vấn đề môi trường cần quản lý cũng giúp cho nhà quản lý tập trung
nguồn lực để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả nhất, giúp cho người lao
động trong tổ chức hiểu được các vấn đề mơi trường mà họ đang phải đối mặt
khi đó họ sẽ có các ứng xử tốt hơn với mơi trường. Nhà quản lý cũng dễ dàng
trong việc đặt ra được các chính sách, mục tiêu, kế hoạch để đạt được việc
giảm thiểu nguồn chất thải trong hoạt động của mình.
Như vậy để thấy rằng nếu như các tổ chức áp dụng và duy trì tốt hệ
thống quản lý mơi trường tốt thì việc giảm dần các tác động mơi trường có hại
từ các hoạt động của chính bản thân các tổ chức khơng phải là khó khăn khi
mà chi phí cho việc xây dựng cũng như duy trì hệ thống quản lý môi trường
này nhỏ hơn rất nhiều so với việc họ phải đầu tư vào công nghệ hoặc chi phí
mà các tổ chức doanh nghiệp phải chi trả cho việc xử lý.
Chi tiêu cho môi trường là một trong những cơ chế đảm bảo nguồn lực
thiết yếu trong công tác quản lý nhà nước về môi trường. Ở Việt Nam, nguồn

tài chính cho bảo vệ mơi trường (BVMT) đã được quan tâm. Từ năm 2006
đến nay, chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường từ nguồn ngân sách nhà
nước đã được duy trì ở mức khơng dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, mức chi hiện tại còn chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn, trong bối cảnh các vấn đề ô nhiễm và suy thối mơi
trường ngày một gia tăng.
Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp trong nước vẫn cho rằng
BVMT là công việc của Nhà nước và không ít doanh nghiệp có vốn đầu tư


-17-

nước ngoài lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam để trốn tránh trách nhiệm
BVMT. Người dân chưa thi hành tốt pháp luật về BVMT do nhận thức sai
lệch về vấn đề môi trường. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tài ngun và Mơi
trường, có tới 33,9% số người được hỏi cho rằng tài nguyên của Việt Nam là
vô tận; 36,9% cho rằng tài nguyên rừng của Việt Nam là vô tận; 27,55% cho
rằng chỉ nước mặt mới bị ơ nhiễm, cịn nước ngầm thì khơng; 29,2% cho rằng
mơi trường ở thành phố bị ơ nhiễm, cịn ở nơng thơn thì khơng. Nhận thức sai
lệch trên là một trong những nguyên nhân khiến cho con người có những
hành vi không thân thiện với môi trường, vi phạm pháp luật BVMT; hiểu biết
của người dân về pháp luật, chính sách BVMT hạn chế, có nhiều quy định về
BVMT mà người dân không biết và cán bộ cũng không biết. Điều này tạo ra
một khoảng cách xa giữa việc ban hành luật và thực thi luật, hình thành nên
tâm lý coi thường luật ở người dân. Việc xóa bỏ tâm lý này không phải là
công việc dễ dàng. Theo kết quả khảo sát ở phạm vi hẹp tại Hà Nội về thái độ
ứng xử của người dân đối với hành vi thải rác không đúng nơi quy định của
người khác, chỉ có 12,2% số người được hỏi tỏ thái độ nhắc nhở, có tới 55,1%
khơng tỏ thái độ gì và 11,25% khơng chú ý đến hành vi vi phạm đó. Họ cho
rằng, đây là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường,

không phải của họ; cộng đồng tham gia hoạt động BVMT một cách thụ động.
Trong khi đó, nhiều cơ quan quản lý nhà nước về môi trường chưa thật sự
mạnh dạn trao quyền cho cộng đồng. Kiểu quản lý này làm cho sự tham gia
của cộng đồng vào hoạt động BVMT trở nên bị động, họ chủ yếu chỉ là lực
lượng thực hiện các quyết định quản lý được đưa từ trên xuống. Điều này dẫn
đến hệ quả là, các quyết định quản lý khơng sát thực tiễn cuộc sống, cịn
người dân trở nên thờ ơ và thiếu trách nhiệm giám sát việc thực thi pháp luật
BVMT; công tác truyên truyền, giáo dục về môi trường và BVMT chưa
tốt. Việc vận động nhân dân tích cực tham gia BVMT, vận động họ tự nguyện
thay đổi những thói quen lạc hậu và hình thành những thói quen, nếp sống
thân thiện với mơi trường chưa được quan tâm đầy đủ. Các hoạt động BVMT
do nhà trường tiến hành cịn mang nặng tính phong trào, hình thức, khơng
thường xun. Tình trạng nhận thức và ý thức BVMT chưa trở thành trách
nhiệm của nhiều người đã góp phần làm cho môi trường nước ta ngày càng ô
nhiễm nghiêm trọng. Nhận ra những bất cập nêu trên, Đại hội XI của Đảng
khẳng định: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tồn


-18-

xã hội và của mọi công dân. Điều này cần sớm được thể chế hóa trong hệ
thống pháp luật BVMT của nước ta.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều biện pháp
nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong các văn
bản pháp luật về khắc phục ơ nhiễm, suy thối mơi trường, chúng ta đặc biệt
chú ý tới (Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban
hành ngày 22/4/2003 Về việc phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng) nội dung của Quyết định chỉ rõ: đến năm
2005 phải xử lý triệt để 51 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; đến
năm 2007 tiếp tục xử lý xong 388 cơ sở; đến năm 2012 tiếp tục xử lý xong đối

với 3.856 cơ sở gây ô nhiễm môi trường khác và các cơ sở mới phát sinh. Tuy
nhiên, tính đến tháng 3/2010 (quá thời hạn gần 3 năm) kết quả đạt được vẫn rất
thấp. Trong số 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải xử lý dứt
điểm trong giai đoạn 2003 - 2007, mới có 87 cơ sở (chiếm 19,85%) đã được
cấp chứng nhận hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để; có 27 cơ sở
đã giải thể, phá sản, khơng cịn gây ơ nhiễm mơi trường; 106 cơ sở cơ bản đã
hoàn thành, nhưng chưa được cấp quyết định chứng nhận đã hoàn thành; 194
cơ sở đang triển khai xử lý ô nhiễm môi trường triệt để và 25 cơ sở chưa triển
khai. Như vậy, tính đến tháng 3/2010 vẫn cịn 49,88% số cơ sở gây ơ nhiễm
mơi trường nghiêm trọng, chưa hồn thành việc xử lý ơ nhiễm mơi trường triệt
để. Ngun nhân chính là do mức độ chấp hành các văn bản pháp luật về khắc
phục ơ nhiễm, suy thối mơi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh thời
gian qua rất thấp. Hoạt động kiểm tra, thanh tra quá trình triển khai công tác
BVMT chưa thường xuyên; các vi phạm pháp luật về BVMT chưa được xử lý
kịp thời và việc cưỡng chế thi hành còn nhiều bất cập. Do vậy, tình trạng suy
thối mơi trường, ơ nhiễm mơi trường ở cả thành thị và nơng thơn nước ta đang
có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Trong những năm tiếp theo,
để bảo vệ và cải thiện môi trường sống của người dân thì “Thực hiện nghiêm
ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường” là việc làm cần thiết và
quan trọng của công tác quản lý nhà nước về BVMT. Nếu không làm tốt cơng
việc này thì tình trạng vi phạm pháp luật BVMT sẽ vẫn diễn ra và đó là nguyên
nhân dẫn đến môi trường sống bị hủy hoại


-19-

Phần 3
ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý môi trường tại thị trấn Tân
Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung môi trường rác thải, nước thải.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Thị trấn Tân Uyên
- Thời gian: 01/2012 - 4/2012
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và phát triển của thị
trấn Tân Uyên tới môi trường.
- Điều kiện tự nhiên
- Điều kiện kinh tế - Xã hội
- Các nguồn tài nguyên
- Đánh giá sự phát triển của thị trấn ảnh hưởng đến môi trường
3.3.2. Đánh giá thực trạng môi trường của thị trấn Tân Uyên
- Thực trạng môi trường nước
- Thực trạng môi trường đất và khơng khí
- Rác thải, nước thải
3.3.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về môi trường của
thị trấn Tân Uyên
- Bộ máy quản lý môi trường của thị trấn
- Công tác quản lý môi trường của thị trấn trong những năm gần đây
- Các hoạt động về bảo vệ môi trường
3.3.4. Đề xuất giải pháp quản lý môi trường cho thị trấn Tân Uyên
- Giải pháp về thể chế chính sách
- Giải pháp về nhân sự
- Giải pháp kỹ thuật


-20-


3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và phát triển của thị
trấn Tân Uyên tới môi trường và Đánh giá công tác quản lý nhà nước về
môi trường của thị trấn Tân Uyên
Điều tra, thu thập số liệu thứ cấp:
- Nghiên cứu các văn bản pháp luật, các văn bản dưới luật và các quy
định có liên quan.
- Phương pháp kế thừa thơng tin và số liệu thứ cấp của phịng TN&MT
huyện Tân Uyên và UBND thị trấn Tân Uyên.
3.4.2. Đánh giá thực trạng môi trường của thị trấn Tân Uyên
- Điều tra theo phương pháp quan sát thực trạng và phỏng vấn nhóm
người dân.
3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Mẫu thu được sẽ được phân tích và tiến hành xử lý số liệu dựa trên tiêu
chuẩn Việt Nam hiện hành.


-21-

Phần 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Thị trấn Tân Uyên là trung tâm huyện lỵ, được xác định là vùng kinh tế
có nhiều tiềm năng của huyện, có mạng lưới giao thơng huyết mạch nối liền
với nhiều xã lân cận, thuận lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế, văn hố,
xã hội.
- Phía Bắc giáp xã Phúc Khoa - huyện Tân Uyên - tỉnh Lai Châu.
- Phía Nam giáp xã Trung Đồng và xã Thân Thuộc - huyện Tân Uyên tỉnh Lai Châu.

- Phía Đơng giáp xã Tả Van - huyện Sa Pa - tỉnh Lào Cai.
- Phía Tây giáp xã Mường Khoa - huyện Tân Uyên - tỉnh Lai Châu.
4.1.1.2. Địa hình
Thị Trấn có địa hình chia cắt phức tạp, cao ở phía Đơng Bắc và thấp
dần về phía tây Nam, phổ biến là kiểu địa hình núi cao trung bình có độ dốc
lớn, trên 60% diện tích tự nhiên của thị trấn có độ cao trên 800m, hơn 90%
địa hình có độ dốc lớn hơn 20 - 25 0 và bị chia cắt mạch bởi các dãy núi có độ
cao từ 1500 - 2000m so với mực nước biển.
Điều kiện thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường, mùa khơ hạn hán kéo
dài, mùa mưa có mưa nhiều, kéo dài gây lũ lụt. Điều này ảnh hưởng không
nhỏ tới sản xuất và đời sống của nhân dân.
4.1.1.3. Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu điển hình của vùng nhiệt đới núi cao Tây Bắc,
ngày nóng đêm lạnh, khí hậu phân chia hai mùa rõ rệt; mùa mưa và mùa khô.
Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, có nhiệt độ độ ẩm cao, mùa khô từ tháng 10
đến tháng 3 năm sau vào mùa này khí hậu lạnh độ ẩm lượng mưa thấp.
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 22,250C.


-22-

Lượng mưa trung bình 1.800 - 2.200mm/năm, độ ẩm khơng khí trung
bình 80%.
- Dựa trên điều tra khí hậu,thuỷ văn trong khu vực dựa trên số liệu thống
kê trong niêm giám năm 2006 Cục thống kê Tỉnh Lai Châu cụ thể như sau:
+ Nhiệt độ cao nhất trong năm: 30oC
+ Nhiệt độ thấp nhất trong năm: 15,44oC
+ Nhiệt độ trung bình trong năm: 22,9 oC
+ Độ ẩm khơng khí cao nhất trong năm: 87%
+ Độ ẩm khơng khí thấp nhất trong năm: 75%

+ Độ ẩm khơng khí trung bình trong năm: 81 %
+ Lượng mưa trung bình lớn nhất: 375 mm/tháng
+ Lượng mưa trung bình nhỏ nhất: 22 mm/tháng
+ Lượng mưa trung bình 5 năm gần đây: 2872 mm/năm
+ Tốc độ gió lớn nhất: 22/m/s.
4.1.1.4. Thủy văn
Thị Trấn Tân Uyên có hệ thống mạng lưới các con suối khá dày đặc, có
các con suối lớn là: suối Nậm Pầu, suối Nà Cóc, suối Nậm Chăng To, suối
Chăng Lng, suối Nậm Giàng, suối Tát Xôm, suối Nậm Chẳng, suối Nậm
Be, suối Chạm Cả....
Hệ thống suối này là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho hoạt động sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Do lượng mưa hàng năm phân bố không đồng đều nên mùa mưa quá dư
thừa nước gây ra lũ lụt, về mùa khơ thì thiếu nước, dịng thủy cạn kiệt gây
cháy rừng và ảnh hưởng tới sản xuất của nhân dân, vụ Đơng Xn khơng gieo
cấy hết diện tích do hạn hán, vụ hè thu dịch bệnh phát triển, năng suất thấp.
4.1.1.5. Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên tồn thị trấn là 7.020,34 ha, trong đó:
- Đất nơng nghiệp
: 5.360,99 ha.
- Đất phi nông nghiệp
: 271,91 ha.
- Đất chưa sử dụng
: 1.364,97 ha.
- Đất đô thị
: 7.020,34 ha.


-23-


Các yếu tố về địa chất thổ nhưỡng :
Tân Uyên có 2 loại đất cơ bản: Feralit đỏ vàng và đất Feralit vàng đỏ
Nhìn chung, đất đai trên địa bàn thị trấn có hàm lượng mùn cao nhưng
thường xuyên bị q trình Feralit hóa xảy ra, đất được hình thành từ nền đá
trầm tích và thảm thực vật. Điều kiện thuận lợi về đất đai và địa hình đã tạo
nên vùng nguyên liệu chè có tiếng trong khu vực.
4.1.1.6. Tài nguyên nước
Nước là nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu
của sự sống và môi trường.
Nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân thị trấn
được lấy từ 2 nguồn:
• Nguồn nước mặt
Thị trấn Tân Uyên có nguồn nước mặt khá dồi dào từ các con suối. Trên
địa bàn thị trấn có hệ thống mạng lưới các con suối khá dày đặc, có các con
suối lớn là: Suối Nậm Pầu, suối Nà Cóc, suối Nậm Chăng To, suối Chăng
Lng, suối Nậm Giàng, suối Tát Xôm, suối Nậm Chăng, suối Nậm Pe, suối
Chạm Cả…
Với lượng nước mặt dồi dào để cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của
người dân trong thị trấn. Tuy nhiên, do lượng nước mưa phân bố không đồng
đều trong năm, mùa khô thời tiết khô hanh, hạn hán, mùa mưa có mưa nhiều,
lũ lụt gây ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
• Nguồn nước ngầm
Do địa hình là đồi núi cao nên nguồn nước ngầm của thị trấn khó khai
thác. Sản xuất và sinh hoạt của người dân trong thị trấn chủ yếu là từ nguồn
nước mặt.
4.1.1.7. Tài nguyên rừng
Tính đến tháng 1 năm 2011, tổng diện tích đất rừng trên địa bàn thị trấn
là 2.917,50 ha, độ che phủ đạt 58,19%, với tỉ lệ che phủ rừng là 41,56%.
Trong đó, rừng sản xuất là 143,10 ha, rừng phòng hộ là 2.774,40 ha. Với :



-24-

- Rừng tự nhiên có diện tích 2.774,40 ha chiếm 39,52% tổng diện tích
tự nhiên.
- Rừng trồng có diện tích 143,10 ha chiếm 2,04% tổng diện tích tự nhiên.
Trên địa bàn thị trấn đã tiến hành khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên,
trồng rừng mới nhưng hiện nay vẫn còn một phần lớn diện tích đất chưa sử
dụng cần được đưa vào trồng rừng giai đoạn tới để nâng cao độ che phủ rừng
hơn nữa.
4.1.1.8. Tài nguyên nhân văn
Trên địa bàn thị trấn Tân Uyên có 11 dân tộc sinh sống nhưng chủ yếu
là dân tộc Kinh, Mông, Thái, Khơ Mú… Các dân tộc trong thị trấn đã có q
trình cộng cư lâu dài giao lưu cả về kinh tế văn hóa và hơn nhân… Nhưng vẫn
bảo tồn những nét đặc trưng riêng về văn hóa. Nhân dân các dân tộc trong
toàn thị trấn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, yên tâm sản xuất
phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, từng bước xóa đói giảm
nghèo. Những giá trị văn hóa truyền thống, các lễ hội nhân dân, những giá trị
văn hóa phi vật thể quý giá, là nguồn tài nguyên nhân văn cần được gìn giữ,
phát huy và tạo nên sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Điều kiện kinh tế
Cùng với sự phát triển chung của toàn huyện trong thời kỳ đổi mới,
trong những năm vừa qua nền kinh tế của thị trấn có những bước phát triển
cao theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời sống của nhân được cải
thiện. Bên cạnh đó vẫn cịn gặp nhiều khó khăn do địa bàn mới được chia tách
giao thơng cịn khó khăn, trên địa bàn nhiều dân tộc sinh sống.
Trồng trọt
- Tổng sản lượng lương thực có hạt: 3.151,1 tấn/3.031 tấn đạt 104% KH
(tăng 7% so năm 2010).

- Tổng diện tích đất gieo trồng: 1.439 ha/1.401 ha đạt 103% KH.
Trong đó:
- Cây lúa: Thực hiện vụ Đông xuân 178 ha/175 ha đạt 102% KH, năng
suất bình quân 59 tạ/ha; vụ mùa 366/348 ha đạt 105% KH, năng suất bình


-25-

quân 46 tạ/ha; tổng sản lượng 2.733,8 tấn đạt 103% KH (tăng 1,3% diện tích
so với năm 2010). Thực hiện đề án 50 ha "Sản xuất lúa hàng hoá, chất lượng"
giống hương thơm số 1 tại 3 điểm (Khu 24, Chạm Cả, Huổi Luồng), năng suất
bình quân 44 tạ/ha.
- Cây ngô: Thực hiện 107 ha/100 ha đạt 107% (tăng 8% so với năm
2010), năng suất đạt 39 tạ/ha, sản lượng 417,3 tấn.
- Cây lạc: Thực hiện 17 ha/13 ha đạt 131% KH (tăng 31% so với năm
2010), sản lượng đạt 23,8 tấn.
- Cây đậu tương: thực hiện 10 ha/10 ha đạt 100% KH, sản lượng 13 tấn.
- Khoai các loại: Thực hiện 13 ha/KH 8 ha đạt 162,5% KH (tăng 30%
so với năm 2010), sản lượng 221 tấn.
- Cây sắn thực hiện 23 ha/17 ha đạt 135,3% KH (giảm 6% so với năm
2010).
- Các cây trồng khác (măng tre điền trúc, giong giềng, mía, cỏ voi…):
Thực hiện 10 ha/KH 10 ha đạt 100% KH.
- Rau các loại: Thực hiện 45 ha/45 ha đạt 100% KH, sản lượng 185 tấn.
- Cây ăn quả: Tổng diện tích 40 ha/40 ha đạt 100% KH, sản lượng đạt
99 tấn.
- Cây thảo quả tổng diện tích 50 ha/50 ha đạt 100% KH, sản lượng 10 tấn.
* Các hoạt động hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.
- Uỷ ban nhân dân thị trấn đã ký hợp đồng với Chi nhánh vật tư Nông
nghiệp Tân Uyên cung ứng cho nhân dân 2 bản Chạm cả, Huổi Luồng vay 17

tấn phân NPK trả chậm để sản xuất.
- Vận động nhân dân thực hiện cây trồng vụ đông: 12 ha (ngơ, rau,
khoai tây).
- Thực hiện mơ hình 15 ha "Sản xuất lúa hàng hoá, chất lượng" giống
hương thơm số 1 tại 4 điểm (Chạm Cả, 5, 24, 26) do Trung tâm Khuyến
nơng tỉnh đầu tư, năng suất bình qn 47 tạ/ha; giống lúa xác nhận của
Cơng ty giống Thái Bình thực hiện 2,1 ha tại tổ dân phố 3, năng suất bình
quân 50 tạ/ha.


×