Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Vai trò của bảo hiểm đối với tăng trưởng kinh tế và số liệu thực tế tại thị trường bảo hiểm Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.17 KB, 10 trang )

VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ SỐ LIỆU THỰC TẾ TẠI THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
ThS. Đặng Thị Minh Thủy
Khoa Bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế Q́c dân
Tóm tắt
Bài viết tập trung vào việc tóm tắt và đưa ra các quan điểm nghiên cứu từ các tác giả
khác nhau về vai trò của ngành Bảo hiểm đối với tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các nghiên
cứu đều chỉ ra rằng, ngành Bảo hiểm có tác đợng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế
của mỗi quốc gia. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra các số liệu minh chứng mối quan hệ cùng
chiều của ngành Bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Từ khóa: Bảo hiểm, tăng trưởng kinh tế, bảo hiểm nhân thọ, tài chính

1. Giới thiệu
Đối với lĩnh vực tài chính, bảo hiểm từ lâu đã được xem là nhà cung cấp dịch vụ quản
lý rủi ro của lĩnh vực này. Quả thực, hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là rất
cần thiết cho sự phát triển của ngành Ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực cho vay có bảo
đảm. Bảo hiểm cũng thúc đẩy thương mại và kinh doanh quốc tế giữa các quốc gia, do đó tạo
ra doanh thu cho ngân hàng. Tương tự như vậy, với nguồn phí bảo hiểm dài hạn của mình,
các DNBH có thể đầu tư dài hạn hơn và do đó khuyến khích sự phát triển của thị trường trái
phiếu địa phương và các sàn giao dịch chứng khốn. Tất cả các hoạt động đó đều góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các DNBH cung cấp nhiều loại sản phẩm, được phân thành nhóm bảo hiểm nhân thọ
và phi nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ, ở dạng chung nhất, là sự đảm bảo trả một số tiền cụ thể
cho người thụ hưởng khi người được bảo hiểm qua đời hoặc cho những người được bảo hiểm
sống quá một độ tuổi nhất định. Ngược lại, bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm tất cả các loại
hình bảo hiểm khác, chẳng hạn như: bảo hiểm trách nhiệm tài sản, bảo hiểm xe cơ giới, bảo
hiểm hàng hải... Vì bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ có những vai trò khác nhau trong quản
lý rủi ro và bồi thường nên tác động cụ thể của chúng sẽ được nghiên cứu riêng biệt cũng như
về tác dụng kết hợp của chúng.
Trong nghiên cứu của mình, Kathy Avram và cộng sự (2010) sử dụng hai thước đo về
bảo hiểm – tỷ lệ thâm nhập bảo hiểm (phí bảo hiểm tính theo phần trăm GDP) và mật độ bảo


hiểm (phí bảo hiểm thực tế trên đầu người) – để so sánh tác động của từng chỉ tiêu. Để xem
xét mối quan hệ giữa bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế, Kathy Avram và cộng sự (2010) sử
265


dụng kỹ thuật ước tính mặt cắt và bảng điều khiển động trên tập dữ liệu gồm 93 quốc gia
trong giai đoạn 1980, mơ hình GMM do Arellano và Bond phát triển (1991) và Arellano và
Bover (1995). Kết quả đưa ra là ngành Bảo hiểm nói chung, cũng như bảo hiểm nhân thọ và
phi nhân thọ nói riêng, có mối quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế.
Một nghiên cứu khác của Ward và Zurbruegg (2000) về mối quan hệ giữa bảo hiểm và
tăng trưởng kinh tế kết luận rằng, các quốc gia có nền kinh tế khác nhau thể hiện mối quan hệ
trên khác nhau. Điều này cho thấy mối quan hệ bảo hiểm - tăng trưởng kinh tế có thể mang
tính đặc thù của từng quốc gia. Quan sát dữ liệu sơ bộ của nghiên cứu cho thấy mức độ thâm
nhập bảo hiểm (insurance penetration) và mật độ bảo hiểm (insurance density) cao hơn đối
với các nước giàu nhưng thấp hơn đáng kể đối với những người có thu nhập thấp. Bằng
chứng cho thấy một nước càng phát triển thì sự phát triển của ngành Bảo hiểm càng tác động
sâu rộng hơn đến tăng trưởng kinh tế.
Ngành Tài chính ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thơng qua nhiều kênh khác nhau,
chủ yếu bằng các công cụ đa dạng hóa rủi ro, giảm rủi ro thanh khoản và giảm thiểu thông tin
bất cân xứng giữa người đi vay và người cho vay (Pietrovito, 2009). Theo nghiên cứu của
Levine (2005), phát triển tài chính ảnh hưởng đến các quyết định tiết kiệm và đầu tư của
người dân và doanh nghiệp, từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, sự ảnh hưởng này
được thể hiện thông qua 6 chức năng: (i) giảm chi phí nghiên cứu cho các khoản đầu tư tiềm
năng; (ii) hoạt động quản trị doanh nghiệp; (iii) giao dịch, đa dạng hóa và quản lý rủi ro; (iv)
huy động và gộp chung các khoản tiết kiệm; (v) trao đổi hàng hóa và dịch vụ, và (vi) giảm
thiểu hậu quả tiêu cực của các cú sốc ngẫu nhiên đối với đầu tư vốn. Các chức năng này giúp
bù đắp sự khơng hồn hảo và ma sát thương mại của thị trường, dẫn đến việc giảm chi phí
giao dịch trong việc đáp ứng các yêu cầu về thanh khoản và rủi ro, đồng thời thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bằng việc phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn (Khan và Senhadji, 2000).
Nằm trong hệ thống tài chính, bảo hiểm được coi là một cơng cụ hữu hiệu cho việc đa

dạng hóa rủi ro. Cơ chế chuyển giao rủi ro của bảo hiểm giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
theo một số cách khác nhau. Với hoạt động chuyển giao và gộp chung các nhóm rủi ro tương
đồng, bảo hiểm giúp thúc đẩy sự ổn định tài chính cho cả doanh nghiệp và hộ gia đình.
Thơng qua việc thu phí sản phẩm bảo hiểm, các doanh nghiệp đồng thời cam kết chi trả cho
các tổn thất ngẫu nhiên và có giá trị lớn. Tương tự, các cá nhân có chia nhỏ những tổn thất tài
chính của mình theo thời gian và cho những người khác khi tham gia một quỹ bảo hiểm. Từ
đó, kinh tế hộ gia đình và thậm chí là thu nhập liên tục của gia đình sẽ được đảm bảo dù cho
rủi ro tài chính có thể xảy ra trong tương lai (Soo, 1996).
Thơng qua dịch vụ giảm thiểu rủi ro và chuyển giao, bảo hiểm có thể giúp giảm thiểu
rủi ro tổng thể cho nền kinh tế mỗi nước. Cơ chế gộp chung cũng như quy luật số lớn cho
phép DNBH chuyển đổi các rủi ro ngẫu nhiên riêng lẻ thành các danh mục tổn thất cố định
và có thể dự đốn được. Trong q trình đó, việc giảm thiểu rủi ro có thể đạt được thông qua
266


đa dạng hóa danh mục đầu tư cũng như tạo ra các động lực khuyến khích doanh nghiệp bảo
hiểm đo lường và quản lý rủi ro hiệu quả hơn (UNCTAD, 2005). Hoạt động này từ đó đóng
góp vào việc quản lý hiệu quả tổng rủi ro của một quốc gia.
Bên cạnh việc giảm thiểu tổng rủi ro cho một quốc gia, các doanh nghiệp bảo hiểm
cũng giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động mua - bán, thương mại và kinh
doanh. Đối với lĩnh vực thương mại, việc giảm thiểu rủi ro (đặc biệt là thông qua bảo
hiểm hàng hóa) cho phép tiếp cận các thị trường nước ngoài dễ dàng và an toàn hơn (Soo,
1996). Nếu bảo hiểm làm tăng thương mại và xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đến tăng
trưởng kinh tế (Berg và Schmidt, 1994) thì tăng trưởng bảo hiểm cũng sẽ giúp kích thích
tăng trưởng kinh tế.
Các thành phần kinh tế khác cũng được hỗ trợ bởi cơ chế chuyển giao rủi ro của
DNBH. Điều này áp dụng cho cả lĩnh vực thực tế (ví dụ: sản xuất, hàng khơng, vận
chuyển…) và lĩnh vực tài chính (kế tốn, ngân hàng…). Ví dụ, vai trò của bảo hiểm tài
sản và bảo hiểm hỏa hoạn trong việc bảo vệ tài sản thế chấp là rất quan trọng trong việc
thúc đẩy hoạt động cho vay của ngân hàng (Zou và Adams, 2006). Tương tự, bảo hiểm

người cho vay (lender-mortgage insurance) có thể làm giảm rủi ro tín dụng của ngân hàng
thơng qua việc bảo vệ người đi vay khơng bị vỡ nợ; do đó, nó thúc đẩy cho vay nhiều
hơn. Nhìn chung, các dịch vụ giảm thiểu rủi ro của bảo hiểm cho việc đẩy mạnh sự phát
triển và tính linh hoạt của khơng chỉ lĩnh vực tài chính mà cịn của các lĩnh vực khác. Các
sản phẩm bảo hiểm sáng tạo hơn cũng có thể tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh
mạo hiểm hơn diễn ra.
Các DNBH cũng huy động và tạo kênh tiết kiệm. Bảo hiểm nhân thọ huy động các
khoản tiết kiệm từ khu vực hộ gia đình và chuyển chúng đến khu vực công và doanh nghiệp.
Với thời gian đáo hạn dài của các khoản phải trả, các DNBH nhân thọ có thể đóng một vai
trị lớn trong cả thị trường vốn chủ sở hữu và thị trường trái phiếu. Mức độ tiết kiệm cao hơn
có xu hướng đi kèm với tăng trưởng kinh tế nhanh hơn (UNCTAD, 2005).
Bên cạnh đó, bảo hiểm nhân thọ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của cá nhân và ổn
định xã hội, do đó làm giảm các vấn đề xã hội cho ngân sách của Chính phủ (Skipper, 1997).
Khi giảm rủi ro, các cá nhân có thể tập trung vào các hoạt động khác. Bảo hiểm nhân thọ và
niên kim với mục tiêu là lập kế hoạch hưu trí cá nhân, có thể giúp giảm nhu cầu về an sinh xã
hội của mỗi người. Bảo hiểm sức khỏe tư nhân, ở một mức độ nào đó, cũng có thể thay thế
cho các chương trình y tế cơng cộng hay bảo hiểm y tế nhà nước. Chính các nghiệp vụ bảo
hiểm trên sẽ giảm bớt căng thẳng cho người nộp thuế và cho phép việc phân bổ hiệu quả hơn
các nguồn quỹ của Chính phủ (UNCTAD, 2005).
Trên thị trường tài chính, các DNBH có thể giúp giảm thiểu tình trạng bất cân xứng
thơng tin. Các DNBH có động cơ kinh tế mạnh mẽ để thu thập thông tin quan trọng về các
267


công ty, dự án và nhà quản lý nhằm xác định mức độ rủi ro của họ trước khi quyết định có
bảo hiểm hay khơng và với mức giá nào. Trong q trình này, các DNBH có thể cung cấp
các tín hiệu và thơng tin nhất định về các cơng ty này, giúp thúc đẩy việc phân bổ nguồn vốn
hiệu quả hơn của thị trường tiền tệ (Antzoulatos, Kyriazis và Tsoumas, 2007).
Tuy nhiên, bảo hiểm chỉ nhận được sự chú ý tương đối ít trong các nghiên cứu phân
tích về tăng trưởng tài chính. Thay vào đó, hầu hết các nghiên cứu về mối quan hệ tài chính tăng trưởng kinh tế chỉ tập trung vào mảng ngân hàng (King và Levine, 1993a, 1993b) và thị

trường chứng khoán (Levine và Zervos, 1996, 1998). Trong nghiên cứu của mình về bảo
hiểm, Ward và Zurbruegg (2000) đã kết luận rằng, bảo hiểm có tác động đến tăng trưởng
kinh tế ở một số quốc gia. Webb, Grace và Skipper (2002) còn phát hiện ra rằng, hoạt động
bảo hiểm cùng với hoạt động ngân hàng (tạo thành biến trung gian tài chính) có mối quan hệ
cùng chiều đáng kể với tăng trưởng kinh tế. Haiss và Sumegi (2008) cũng đưa ra ý kiến:
doanh thu phí bảo hiểm có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. Không chỉ
thế, Arena (2008) và Han và cộng sự (2010) còn chỉ ra rằng, cả bảo hiểm nhân thọ và phi
nhân thọ đều có tác động tích cực và quan trọng đến tăng trưởng kinh tế.
Các nghiên cứu về thị trường bảo hiểm nhân thọ đã phát hiện ra rằng, một nền kinh tế
càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ của con người cũng càng cao hơn. Beck và
Webb (2003) phát hiện ra những quốc gia có thu nhập bình qn đầu người cao, lạm phát
thấp và hệ thống ngân hàng phát triển tốt có mức tiêu thụ bảo hiểm nhân thọ cao hơn so với
các quốc gia khác.
2. Nội dung
Ngành Bảo hiểm, đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, được coi là một sản
phẩm mà khách hàng thường mua cho người thân và gia đình của mình, với mục đích những
người đó sẽ được chăm sóc/hỗ trợ tài chính trong trường hợp rủi ro xảy ra. Do đó, bảo hiểm
đã và đang tác động đến một số mặt của xã hội. Tuy nhiên, bảo hiểm thực chất đòi hỏi một
lượng đáng kể dòng tiền chảy từ người được bảo hiểm sang DNBH thơng qua cơ chế phí bảo
hiểm. Ngược lại, dòng tiền này lại chảy từ DNBH sang người được bảo hiểm thông qua cơ
chế bồi thường/chi trả trong trường hợp rủi ro xảy ra. Trước khi khi quyền lợi được chi trả,
phí bảo hiểm sẽ được chuyển đến nền kinh tế, trong đó có thị trường tài chính. Vì vậy, các
DNBH cùng với các quỹ hưu trí là một trong những nhà đầu tư hàng đầu trên thế giới, khi tài
sản của họ được quản lý lên tới hàng nghìn tỷ đơ la. Tài sản hưu trí trong khu vực OECD đạt
mức cao kỷ lục 43,4 nghìn tỷ USD vào năm 2017 (OECD, 2018b) và có mức sụt giảm nhẹ do
COVID-19; tính đến cuối năm 2020, quỹ hưu trí đặt 34,2 nghìn tỷ USD (OECD, 2021). Theo
Liên hợp quốc (2016), tài sản bảo hiểm ở các quốc gia được OECD giám sát đạt 23,7 nghìn
tỷ USD (OECD 2018a) vào năm 2016, trong khi đó, lên tới 31 nghìn tỷ USD. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, mặc dù ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19 cuối năm 2019 nhưng dòng tiền đầu tư
268



trở lại cho nền kinh tế lại có xu hướng tăng do nhu cầu về bảo hiểm con người (bao gồm cả
nhân thọ và phi nhân thọ) tăng cao. Biểu đồ dưới đây minh chứng cho sự gia tăng đó.
Hình 1. Số tiền đầu tư trở lại cho nền kinh tế của ngành bảo hiểm Việt Nam
giai đoạn 2014 - 2021
Đơn vị: tỷ VNĐ

700.000

577.069

600.000
468.563

500.000
378.504

400.000
324.262
300.000

249.134
198.150

200.000

160.258
127.061


100.000
0
2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Nguồn: Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm
Các DNBH Việt Nam có cơ cấu đầu tư khá phong phú nhưng tập trung chủ yếu phần
lớn vào các danh mục ít rủi ro là gửi tiền tại các tổ chức tín dụng và mua trái phiếu Chính
phủ. Số tiền đầu tư này vào năm 2021 là 577.069 tỷ đồng, gấp hơn 4 lần so với con số của
năm 2014 là 127.061 tỷ đồng.
Theo đó, các DNBH đóng góp vào việc cung cấp tài chính cho các Chính phủ, cũng
như các tập đồn, vì họ đầu tư và mua vốn cổ phần tại cả hai khu vực nhà nước và tư nhân.
Trong hầu hết các trường hợp, một phần lớn các khoản đầu tư này được trả lại cho nền kinh
tế địa phương của quốc gia nơi họ cư trú hoặc kinh doanh. Từ góc độ đó cho thấy, bảo hiểm
đóng góp rất lớn vào sự tăng trưởng của nền kinh tế thơng qua việc thu phí bảo hiểm.
Tại Việt Nam, sự phát triển của ngành Bảo hiểm có đóng góp khơng nhỏ vào GDP khi
tổng tài sản bảo hiểm tăng, dẫn đến doanh thu phí tăng và từ đó đóng góp vào GDP những

con số đáng kể. Điều này được thể hiện rõ trong biểu đồ dưới đây.

269


Hình 2. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2014 – 2021

Tỷ VNĐ

%

800.000

4

700.000

3,5

600.000

3

500.000

2,5

400.000

2


300.000

1,5

200.000

1

100.000

0,5

0

0
2014

2015

2016

2017

Tổng tài sản bảo hiểm

2018

2019


2020

2021

Tổng doanh thu phí

Đóng góp vào GDP của ngành bảo hiểm

Nguồn: Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm
Biểu đồ trên đã chỉ ra sự gia tăng đồng đều về tổng tài sản bảo hiểm, tổng doanh thu
phí bảo hiểm và từ đó đóng góp vào GDP của ngành Bảo hiểm cũng gia tăng qua giai đoạn
2014 - 2021. Năm 2014, ngành Bảo hiểm đóng góp vào GDP là 1,71%, con số này tiếp tục
tăng mạnh với chỉ số là 2,62% cho năm 2017; 3,07% cho năm 2019 và đạt mức 3,55% cho
năm 2020.
Đóng góp chủ yếu của các DNBH vào nền kinh tế dựa trên các hoạt động bồi thường
mà họ cung cấp cho các cá nhân và tổ chức là khách hàng của mình trong trường hợp xảy ra
các sự kiện bảo hiểm. Các cá nhân có thể bảo vệ thu nhập của họ (hoặc tài sản), theo đó, tồn
bộ hoặc một phần thu nhập đó sẽ được chảy vào nền kinh tế dưới hình thức tiêu dùng hoặc
đầu tư. Doanh nghiệp mua bảo hiểm có thể tiếp tục hoạt động ngay cả khi cơ sở kinh doanh
của họ gặp tổn thất. Do đó, khả năng tạo doanh thu của họ khơng bị ảnh hưởng và họ có thể
tiếp tục cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ cho nền kinh tế mà không bị gián đoạn. Đồng thời,
270


doanh nghiệp cũng giữ được tiến độ trả lương cho nhân viên, cổ tức cho cổ đơng và đóng
thuế cho Nhà nước. Ngồi ra, các DNBH cịn cung cấp các chương trình tích lũy thu nhập
(lương hưu/hưu trí tự nguyện) giúp khách hàng tiết kiệm để dành khi nghỉ hưu. Các chương
trình này có thể giúp các quốc gia giảm gánh nặng về lương hưu an sinh xã hội và hướng quỹ
nhà nước vào các nhu cầu xã hội khác cấp thiết hơn. Đồng thời, những người được bảo hiểm
đã có thể tự thu xếp, bảo vệ về mặt tài chính, được bảo hiểm chi trả bồi thường khi khơng

may xảy ra tai nạn, ốm đau, mà không cần tới sự hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước.
Biểu đồ dưới đây đưa ra các con số về sự đóng góp của của ngành Bảo hiểm và sự ổn
định kinh tế - xã hội tại Việt Nam thông qua hoạt động chi trả bồi thường và tiền bảo hiểm
cho khách hàng.

Hình 3. Số tiền bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm
của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2014 - 2020
60.000

Đơn vị: Tỷ VNĐ
50.000

40.000

30.000

20.000

10.000

0
2014

2015

2016

2017

2018


2019

2020

Nguồn: Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm
Số liệu trên cho thấy, chỉ riêng trong vòng 7 năm (2014 - 2020), số tiền các doanh
nghiệp đã bồi thường và chi trả cho khách hàng của mình đã tăng lên hơn gấp đơi. Năm
2014, con số này chỉ là 21.799 tỷ đồng, tuy nhiên, đến năm 2020 thì số tiền mà bên mua bảo
hiểm nhận được lên đến 48.768 tỷ đồng.
Đóng góp lớn thứ hai của các DNBH cho nền kinh tế cũng tương tự như các doanh
nghiệp khác. Họ trả lương cho nhân viên và đại lý của họ, đóng thuế cho Chính phủ, cổ tức
cho cổ đông và lãi cho người cho vay. Hơn nữa, DNBH có thể đóng góp cho xã hội thơng
qua các chương trình trách nhiệm xã hội của mình. Tất cả các dịng tiền này (hoạt động bồi
thường, chi trả tiền lương, thuế, cổ tức, tiền lãi và các khoản đóng góp) tạo thành nguồn thu

271


nhập cho các bên liên quan nói trên, những người này sẽ được chi tiêu hoặc đầu tư, và do đó,
dịng tiền được quay trở lại (trực tiếp hoặc gián tiếp) cho nền kinh tế.
Cuối cùng, bảo hiểm được kỳ vọng sẽ đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế
thông qua các khoản chi trả cho các yêu cầu bồi thường cho khách hàng và các chi phí hoạt
động của doanh nghiệp.
Tính đến cuối năm 2020, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã tạo công ăn việc làm cho
hơn 1.000.000 lao động là nhân viên và đại lý bảo hiểm với thu nhập ổn định, được đào tạo
về tài chính, bảo hiểm. Theo Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, số lượng nhân lực được đào
tạo chuyên môn về bảo hiểm trong ngành càng gia tăng do nhu cầu của thị trường với mong
muốn mở rộng và phát triển hơn nữa. Số liệu trong biểu đồ dưới đây thể hiện rõ điều đó.


Hình 4: Số lượng nhân viên và đại lý bảo hiểm
giai đoạn 2014 -2020 tại thị trường Việt Nam
1.200.000

Đơn vị: Người

1.000.000
800.000
600.000

400.000
200.000
0
2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Nguồn: Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm
Trong giai đoạn 2014 - 2020, số lượng nhân viên và đại lý bảo hiểm có tốc độ tăng
trung bình xấp xỉ 0,2%/năm. Trong năm 2014, chỉ có 437.173 nhân viên và đại lý, tăng lên

con số 773.541 vào năm 2017 và đạt đến 1.102.297 vào năm 2020.
3. Kết luận
Thị trường bảo hiểm ngày càng thể hiện được vai trị của mình trong nền kinh tế - xã
hội, đặc biệt là qua giai đoạn Việt Nam cũng như thế giới phải đối mặt với đại dịch COVID19. Thông qua cơ chế chia sẻ rủi ro và bồi thường của mình, các DNBH bên cạnh việc chi trả
bồi thường cho khách hàng trong trường hợp ốm đau hoặc sức khỏe giảm sút do bệnh dịch,
thì họ cịn hỗ trợ khách hàng là doanh nghiệp khi bị gián đoạn kinh doanh trong thời kỳ kinh
tế và giao thương quốc tế bị đóng cửa và thu hẹp.

272


Do đó, để thị trường bảo hiểm được phát triển hơn nữa, Chính phủ Việt Nam cần tạo
một khung pháp lý hiệu quả hơn để mở cửa thị trường bảo hiểm, tạo điều kiện cho các DNBH
nước ngoài thâm nhập dễ dàng hơn. Đồng thời, Chính phủ cũng cần có thêm các chính sách hỗ
trợ cho các DNBH trong nước phát triển hơn nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antzoulatos, A. A., Kyriazis, D., & Tsoumas, C. (2007), Financial development and
asymmetric information. Unpublished Working paper. University of Piraeus, Greece.
2. Arellano, M., & Bond, S. (1991), “Some tests of specification for panel data: Monte
Carlo evidence and an application to employment equations”, Review of Economic
Studies, 58(2), 277 - 297.
3. Arellano, M., & Bover, O. (1995), “Another look at the instrumental-variable
estimation of error-components models”, Journal of Econometrics, 68(1), 29 - 51.
4. Arena, M. (2008), “Does insurance market activity promote economic growth? A
cross-country study for industrialized and developing countries”, Journal of Risk &
Insurance, 75(4), 921 - 946.
5. Berg, H. v. d., & Schmidt, J. R. (1994), “Foreign trade and economic growth: time
series evidence from Latin America”, The Journal of International Trade & Economic
Development: An International and Comparative Review, 3(3), 249 - 268.
6. Bộ Tài chính (2014 - 2021), Niên giám thị trường bảo hiểm năm từ năm 2014 đến

năm 2021.
7. Levine, R., & Zervos, S. (1996), “Stock market development and long-run growth”,
World Bank Economic Review, 10(2), 323 - 339.
8. Khan, M. S., & Senhadji, A. S. (2000), Financial development and economic growth:
An overview. Unpublished IMF Working Paper No. 00/209. IMF.

9. King, R. G., & Levine, R. (1993a), “Finance and growth: Schumpeter might be right”,
Quarterly Journal of Economics, 108(3), 717 - 737.
10. Pietrovito, F. (2009), Financial development and economic growth: A theoretical and
empirical overview. Unpublished Working Paper.

11. Skipper, H. D. (1997), Foreign insurers in emerging markets: issues and concerns.
Unpublished Center for Risk Management and Insurance Occasional Paper 97-2.
International Insurance Foundation.
12. Soo, H. H. (1996), Life insurance and economic growth: theoretical and empirical
investigation. University of Nebraska, Lincohn.

273


13. UNCTAD (2005), Trade and development aspects of insurance services and
regulatory frameworks, Paper presented at the United Nations Conference on Trade
and Development, New York, USA and Geneva, Switzerland.
14. Ward, D., & Zurbruegg, R. (2000), “Does insurance promote economic growth?
Evidence from OECD countries”, Journal of Risk & Insurance, 67(4), 489 - 506.
15. Webb, I., Grace, M. F., & Skipper, H. D. (2002), The effect of banking and insurance
on the growth of capital and output. Unpublished Center for Risk Management and
Insurance Working, pp. 02 - 1. Georgia State University, GA.
16. Zou, H., & Adams, M. B. (2006), “The corporate purchase of property insurance:
Chinese evidence”, Journal of Financial Intermediation, 15(2), 165 - 196.

274




×