Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Thảo luận dân sự 2 lần 1 vấn đề 1 thực hiện công việc không có ủy quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.6 KB, 17 trang )

lOMoARcPSD|12114775

VẤN ĐỀ 1:
THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ ỦY QUYỀN
Tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một
cơng trình cơng cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không
nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng khơng có ủy quyền của A trong khi đó,
theo quy định, B khơng được tự ký hợp đồng với C vì đây là cơng việc của chủ đầu
tư A (thực tế Ban quản lý dự án B khơng có nhiều tài sản để thanh tốn cho C).
1.1.Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền?
- Căn cứ tại Điều 574 BLDS năm 2015 quy định: “Thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người khơng có
nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện
khi người này khơng biết hoặc biết mà khơng phản đối”.
1.2.Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ phát
sinh nghĩa vụ?
- Cơ sở pháp lý: Điều 274, Khoản 3 Điều 275 BLDS năm 2015.
Giải thích: Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là
những sự kiện xảy ra trong thực tế, được pháp luật dân sự dự
liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh quan hệ
nghĩa vụ dân sự. Do đó, thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là vì trong thực
tế có các trường hợp thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền
mà BLDS năm 2015 đã dự liệu điều này tại:
 Khoản 8 Điều 8 BLDS năm 2015: “Căn cứ làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự là thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền”.
 Khoản 3 Điều 275 BLDS năm 2015: “Căn cứ làm phát sinh
nghĩa vụ dân sự là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”.
 Điều 574 đến Điều 578 BLDS năm 2015 về thực hiện cơng


việc khơng có ủy quyền.
Sự xuất hiện của các sự kiện pháp lý này chính là nguyên
nhân khiến những quan hệ pháp luật dân sự phát sinh, thay
đổi và chấm dứt, kéo theo đó là nghĩa vụ giữa các bên chủ thể
được hình thành. Vì vậy, có thể nói thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ.
Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa
người thực hiện cơng việc và người có cơng việc được thực
hiện và nâng cao tinh thần trách nhiệm đảm bảo quyền lợi của
người thực hiện công việc cũng như đối với người có cơng việc
được thực hiện.
1.3.Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế
định “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền".

1


lOMoARcPSD|12114775

-

Căn cứ pháp lý: Điều 574 BLDS năm 2015 và Điều 594 BLDS
năm 2005.
Điểm nổi bật trong chế định “thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền” của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005.
 Thứ nhất, về chủ thể thực hiện: BLDS năm 2005 quy định
chủ thể là người có cơng việc được thực hiện chỉ có cá nhân,
trong khi BLDS năm 2015 quy định chủ thể người có công
việc được thực hiện bao gồm cả cá nhân và pháp nhân. Cho
thấy BLDS năm 2015 có sự điều chỉnh về phạm vi chủ thể.

 Thứ hai, về mục đích thực hiện: BLDS năm 2005 quy định
người thực hiện công việc “hồn tồn vì lợi ích của người có
cơng việc được thực hiện”. Nghĩa là người thực hiện cơng
việc hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực
hiện, ngồi ra khơng có mục đích khác. Nhưng đến với BLDS
năm 2015, Điều 574 quy định người thực hiện cơng
việc“thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc
được thực hiện”. Người thực hiện vì lợi ích của người có cơng
việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục đích khác, tuy
nhiên khơng được làm trái với lợi ích của người có cơng việc
được thực hiện và các chủ thể khác liên quan.
Như vậy, cụm từ “hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được
thực hiện” ở Điều 594 năm BLDS năm 2005 đã tạo ra sự cứng nhắc
về mặt câu chữ khi bắt buộc người thực hiện cơng việc phải hồn
tồn vì lợi ích của người có cơng việc cần thực hiện, trong thực tiễn
xét xử, sự cứng nhắc này sẽ không đảm bảo được sự công bằng
giữa người thực hiện công việc và người có cơng việc phải thực
hiện. Do đó, Điều 574 BLDS năm 2015 điều chỉnh quy định về thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền, đã khắc phục được nhược điểm
của Điều 594 BLDS năm 2005 bằng cách bỏ đi cụm từ “hoàn
toàn”.
1.4.Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền" theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
-

-

Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ làm phát
sinh nghĩa vụ dân sự Trong thực tế có các trường hợp thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền tạo nên sự ràng buộc pháp

lý giữa người thực hiện công việc và người có cơng việc được
thực hiện, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền lợi
của người thực hiện công việc. Căn cứ tại Điều 574 đến Điều
578 BLDS năm 2015.
Quy định tại BLDS năm 2015, việc thực hiện công việc khơng
có ủy quyền thỏa mãn các điều kiện nhất định sau:
2


lOMoARcPSD|12114775

 Thứ nhất, người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là
người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc đó. Một người
có thể thực hiện cơng việc vì lợi ích của người khác. Nếu giữa
hai bên có một hợp đồng ủy quyền thì nghĩa vụ của họ xuất
phát từ hợp đồng. Nhưng trong trường hợp giữa họ không có
hợp đồng ủy quyền nào, người thực hiện cơng việc khơng có
nghĩa vụ phải làm nhưng đã thực hiện cơng việc một cách tự
nguyện, hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc. Việc làm
này tự nguyện trên tinh thần tương thân, tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau trong lúc gặp khó khăn tạm thời nên giữa họ khơng
có mối quan hệ pháp lý nào về công việc được thực hiện
trước đó.
 Thứ hai, việc thực hiện cơng việc vì lợi ích của người có cơng
việc. Người có hành vi tự nguyện thực hiện công việc của
người khác được coi là thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền trước khi tiến hành cơng việc, người thực hiện cơng
việc khơng có ủy quyền tự ý thức rằng nếu khơng có ai thực
hiện cơng việc này thì người có cơng việc bị thiệt hại một số
lợi ích vật chất nhất định. Lợi ích này có thể là những lợi ích

mà người có cơng việc được thực hiện khơng thu được hoặc
lợi ích của họ giảm đáng kể. Người thực hiện công việc khơng
có ủy quyền xem đó là bổn phận của mình và phải thực hiện
cơng việc nhằm mang lại lợi ích cho người có cơng việc.
 Thứ ba, việc thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền phải có
sự tự nguyện của người thực hiện cơng việc. Dù khơng có
nghĩa vụ thực hiện công việc, nhưng người thực hiện công
việc vẫn có ý chí hết mình thực hiện cơng việc của người
khác như cơng việc của chính mình, khơng hề suy tính lợi ích
cá nhân. Người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền thực
hiện cơng việc đó dựa trên tinh thần tự nguyện mà khơng có
bất kỳ sự ép buộc hay cưỡng chế nào. Người thực hiện nhận
thức được hành vi thực hiện cơng việc của mình và trong điều
kiện, khả năng thực hiện công việc một cách độc lập nhằm
đem lại lợi ích cho người có cơng việc được thực hiện.
 Thứ tư, người có cơng việc được thực hiện khơng biết việc có
người khác đang thực hiện cơng việc cho mình hoặc biết
nhưng khơng phản đối việc thực hiện cơng việc đó. Đây là
điều kiện được suy ra từ Điều 574 BLDS năm 2015, thể hiện
tính tuyệt đối trong quy định. Người thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền thực hiện công việc dựa trên tinh thần tự
nguyện, vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện mà
khơng có sự thỏa thuận giữa các bên. Do đó, đa phần các
cơng việc được thực hiện khơng có ủy quyền thì người có

3


lOMoARcPSD|12114775


công việc được thực hiện không thể biết hoặc biết mà không
phản đối việc thực hiện công việc. Nếu trong q trình thực
hiện có sự phản đối từ bên có cơng việc được thực hiện thì
cơng việc đó buộc phải chấm dứt và không được xem là thực
hiện công việc khơng có ủy quyền.
 Cuối cùng, việc thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền
khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo
đức xã hội. Một người tự nguyện thực hiện cơng việc của
người khác coi đó là bổn phận của mình và phải xuất phát từ
người có cơng việc. Mục đích và nội dung của việc thực hiện
công việc là không trái pháp luật và xâm phạm đạo đức xã
hội.
1.5.Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà
thầu C có thể u cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ
trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc
khơng có ủy quyền” trong BLDS 2015 khơng? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
-

-

-

Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà
thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ
trên cơ sở các quy định của chế định“thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền” trong BLDS năm 2015. Cơ sở pháp lý từ
Điều 574 và Điều 576 BLDS năm 2015.
Để xác định việc làm của nhà thầu C có phải là thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền thì căn cứ vào Điều 574 BLDS

năm 2015. Do việc ký kết hợp đồng giữa B và nhà thầu C
không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng khơng có
ủy quyền của A, cũng như A khơng tham gia vào hợp đồng thì
đó là hợp đồng phát sinh giữa B (bên thứ 3) và C. Như vậy, xét
theo khoản 1 Điều 142 BLDS năm 2015 thì A hồn tồn khơng
có nghĩa vụ đối với hợp đồng của B và nhà thầu C. Nên do đó
việc A khơng có nghĩa vụ trên cho thấy nhà thầu C hồn tồn
khơng có nghĩa vụ thực hiện xây dựng cơng trình công cộng
của chủ đầu tư A và thỏa mãn điều kiện về "khơng có nghĩa
vụ thực hiện cơng việc" theo Điều 574 BLDS năm 2015. Đồng
thời, nhà thầu C đã thực hiện công việc này một cách tự
nguyện mà không chịu sự ép buộc hay cưỡng chế từ phía A.
Về phía chủ đầu tư A, A lập ban quản lý dự án B để tiến hành
xây dựng cơng trình cơng cộng nhưng A không ủy quyền cho B
đại diện A ký kết hợp đồng với nhà thầu C, nên do đó A hồn
tồn khơng u cầu C phải thực hiện cơng việc này. Trong q
trình xây dựng cơng trình cơng cộng, A có thể "khơng biết" về

4


lOMoARcPSD|12114775

-

việc thực hiện của C (theo điều kiện tại Điều 574 BLDS năm
2015). Tuy nhiên, xét thấy mục đích của chủ đầu tư A là hồn
thành cơng trình cơng cộng, bởi vậy nên quá trình nhà thầu C
tiến hành xây dựng và hồn thành cơng trình trên thì A có thể
biết mà không phản đối nên thỏa mãn điều kiện "biết mà

không phản đối" tại Điều 574 BLDS năm 2015.
Mặt khác, BLDS năm 2015 đã loại bỏ cụm từ "hoàn tồn" về
mặt lợi ích nên có thể thấy việc C thực hiện xây dựng cơng
trình cơng cộng trên là vì lợi ích của chủ đầu tư A. Mặc dù C
sau khi thực hiện công việc cũng sẽ nhận được lợi ích nhưng
khi cơng việc được hồn tất thì phần lợi ích lớn hơn lại thuộc
về A. Do vậy, việc làm của nhà thầu C đã thỏa mãn điều kiện
"vì lợi ích của người có cơng việc" tại Điều 574 BLDS năm
2015.

Như vậy, việc làm của C là việc "thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền" thỏa mãn các điều kiện của Điều 574 BLDS năm 2015 và vì
thế chủ đầu tư A phải có nghĩa vụ thanh tốn cho C căn cứ theo
khoản 1 Điều 576 BLDS năm 2015. A buộc phải thanh tốn các chi
phí hợp lý mà C - "người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền"
đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trường hợp công việc không
đạt được kết quả theo ý muốn của A (trong điều kiện C đã làm hết
khả năng của mình để thực hiện cơng việc này). Mặt khác, căn cứ
theo khoản 2 Điều 576 BLDS năm 2015, nếu nhà thầu C thực hiện
công việc được đánh giá là ở mức "chu đáo", "có lợi" cho chủ đầu
tư A thì C có quyền u cầu A trả thêm cho C một khoản thù lao
hợp lý.

5


lOMoARcPSD|12114775

VẤN ĐỀ 2:
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)

Tình huống: Ngày 15/11/1973, ơng Quới cho bà Cơ th nhà và nhận tiền thế chân
của bà Cô 50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và
u cầu ơng Quới hồn trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973
là 137đ/kg và giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp.HCM là
15.000đ/kg).
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Nguyên đơn: Cụ Ngô Quang Bảng.
Bị đơn: Bà Mai Hương (tên gọi khác là Mai Thị Hương).
Nội dung Quyết định: Sau khi cụ Phúc chết, ông Phục nhận thừa
kế thửa đất với diện tích 1.010 m2. Ngày 20/10/1982, ơng Phục
chuyển nhượng thửa đất trên cho vợ chồng cụ Bảng. Ngày
26/11/1991, cụ Bảng chuyển nhượng thửa đất trên cho vợ chồng
bà Mai Hương, ơng Hồng Văn Thịnh với số tiền 5.000.000 đồng
nhưng chỉ mới thanh toán 4/5 giá trị chuyển nhượng. Cụ Bảng
nhiều lần yêu cầu bà Hương thanh toán, nhưng bà Hương không
trả với lý do chồng ốm, không có tiền nên cụ khởi kiện yêu cầu bà
Hương thanh tốn 1/5 giá trị nhà đất cịn thiếu (theo định giá tài
sản của Tòa án nhân dân) hoặc trả lại 1/5 diện tích đất (tương
đương 188,6 m2).
Quyết định của Tịa án: Hủy bản án dân sự phúc thẩm và Bản án
dân sự sơ thẩm về vụ án “Tranh chấp nghĩa vụ trả tiền trong hợp
đồng chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất”, giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh để xét xử
lại theo thủ tục sơ thẩm.
2.1.
Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải
thanh tốn như thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
-


Theo Thơng tư liên tịch số 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính
hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản quy định về
Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ tài sản là các khoản tiền,
vàng thì giá trị khoản tiền phải thanh tốn được tính lại như
sau:

6


lOMoARcPSD|12114775

“1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hồn
trả, tiền cơng, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công
sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như
sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự
xảy ra trước ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm
gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử
sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Tịa án quy đổi
các khoản tiền đó ra gạo theo giá loại trung bình ở địa
phương (từ đây trở đi gọi tắt là “giá gạo”) tại thời điểm gây
thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó
thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để
buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh tốn và chịu án
phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau
ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng
trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát

sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo
không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Tịa
án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ
phải thanh tốn bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa
vụ có lỗi thì ngồi khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với
số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời
điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313
BLDS 2015, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
2. Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì
khi xét xử Tòa án chỉ quyết định mức tiền cụ thể mà khơng
áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3. Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín
dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm
thơng qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy
định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp Tòa án đều
khơng phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định
ràng buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số
tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày
khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi
suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.
7


lOMoARcPSD|12114775

4. Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại
khơng có kỳ hạn) ở ngồi tổ chức Ngân hàng, tín dụng, do
giá trị của các khoản tiền đó cũng đã được đảm bảo thơng

qua việc chịu lãi của bên vay tài sản, cho nên trong mọi
trường hợp tịa án đều khơng phải quy đổi số tiền đó ra gạo,
mà chỉ buộc người vay phải trả số tiền nợ gốc chưa trả cùng
với số tiền lãi chưa trả.
5. Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng,
thì lãi suất chỉ được chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có
quy định và cách tính lãi suất khơng phân biệt như các
trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính bằng
mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.”
-

Theo đó, ta nhận thấy rằng trong Thơng tư việc tính lại khoản
tiền phải thanh toán được quy định tại khoản 2, 3, 4 và 5 đều
được quy định bằng mức tiền cụ thể hoặc được đảm bảo bằng
mức lãi suất Ngân hàng nên khơng phải thanh tốn thơng qua
một trung gian như khoản 1. Bên cạnh đó khoản 2, 3, 4 và 5
đều đã thể hiện đúng như tinh thần của khoản 2 Điều 280
BLDS năm 2015 về “Thực hiện nghĩa vụ trả tiền” như sau:
“Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác”. Đối với khoản 1 thì việc tính lại giá
trị khoản tiền được thực hiện thông qua trung gian là “gạo”,
nghĩa là khoản tiền đó sẽ được quy đổi ra gạo theo giá gạo
loại trung bình (giá gạo) tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát
sinh nghĩa vụ, sau đó tính số lượng gạo đó thành tiền tại thời
điểm xét xử sơ thẩm.

2.2.
Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải
trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở
pháp lý khi trả lời.

-

Trong tình huống này, thực tế ơng Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là 5.475.000 đồng.
Căn cứ vào Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ
Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản:
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Quới và bà Cô
trước ngày 1/7/1997. Trong thời gian gây ra thiệt hại và phát
sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm giá gạo đã tăng
quá 20%.

8


lOMoARcPSD|12114775

-

Quy đổi khoản tiền thế chân 50.000 đồng ra gạo với giá trị tại
thời điểm phát sinh nghĩa vụ: 50.000 : 137 = 365 kg.
- Giá gạo trung bình hiện nay là 15.000 đồng/kg nên số tiền ông
Quới phải trả cho bà Cô là: 365 x 15.000 = 5.475.000 đồng.
2.3.
Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh tốn tiền trong
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định
số 15/2018/DS-GĐT khơng? Vì sao?
- Thơng tư trên khơng điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số
15/2018/DS-GĐT. Thông tư trên điều chỉnh đối tượng là nghĩa

vụ về tài sản là các khoản tiền, vàng (là các khoản tiền bồi
thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản,
tiền đền bù cơng sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có lãi,
tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính) và nghĩa
vụ tài sản là hiện vật, chứ khơng điều chỉnh việc thanh tốn
tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong
Quyết định trên.
2.4.
Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DSGĐT, nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như
Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tịa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng
cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
- Theo Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội, khoản tiền bà Hương
phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là 1.697.760.000 đồng.
- Vì bà Hương mới thanh tốn được 4/5 giá trị chuyển nhượng
đất cho cụ Bảng, số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà,
đất. Do đó, bà Hương phải thanh tốn cho cụ Bảng số tiền cịn
nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm
xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục
2.1, mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
“b.2) Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển
nhượng đất; bên chuyển nhượng đã giao tồn bộ diện tích
đất, thì Tồ án cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đó.
Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một
phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao
một phần diện tích đất, thì có thể cơng nhận phần hợp đồng
đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu cơng nhận phần
hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện
tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Tồ án

buộc bên nhận chuyển nhượng thanh tốn cho bên chuyển
nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển

9


lOMoARcPSD|12114775

nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại
thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất
tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng
thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã
nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số
tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Tồ án chỉ cơng
nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã
nhận thì bên chuyển nhượng phải thanh toán khoản tiền đã
nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính theo giá trị
quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử
sơ thẩm.”
2.5.
Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
có tiền lệ chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)
- Với hướng như trên, Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có
tiền lệ là Quyết định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày
24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà đất và địi nợ”.
- Tóm tắt bản án:

10



lOMoARcPSD|12114775

VẤN ĐỀ 3:
CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa
án nhân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Cẩm Tú.
Bị đơn: Bà Phùng Thị Bích Ngọc.
Nội dung bản án: Tháng 4/2004 bà Phượng vay của bà Tú
615.000.000 đồng với lãi suất 1.8%/tháng, thời hạn vay là 12
tháng để cho bà Ngọc vay 465.000.000 đồng và bà Loan, ông
Thạnh vay 150.000.000 đồng. Đến tháng 4/2005, bà Phượng xin
giảm lãi xuống cịn 1.3%/tháng. Đến tháng 5/2005, bà Phượng
khơng trả lãi như thỏa thuận. Ngày 12/5/2005 bà Tú đồng ý cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh
qua việc lập hợp đồng cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh vay số
tiền như trên. Bà Tú khởi kiện yêu cầu bà Phượng liên đới trả nợ
cùng bà Ngọc nhưng bà Phượng lại cho rằng mình chỉ là trung gian
giới thiệu cho bà Ngọc vay tiền bà Tú (bà Ngọc cũng thừa nhận
điều này).
Quyết định của Tòa án: Buộc bà Phùng Thị Bích Ngọc có trách
nhiệm trả cho bà Trần Thị Cẩm Tú số tiền: 651.981.000 đồng.
3.1.
Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao
quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
- Cơ sở pháp lý:
 Chuyển giao quyền yêu cầu: Điều 365 - Điều 370 BLDS năm
2015.
 Chuyển giao nghĩa vụ: Điều 371, Điều 372 BLDS năm 2015.

- Điểm giống nhau:
Có ít nhất ba chủ thể.
Chỉ áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực.
Chuyển giao cho một đối tượng khác và phải có sự thỏa
thuận giữa các bên.
Hậu quả pháp lý: làm chấm dứt tư cách chủ thể của người
chuyển giao, phát sinh tư cách chủ thể cũng như các quyền
và nghĩa vụ dân sự của người được chuyển giao.
Hình thức chuyển giao: được thực hiện bằng văn bản, lời nói.
- Điểm khác nhau:
Chuyển giao quyền yêu cầu
Chủ thể là bên có quyền.

Chuyển giao nghĩa vụ
Chủ thể là bên có nghĩa
vụ.

11


lOMoARcPSD|12114775

Khơng cần có sự đồng ý của bên có Bắt buộc phải có sự đồng ý
nghĩa vụ.
của bên có quyền.
Phải thơng báo cho người có nghĩa vụ
bằng văn bản.
Người chuyển giao quyền yêu cầu
không phải chịu trách nhiệm về việc
thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa

vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Người có nghĩa vụ khơng
chịu trách nhiệm về việc
thực hiện nghĩa vụ của
người thừa kế nghĩa vụ.
Biện pháp đảm bảo chấm
dứt.

3.2.
Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa
vụ thanh tốn cho bà Tú?
- Thơng tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh
toán cho bà Tú là: “Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung
cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp nhận tiền của bà Tú
vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000 đồng và theo biên
nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê
Thị Nhan số tiền 615.000.000 đồng. Phía bà Phượng không
cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền
với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào
tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan, ơng Thạnh và bà Ngọc
khơng có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay ngân hàng nên bà
đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngồi để có tiền trả cho ngân
hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền
với bà Tú.”
3.3.
Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà
Phượng đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh?
- Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã

được chuyển sang cho bà Ngọc và ơng Thạnh là: “…phía bà Tú
đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập
hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng và hợp
đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng
vào ngày 12/5/2005. Như vậy kể từ thời điểm bà Tú xác lập
hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ
trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát
sinh nghĩa vụ với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú
theo hợp đồng vay tiền đã ký.”

12


lOMoARcPSD|12114775

3.4.

Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?

Đánh giá trên của Tịa án là hợp lý vì:
-

Thứ nhất, Tịa án xác định bà Phượng đã có hành vi pháp lý là
chuyển giao nghĩa vụ theo trả nợ là có căn cứ. Bởi, nghĩa vụ
trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà
Loan và ông Thạnh đã có sự chấp thuận của bà Tú, thể hiện
qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền
465.000.000 đồng và hợp đồng cho bà Loan ông Thạnh vay số
tiền 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005. Căn cứ khoản 1

Điều 370 BLDS năm 2015: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển
giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền
đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của
bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định khơng được
chuyển giao nghĩa vụ”. Tuy nhiên, luật lại không quy định rõ
về hình thức của việc chấp nhận chuyển giao nghĩa vụ này là
như thế nào (bằng văn bản, bằng miệng hay thỏa thuận khác).
Như vậy, việc chuyển giao nghĩa vụ của bà Phượng là có sự
chấp nhận của bà Tú thông qua việc xác lập hợp đồng nên khi
được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành
bên có nghĩa vụ.

-

Thứ hai, Tồ án đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi: “Khi có
chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận bà Phượng có cần phải
thực hiện nghĩa vụ hay khơng?”. Tồ án cho rằng: "Như vậy,
kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối
với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc,
bà Loan và ông Thạnh đổi với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã
ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn
nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận” và “Việc bà Tú giữ
giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận.
Phía bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bả Tú, buộc bà
Tú hoàn trả lại bà Phượng giấy chứng minh Hải quan". Điều đó
cho thấy bà Phượng khơng cịn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ
đã được chuyển giao, tức là bà Phượng không phải chịu trách
nhiệm về thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh.


13


lOMoARcPSD|12114775

3.5.
Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có
cịn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế
nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
-

Cơ sở pháp lý: Điều 283, Điều 370, Điều 371 BLDS năm 2015.
Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn
trách nhiệm đối với người có quyền nữa dù người thế nghĩa vụ
không thực hiện được nghĩa vụ được chuyển giao. Chuyển giao
nghĩa vụ dân sự là trường hợp người có nghĩa vụ ban đầu
chuyển giao nghĩa vụ đã giao kết cho người khác (người thế
nghĩa vụ) thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền
với sự đồng ý của người thế nghĩa vụ đó và bên có quyền. Bản
chất của chuyển giao nghĩa vụ dân sự là sự chuyển dịch pháp
lý từ chủ thể chuyển sang chủ thể nhận. Chủ thể nhận nghĩa
vụ chính là người thứ ba thay thế cho người có nghĩa vụ ban
đầu và trở thành bên có nghĩa vụ. Trong trường hợp chuyển
giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp đảm bảo thì biện pháp đảm
bảo đó cũng chấm dứt do sự chấm dứt tư cách chủ thể của
người có nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác
(Điều 371 BLDS năm 2015).
Điều 370 Chuyển giao nghĩa vụ

“Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế
nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp
nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc
pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.
Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở
thành bên có nghĩa vụ.”
Như vậy, người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm
đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ khơng thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao.

3.6.
Nhìn từ góc độ quan điểm của các tác giả, người có
nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có
quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
- Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài: “Trên cơ sở sự thỏa thuận,
với sự đồng ý của bên có quyền người thứ ba thay thế người
có nghĩa vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ mới hay cịn
gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt tồn bộ
14


lOMoARcPSD|12114775

mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển
giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép yêu
cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã
chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc
thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ.”
- Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ

ban đầu vẫn có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng
ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển giao nghĩa vụ với
“thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy,
để chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định
thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba, cần xác
định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ
ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác.”
- Bên cạnh đó, tác giả một lần nữa khẳng định, “khi có chuyển
giao nghĩa vụ theo thoả thuận thì người có nghĩa vụ ban đầu
khơng cịn trách nhiệm với người có quyền đối với nghĩa vụ
hay phần nghĩa vụ được chuyển giao” thơng qua hướng giải
quyết của Tịa giám đốc thẩm trong Quyết định số
361/2009/DS-GĐT ngày 13-8-2009 của Toà dân sự Toà án
nhân dân tối cao.
3.7.
Đoạn nào của bản án cho thấy Tịa án theo hướng người
có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có
quyền?
-

Đoạn của bản án cho thấy Tịa án theo hướng người có nghĩa
vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền là:

“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng cho vay
với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của
bà Phượng đối với bà Loan đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa
vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh với bà Tú theo hợp
đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách
nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận”.
3.8.

Kinh nghiệm của pháp luật nước ngồi đối với quan hệ
giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
-

Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý: Sự
đồng ý của bên có quyền là điều kiện cần thiết để chuyển giao
nghĩa vụ theo thoả thuận có giá trị pháp lý, cũng như để bảo
đảm quyền lợi của bên có quyền. Khơng chỉ pháp luật nước ta
mà pháp luật nước ngoài cũng xây dựng chế định tương tự để
quy định về vấn đề này. Ví dụ: Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc
Unidroit quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận
15


lOMoARcPSD|12114775

giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải
có sự đồng ý của người có quyền.”
- Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan: Thực tế
cho thấy, quy định trong các hệ thống luật tương đối khác
nhau. Ở châu Âu, một số nước quy định người có nghĩa vụ ban
đầu được giải phóng hồn tồn nhưng một số nước lại quy
định ngược lại theo hướng người thứ ba là người có nghĩa vụ
bổ sung. Theo Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 9.2.5): “Người có
quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban
đầu”. Như vậy, người có quyền có thể giải phóng hồn tồn
nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. Người có quyền cũng
có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người
có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới khơng
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình”. Điều đó có nghĩa là người

có quyền có thể lựa chọn một khả năng khác, đó là chấp nhận
việc chuyển giao nghĩa vụ mới, nhưng người có quyền bảo lưu
quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu. Vẫn theo Bộ
nguyên tắc Unidroit: “Trong mọi trường hợp khác, người có
nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu
trách nhiệm”. Quy định tại điều này thể hiện rõ là giải pháp
cuối cùng cũng là giải pháp được áp dụng trong trường hợp
người có quyền khơng có quyền quyết định nào. Nói cách
khác, nếu người có quyền khơng nêu rõ ý định giải phóng
người có nghĩa vụ ban đầu cũng khơng quyết định là người có
nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải chịu trách
nhiệm liên đới về việc thực hiện nghĩa vụ.
3.9.
Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa
án.
- Hướng giải quyết trên của Tịa án là hợp lý, vì:
 Thứ nhất, Tòa án đã xác định hành vi chuyển giao nghĩa vụ
trả nợ cho bà Tú (bên có quyền) của bà Phượng (bên có
nghĩa vụ) sang cho bà Ngọc, bà Loan, ơng Thạnh (bên thế
nghĩa vụ) là có căn cứ. Theo đó, Tịa án xét thấy: "Phía bà Tú
đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú
đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng
và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền
150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005." thì nghĩa vụ trả nợ
cho bà Tú của bà Phượng đã chấm dứt. Như vậy, khi được
chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên
có nghĩa vụ (khoản 2 Điều 370 BLDS năm 2015).

16



lOMoARcPSD|12114775

 Thứ hai, việc chuyển giao nghĩa vụ của bà Phượng cho ông
Thạnh, bà Ngọc, bà Loan đã làm chấm dứt nghĩa vụ của bà
Phượng đối với bà Tú. Theo đó, mặc dù các thỏa thuận trước
khi chuyển giao nghĩa vụ bà Phượng là người đứng ra đại
diện xác lập với bà Tú nhưng sau khi việc chuyển giao hoàn
tất thì bà Phượng khơng cịn bất kỳ nghĩa vụ gì đối với bà Tú.
Tòa án nhận định "Việc bà Tú u cầu bà Phượng có trách
nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận”
và “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng
theo thỏa thuận. Phía bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ
cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà Phượng giấy chứng
minh Hải quan” cho thấy bà Phượng không còn bị ràng buộc
bởi nghĩa vụ đã được chuyển giao, hay nói cách khác bà
Phượng khơng phải chịu trách nhiệm trả bất kỳ khoản nợ
nào cho bà Tú. Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của
bà Phượng mà còn thể hiện cách giải quyết hợp lý, sáng
suốt của Tịa án khi luật khơng có những quy định rõ ràng về
việc chuyển giao nghĩa vụ.
3.10.
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú
có biện pháp bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được
chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt khơng? Nêu rõ cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Cơ sở pháp lý: Điều 335 BLDS năm 2015, Điều 343 BLDS năm
2015, Điều 371 BLDS năm 2015 (Điều 317 BLDS năm 2005).
- Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện

pháp bảo lãnh của người thứ ba thì nghĩa vụ khi được chuyển
giao biện pháp bảo lãnh cũng chấm dứt theo, theo điều 317
BLDS năm 2005.
 Điều 317: Chuyển giao nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo
đảm
“Trong trường hợp nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm
được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, nếu
khơng có thỏa thuận khác.”
-

Việc bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bên thế nghĩa vụ sẽ
làm quan hệ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt. Chuyển giao nghĩa
vụ là bên có nghĩa vụ chuyển giao tồn bộ nghĩa vụ của mình
cho bên thế nghĩa vụ, mà trong đó, hợp đồng dựa trên sự thỏa
thuận của cả ba bên. Khi đó, bên thế nghĩa vụ trở thành bên
có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới với bà Tú.

17



×