Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

nghiên cứu tác dụng sinh học và độc tính của cây lược vàng callisia fragrans (lindl.) woods.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 148 trang )


BỘ Y TẾ










BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ


NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG SINH HỌC VÀ
ĐỘC TÍNH CỦA CÂY LƯỢC VÀNG
CALLISIA FRAGRANS (LINDL.) WOODS.






Chủ nhiệm đề tài: TSKH. Nguyễn Minh Khởi
Cơ quan chủ trì đề tài: Viện Dược liệu












8852





Năm 2010
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
ALT Alanine aminotransferase
AST Aspartate aminotransferase
BCMTT Bạch cầu múi trung tính
BSA Bovine Serum Albumin
CD Cluter of differentiation
cs. Cộng sự
CY Cyclophosphamid
DMSO Dimethylsulfoxyd
ĐƯMD
Đáp ứng miễn dịch
HCC Hồng cầu cừu
HPLC Sắc ký lỏng hiệu năng cao
IL Interleukin
INF Interferon
KN
Kháng nguyên

KTMD Kích thích miễn dịch
LVL Cao đông khô dịch ép lá lược vàng
LVT Cao chiết bằng cồn 50% thân bồ lược vàng
MDA Malonyl dialdehyd
MHC Major histocompatibility complex
NK Natural killer
OA Ovalbumin
TBTHHMC Tế bào lympho lách tạo hoa hồng mẫn cảm
TBTQDH Tế bào lympho lách tạo quầng dung huyết

MỤC LỤC

Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
1. TỔNG QUAN
3
1.1. Thực vật học 3
1.2. Thành phần hóa học của chi Callisia Loefling 4
1.3. Tác dụng sinh học của các cây thuốc chi Callisia Loefling 8
1.4. Tác dụng sinh học của một số chất có trong C. fragrans 10
1.5. Một số chế phẩm chứa lược vàng 24
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
25
2.1. Đối tượng nghiên cứu
25
2.2. Nguyên vật liệu
25
2.3. Phương pháp nghiên cứu
27

2.3.1. Phương pháp lấ
y mẫu nguyên liệu và xác định về thực vật 27
2.3.2. Phương pháp thử độc tính cấp 28
2.3.3. Phương pháp thử độc tính bán trường diễn 28
2.3.4. Phương pháp thử tác dụng kháng khuẩn 30
2.3.5. Phương pháp thử tác dụng chống viêm mạn 33
2.3.6. Phương pháp thử tác dụng giảm đau 34
2.3.6.1. Thực nghiệm gây đau bằng tấm nóng 34
2.3.6.2. Thực nghiệm gây đau xoắn bụng bằng acid acetic 35
2.3.7. Phương pháp thử tác dụng tăng cường miễn d
ịch 36
2.3.7.1.Mô hình gây suy giảm miễn dịch bằng hoá chất 37
2.3.7.2. Mô hình gây suy giảm miễn dịch bằng tia xạ 37
2.3.8. Phương pháp thử tác dụng hạ huyết áp 41
2.3.9. Phương pháp thử tác dụng chống oxy hóa in vivo 42
2.3.10. Phương pháp thử tác dụng trên enzym xanthine oxidase và
lypoxigenase
43
2.3.11. Phương pháp thử tác dụng độc tế bào in vitro 45
2.3.12. Phương pháp xử lý số liệu 47
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
48
3.1. Kết quả nghiên cứu độc tính của lá và thân bồ lược vàng
48
3.1.1. Kết quả thử độc tính cấp
48
3.1.2. Kết quả thử độc tính bán trường diễn
49
3.1.2.1. Kết quả theo dõi tình trạng chung và cân nặng động vật thí
nghiệm.

49
3.1.2.2. Kết quả theo dõi các chỉ số huyết học 51
3.1.2.3.Kết quả theo dõi các chỉ số thuộc chức năng gan 54
3.1.2.4.Kết quả theo dõi các chỉ số thuộc chức năng thận 59
3.1.2.5. Kết quả xét nghiệm mô học 61
3.2. Kết quả nghiên cứu một số tác dụng sinh học củ
a lá và thân bồ
lược vàng
64
3.2.1. Kết quả thử tác dụng kháng khuẩn
64
3.2.1.1. Kết quả thử trên chủng S. pneumoniae 64
3.2.5.2. Kết quả thử trên chủng K. pneumoniae 66
3.2.1.3. Kết quả thử trên chủng H.influenza 68
3.2.1.4. Kết quả thử trên chủng S. aureus 70
3.2.1.4. Kết quả thử trên chủng P. aeruginosa 72
3.2.2. Kết quả thử tác dụng chống viêm mạn
74
3.2.3. Kết quả thử tác dụng giảm đau
75
3.2.3.1. Tác dụng giảm đau trên mô hình gây đau xoắn bụng bằng acid
acetic
75
3.2.3.2. Tác dụng giảm đau trên mô hình gây đau bằng tấm nóng 76
3.2.4. Kết quả thử tác dụng tăng cường miễn dịch
79
3.2.4.1.Kết quả thử tác dụng trên mô hình gây suy giảm miễn dịch bằng
hóa chất
79
3.2.4.1.1. Nghiên cứu đánh giá tình trạng chung hệ miễn dịch 79

3.2.4.1.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của LVL và LVT lên đáp ứng miễn dịch
d
ịch thể với kháng nguyên
82
3.2.4.1.3. Nghiên cứu đánh giá đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào 85
3.2.4.2. Kết quả thử tác dụng trên mô hình gây suy giảm miễn dịch bằng
tia xạ
88
3.2.4.2.1. Nghiên cứu đánh giá tình trạng chung của hệ miễn dịch 88
3.2.4.2.2. Nghiên cứu đánh giá đáp ứng miễn dịch dịch thể 92
3.2.4.2.3. Nghiên cứu đánh giá đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào
3.2.5. Kết quả thử tác dụng hạ huy
ết áp
97
3.2.6. Kết quả thử tác dụng chống oxy hóa in vivo
102
3.2.7. Kết quả thử tác dụng trên enzym xanthine oxidase và
104
lypoxigenase in vitro
3.2.7.1. Hoạt tính ức chế enzym xanthine oxidase của các mẫu chiết từ lá
và thân bồ lược vàng
104
3.2.7.2. Hoạt tính ức chế enzym lipoxygenase của các mẫu chiết từ lá và
thân bồ lược vàng
105
3.2.8. Kết quả thử tác dụng độc tế bào của các mẫu chiết từ lá và thân
bồ lược vàng
106
3.2.8.1. Kết quả thử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên dòng tế bào A549

106
3.2.8.2. Kết quả
thử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên dòng tế bào H358
107
3.2.8.3. Kết quả thử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên dòng tế bào Hela
108
3.2.8.4. Kết quả thử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên dòng tế bào H460
109
3.2.8.5. Kết quả thử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên dòng tế bào Hep-G2
110
3.2.8.6. Kết quả th
ử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên dòng tế bào Cos-7
111
3.2.8.7. Kết quả thử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên dòng tế bào MCF-7
112
3.2.8.8. Kết quả thử độc tính của các mẫu chiết từ lá và thân bồ lược vàng
trên tế bào dòng KPL-4
113
4. BÀN LUẬN
115
5. KẾT LUẬN
136
6. KIẾN NGHỊ
138

TÀI LIỆU THAM KHẢO
139
PHỤ LỤC






ĐẶT VẤN ĐỀ

Cây lược vàng là một cây cảnh mới được du nhập vào nước ta trong những
năm gần đây. Từ năm 2006, bắt đầu rộ lên thông tin một số người dân ở Thanh
Hóa sử dụng lược vàng làm thuốc dựa trên một số tài liệu không chính thức của
Nga để chữa nhiều chứng bệnh khác nhau thấy có hiệu quả như viêm đường hô
hấp, viêm răng lợi, viêm đường tiết niệu, bệnh dạ dày,
đau xương khớp, các bệnh
tim mạch, huyết áp thậm chí cả ung thư…. Từ đó, “cơn sốt lược vàng” bắt đầu
bùng phát ở Thanh Hóa, sau đó lan truyền ra nhiều tỉnh và thành phố, từ Bắc chí
Nam.
Ở Việt Nam, lược vàng là đối tượng hoàn toàn mới chưa từng có tên trong
một tài liệu về cây thuốc nào, thậm chí chưa có tài liệu về thực vật học nào đề cập
đến.
Ở Nga đã có mộ
t số kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học nhưng
nghiên cứu về tác dụng sinh học của lược vàng còn rất ít. Mặc dù vậy, cây lược
vàng hiện vẫn đang được ứng dụng rất rộng rãi để chữa các bệnh dạ dày – ruột,
bệnh túi mật, lá lách; các bệnh đường hô hấp như ho, viêm họng, viêm phế quản,
hen phế quản; các bệnh đường tiết niệu; các bệnh ngoài da như viêm da, zona,
chàm, làm thuốc giảm đau, chống nóng rát, giúp vết thương chóng lành Các sách

báo về lược vàng, các loại thuốc chữa bệnh, thực phẩm chức năng với lược vàng là
dược liệu chính đang xuất hiện ngày càng nhiều [41], [42], [43].
Nhìn chung, lược vàng hầu như mới chỉ được dùng theo kinh nghiệm dân
gian, chưa được nghiên cứu đầy đủ về mặt dược liệu học. Để có thể sử dụng lược
vàng làm thuốc mộ
t cách hiệu quả và an toàn thì việc nghiên cứu thử nghiệm tác
dụng sinh học, xác định độ an toàn của dược liệu là một việc làm cần thiết. Trước
nhu cầu bức thiết về thông tin khoa học của nhân dân, được phép của Bộ Y tế, Vụ
KH-ĐT Bộ Y tế, Viện Dược liệu tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu tác dụng
sinh học và độc tính của cây lược vàng Callisia fragrans (Lindl.) Woods.”
M
ục tiêu của đề tài:
- Đánh giá độc tính cấp và bán trường diễn của thân bồ và lá lược vàng.
- Đánh giá một số tác dụng sinh học của thân bồ và lá lược vàng.
Nội dung nghiên cứu:
1 Xác định độ an toàn của dược liệu:
- Thử độc tính cấp của cao chiết toàn phần từ lá và thân bồ lược vàng.
- Thử độc tính bán trường diễn của các cao chiết trên, mỗi mẫu 3 liều (kéo
dài thời gian uống thuốc của thỏ thí nghiệm lên 60 ngày)
2. Thử một số tác dụng sinh học của các mẫu cao chiết từ thân và lá lược
vàng trên thực nghiệm, mỗi mẫu 2-3 liều:
- Tác dụng kháng khuẩn (trên một số chủng vi khuẩn điển hình thườ
ng gây
viêm răng lợi, viêm họng, viêm phế quản)
- Tác dụng chống viêm, giảm đau
- Tác dụng tăng cường miễn dịch trên 2 mô hình thực nghiệm: gây suy giảm
miễn dịch bằng hóa chất và bằng tia xạ.
- Tác dụng hạ huyết áp
- Tác dụng chống oxy hóa
- Tác dụng độc tế bào (trên 8 dòng tế bào gây ung thư)
















1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Thực vật học
1.1.1. Vài nét về chi Callisia Loefling
Callisia Loefling là một chi nhỏ thuộc họ Commelinaceae (Thài lài). Chi này
có khoảng 20 loài tập trung ở châu Mỹ với trung tâm phân bố là Mexico. Những
loài thuộc chi có dạng thân thảo, sống nhiều năm hiếm khi là cây một năm. Rễ
mảnh, vài loài có dạng củ. Thân trườn hoặc bò sát đất. Lá lưỡng phân hoặc xếp
xoắn ở ngọn, không cuống. Cụm hoa dạng xim, như tán, xếp xít, không cuống,
được bao bởi lá bắ
c; phát hoa ở ngọn hoặc nách lá, thường gồm nhiều chùy hoặc
gié, đơn vị được tạo thành bởi các cặp xim. Lá bắc khó nhận, nhỏ hơn 1cm; không
có mo; có các lá dạng lá bắc tồn tại. Hoa lưỡng tính (cả lưỡng tính và có hoa đực ở
C. repens), đối xứng tỏa tròn; đài rời, gần bằng nhau; cánh hoa rời, trắng hoặc
hồng (hiếm khi có màu xanh), dài bằng nhau, có dạng vuốt; nhị (1-3) hoặc 6, hữu
thụ, bằng nhau; chỉ nhị

trơn hoặc có rãnh; bầu 2-3 ô, lá noãn (1) 2 mỗi ô. Quả
nang, 2-3 mảnh. Hạt (1) 2 hoặc 3 mỗi mảnh, có dạng hình trụ ngắn, rốn hạt dạng
điểm [34].
Đa số các loài thuộc chi Callisia được trồng làm cảnh như Callisia repens
(Jacquin) Linnaeus, Callisia elegans Alexander ex H. E. Moore Ở Trung Quốc
chỉ có 1 loài là Callisia repens (Jacquin) Linnaeus được nhập trồng làm cảnh ở
Hồng Kông [33]. Ở Việt Nam, chưa phát hiện thấy các loài thuộc chi này phân bố
trong tự nhiên. Trong vài n
ăm trở lại đây loài Callisia fragrans (Lindl.) Woods.
được nhập trồng vào nước ta với tên gọi là lan vòi hay lược vàng.
1.1.2. Loài Callisia fragrans (Lindl.) Woods.
Đặc điểm thực vật: Callisia fragrans (Lindl.) Woods. là cây thảo nhiều năm,
thân mọng nước có thể dài tới 100cm hoặc hơn, phân nhánh với thân bò ở gốc. Lá
mọc tập trung ở ngọn thân; rải rác ở phía dưới, dạng mác thuôn, dài 18-25cm, rộng
3,5-4cm, cuống lá có gân rõ, ôm thân, có lông mịn và thường có sọc tía. Hoa mọc
thành cụm 2-3 hoa dạng xim trên phát hoa hình chu
ỳ dài tới 60cm, mỗi cặp xim
được ôm bởi các lá bắc dạng răng cưa (3 răng) dài 10-15mm; lá đài trong suốt,
màu trắng, khô xác, dạng mác, dài 5-6mm; cánh hoa bóng, trong suốt, màu trắng,
mỏng, có dạng trứng hẹp; nhị 6. Cây ra hoa vào mùa xuân [34].
Cây ưa những nơi đất màu mỡ, ẩm, thoát nước tốt và che bóng một phần.
Nếu trồng ở nơi nhiều ánh sáng, lá thường chuyển sang màu tía và thân mọc thấp.
Cây được nhân trồng bằng hạt và cành giâm.
Callisia fragrans được trồng làm cảnh ở nhiều nước bởi có thân bò khá đẹp
và dễ trồng. Người ta thường trồng Callisia fragrans trong các chậu treo để thân
buông rủ tạo dáng hoặc phủ kín mặt đất tạo thảm xanh trong vườn nhà. Do khả
năng phát triển nhanh, ở Florida - Mỹ, loài cây này được xếp vào danh sách “Các
loài thực vật nhập trồng xâm lấn” [45].
1.2. Thành phần hóa học của chi Callisia Loefling
Trong các loài Callisia có một số loài như C. elegans, C. fragrans, C.

insignis, C. macdougallii, C. repens, C. soconusensis
đã được Maria A và cs. khảo
sát sơ bộ bằng sắc ký giấy và sắc ký lớp mỏng cho thấy đều có chứa flavon C-
glycosid, một nhóm chất thường gặp trong các cây thuộc họ Commelinaceae [67].
Lá của các loài C. elegans, C. insignis, C. macdougallii được xác định có cyanidin
3,7,3’-triglucosid acyl hóa [46].
Từ năm 2007, các tác giả Nga và Việt Nam bắt đầu nghiên cứu sâu về thành
phần hóa học loài C. fragrans và cho thấy loài cây này chứa nhiều các nhóm chất
khác nhau như chất béo, carotenoid, terpenoid, acid hữu cơ, hợp chất phenol,
flavonoid, dẫ
n chất anthocyan, acid amin, đường tự do và polysaccharid [25], [77],
[78], [104]. Dưới đây là tổng hợp các kết quả nghiên cứu hóa học về loài cây này.
Các hợp chất phenol
Bằng phương pháp sắc ký cột kết hợp sắc ký lớp mỏng điều chế, Olennikov
D.N. và cs đã phân lập được từ dịch ép thân bồ lược vàng 7 hợp chất phenol là
aloe-emodin, umbelliferon, scopoletin, quercetin, acid gallic, acid caffeic và acid
chicoric [77].




Aloe emodin C
15
H
10
O
5
Umbelliferon C
9
H

6
O
3






Scopoletin C
10
H
8
O
4
Quercetin C
15
H
10
O
7






Acid gallic C
7
H

6
O
5
Acid caffeic C
9
H
8
O
4

Acid chicoric C
22
H
18
O
12

Khi phân tích dịch ép này bằng HPLC, đối chiếu với các chất chuẩn đã biết,
đã xác định ngoài 7 chất nói trên còn có kaempferol, acid ferulic [78].
Kết quả định lượng cho thấy hàm lượng các nhóm hợp chất phenol chính
trong dịch ép này (so với cắn khô kiệt) là: coumarin (umbelliferon, scopoletin)
0,14%, anthraquinon (aloe-emodin) 0,008%, acid phenolic (acid gallic, caffeic và
chicoric) 0,37%, flavonoid (kaempferol, quercetin) 0,05% [78].
Năm 2009, Châu Văn Minh và cs. đã công bố phân lập được 1 hợp chất
flavon C-glycosid là isoorientin từ dịch chiết methanol toàn cây lược vàng [14].

Isoorientin
Saponin
Ginsenosid Rg1 đã được Phan Văn Kiệm và cs. phân lập từ cây lược vàng
trồng tại Việt Nam [13].


Ginsenosid Rg1
Các acid hữu cơ
Ngoài các acid phenolic nói trên, trong thân và lá cây lược vàng có acid
ascorbic [77][78]. Hàm lượng tổng các acid hữu cơ trong dịch ép thân bồ lược
vàng là 37,05% so với cắn khô kiệt [78].
Dầu béo
Phân tích dầu béo trong thân và lá C. fragrans, Chernenco T.V. và cs. thấy
có [25]:
- Phân đoạn trung tính: hydrocarbon parafinic, olefinic, aromatic;
carotenoid, sterol và triterpen acetat, triacylglycerid, acid béo tự do, triterpenol,
sterol, acid triterpenic và chlorophyl.
- Glycolipid: sulfolipid, digalactosyldiglycerid, sterol glycosid, cerebrosid
và monogalactosyldiglycerid.
- Phospholipid.
- Các sắc tố: chlorophyl A và B, caroten α và β, xanthophyl (neoxanthin và
anteraxanthin).
Hàm lượng chất béo trong dịch ép thân bồ C. fragrans là 0,21% so với cắn
khô [78].
Carbohydrat
Trong dịch ép thân bồ lược vàng có chứa tới 25,13% đường tự do và 2,44%
polysaccharid so với cắn khô kiệt [78]. Thủy phân polysaccharid thì thu được các
đường đơn là glucose, mannose, acid glucuronic, glucosamin và galactosamin
[104], [76].
Các acid amin
Phân tích, so sánh thời gian lưu với 24 acid amin chuẩn, Hikolaeva G. và
cs. đã xác định được 18 acid amin, trong đó 15 acid amin tự do và 14 acid amin
liên kết trong dịch ép thân bồ lược vàng tươi: asparagin, acid aspartic, threonin,
serin, glutamin, acid glutamic, glycin, alanin, valin, methionin, leucin, isoleucin,
tyramin, phenylalanin, lysin, histamin, arginin và acid γ-aminobutyric [74].

Từ cây lược vàng tr
ồng tại Việt Nam, Phan Văn Kiệm và cs. đã phân lập
được L-tryptophan [13].
Các nguyên tố vô cơ
Trong thân bồ cây lược vàng trồng ở Nga đã xác định được 11 nguyên tố vô
cơ, trong đó Ba, Mn và Cu có hàm lượng cao nhất [74].
Nhìn chung, chi Callisia còn ít loài được nghiên cứu về thành phần hóa học,
chỉ có loài C. fragrans được chú ý nghiên cứu. Mặc dù mới được bắt đầu nghiên
cứu từ 2007, nhưng cho đến nay các tác giả Nga và Việt Nam đã có được khá
nhiều kết qu
ả về thành phần hóa học của cây lược vàng C. fragrans này với 10
chất đã được phân lập và xác định cấu trúc và những phân tích sâu về thành phần
các nhóm chất như carbohydrat, lipid, acid amin.
1.3. Tác dụng sinh học của các cây thuốc chi Callisia Loefling
Sử dụng trong dân gian
Các loài thuộc chi Callisia chủ yếu được trồng làm cảnh. Một số loài sau
đây đã được dùng làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian của một số nước châu Mỹ:
- C. grasilis: làm đẹp tóc, chữ
a cao huyết áp, thấp khớp, chữa mụn cơm
[19], [93].
- C. repens: chữa cảm cúm, hoại thư, viêm dạ dày, cao huyết áp, nhiễm
trùng, thấp khớp, làm thuốc thư giãn [93].
Loài C. fragrans được dùng như một cây thuốc dân gian ở Nga để chữa
các bệnh dạ dày – ruột, bệnh túi mật, lá lách; các bệnh đường hô hấp như ho, viêm
họng, viêm phế quản, hen phế quản; các bệnh đường tiết niệu; các bệnh ngoài da
như viêm da, zona, chàm, bỏng, dị ứng, hắc lào, vết thương ngoài da và cả ung
th
ư…[41],[43].
Về kết quả nghiên cứu tác dụng sinh học của các loài Callisia, chúng tôi tìm
thấy một số công bố trong 2 năm gần đây của các tác giả Nga về C. fragrans và

một bài báo nói đến tác dụng chống herpes virus của dịch chiết cồn C. grasilis. Sau
đây là những kết quả cụ thể.
Tác dụng chống oxy hóa
Dịch ép thân bồ của loài C. fragrans có tác dụng chống oxy hóa in vitro
trên mô hình thử nghiệm với DPPH v
ới IC
50
= 1,07mg/ml. Các phân đoạn có tác
dụng mạnh nhất lần lượt là phân đoạn chiết ethyl acetat (IC
50
0,024mg/ml), phân
đoạn nước (IC
50
0,032mg/ml), phân đoạn butanol (IC
50
0,087mg/ml) và phân đoạn
cloroform (IC
50
0,21mg/ml). Dich ép thân bồ lược vàng cũng được chứng minh có
khả năng liên kết với ion Fe
2+
(IC
50
0,79mg/ml), với O
2
•-
(IC
50
0,36mg/ml), gây bất
hoạt H

2
O
2
(IC
50
0,57mg/ml). Thử nghiệm hoạt tính trên NO, dịch ép này có hoạt
tính mạnh hơn tanin (IC
50
2,96mg/ml so với tanin 3,50mg/ml) nhưng yếu hơn acid
ascorbic (IC
50
1,28mg/ml) [78].
Tác dụng bảo vệ khả năng hoạt động
Dịch ép thân bồ lược vàng C. fragrans khi cho chuột cống trắng uống với
liều 5ml/kg một lần/ngày đã làm tăng thời gian bơi của chuột từ 8,8 phút lên 11,5
phút nhưng chưa có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, khi tăng liều lên 10ml/kg thể
trọng/ngày dịch ép này đã làm tăng thời gian bơi của chuột có ý nghĩa gấp hơn 2
lần so với nhóm chứng (23,7 phút so v
ới 11,3 phút). Phân tích sinh hóa cho thấy
tác dụng bảo vệ khả năng hoạt động này là do dịch ép thân lược vàng đã hoạt hóa
quá trình tổng hợp ATP trong cơ xương và cơ tim, làm tăng hàm lượng glycogen
trong gan và giảm nồng độ acid pyruvic và acid lactic trong máu. Ngoài ra, dịch ép
này đã giúp làm giảm stress oxy hóa của chuột bị cưỡng bức chạy, thể hiện ở việc
làm giảm nồng độ MDA trong huyết thanh, trong cơ xương và cơ tim chuột thí
nghiệm cũng như làm t
ăng hoạt độ enzym catalase [105].
Tác dụng chống stress
Trên mô hình gây stress ở chuột bằng cách giữ tình trạng không hoạt động
liên tục 24h, dịch ép thân C. fragrans uống với liều 5ml/kg/ngày trong 7 ngày
trước khi gây stress không có ảnh hưởng có ý nghĩa lên trọng lượng của tuyến ức,

tuyến tụy, nhưng đã gây tăng có ý nghĩa số lượng tế bào có nhân của tuyến ức và
tuyến tụy lên tương ứng là 36 và 49%. Ở chuột được uống dịch ép thân lược vàng,
tình trạng loét d
ạ dày do stress giảm còn 25% so với 100% ở nhóm chứng, không
thấy có chuột nào có u dạng vân ở nhóm uống lược vàng trong khi nhóm đối
chứng bị u 100%. Tác dụng chống stress này cũng được cho là do tác dụng chống
oxy hóa của dịch ép này, biểu hiện ở việc làm giảm 40% nồng độ MDA trong
huyết thanh và làm tăng nồng độ glutation 3 lần, tăng hoạt độ các enzym catalase
(54%) và superoxid dismutase (20%) [106].
Tác dụng trên hệ miễn dịch
Thử nghiệm trên mô hình gây ức chế miễn dịch
ở chuột bằng azathioprin,
dịch ép thân bồ lược vàng đã thể hiện tác dụng tăng cường miễn dịch, làm tăng
trọng lượng tuyến ức (12%) và lách (27%) bị suy giảm do azathioprin, tăng 25%
số lượng tế bào có nhân của hai cơ quan này. Dịch ép này cũng làm tăng chỉ số
thực bào 1,5 lần so với nhóm chứng bệnh và đưa các chỉ số này về gần với nhóm
chứng sinh lý [106].
Tác dụng chống virus
Dịch chi
ết ethanol của C. gracilis thể hiện hoạt tính chống herpes virus trên
thử nghiệm in vitro với herpes simplex virus type 2 (HSV-2) với trị số EC
50
= 10,5
µg/ml [19].
1.4. Tác dụng sinh học của một số chất có trong C. fragrans
Các chất đã được biết có trong lược vàng đều là những chất quen biết đã
được phân lập từ nhiều cây thuốc khác và đã được nghiên cứu chứng minh có
nhiều tác dụng sinh học đáng chú ý. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu về tác
dụng sinh học của các hợp chất này.
Quercetin

Quercetin là một flavonoid rất phổ biến trong thự
c vật. Quercetin được biết
đến là một chất có nhiều tác dụng sinh học đáng chú ý như tác dụng chống viêm,
chống oxy hóa, chống lão hóa, tác dụng bảo vệ gan, điều biến miễn dịch và phòng
chống ung thư.
Hoạt tính chống oxy hóa, chống lão hóa của quercetin được nghiên cứu khá
kỹ trong một số nghiên cứu gần đây. Quercetin và dẫn xuất của nó, cụ thể là
quercetin caprylat (QU-CAP) là một chất hoạt hóa mạnh proteasom, với tác dụng
chống oxy hóa, do đó nó ảnh hưởng đến tuổi thọ của tế bào và khả năng sống sót
của nguyên bào sợi HFL-1 ở người; khi bổ sung hợp chất này vào các nguyên bào
sợi đã hóa già thì quan sát được hiện tượng trẻ
hóa [28]. Ngoài ra, người ta thấy có
mối tương quan giữa stress oxy hóa gây ra bởi quá trình chuyển hóa
diethylnitrosamin (DEN) và sự phát triển ung thư gan. Quercetin là một flavonoid
có tác dụng chống oxy hóa và chống ung thư qua cơ chế thúc đẩy hệ thống phòng
thủ chống oxy hóa enzym và không-enzym trong giai đoạn khởi đầu của ung thư
gan [97].
Cũng liên quan đến việc phòng chống bệnh ung thư nhưng nghiên cứu ở
mức độ phân tử, quercetin tương tác với một số thụ thể, c
ụ thể là thụ thể aryl
hydrocarbon, là một thụ thể có liên quan đến sự phát triển của bệnh ung thư do các
chất hóa học nhất định gây ra. Quercetin điều chỉnh một vài tín hiệu của sự truyền
tính trạng trong chuỗi các phản ứng hóa sinh liên quan đến MEK/ERK và
NRF2/KEAP1, là những chất gắn liền với quá trình viêm và gây ung thư. Những
nghiên cứu về loài gặm nhấm đã chỉ ra rằng chế độ ăn uố
ng có nhiều flavonol giúp
ngăn ngừa các chất hóa học gây ung thư, đặc biệt là trong ung thư ruột kết. Nhiều
nghiên cứu dịch tễ học cũng đã cho thấy quercetin có thể có liên quan đến phòng
ngừa ung thư phổi [70].
Quercetin còn được biết đến là một chất có tác dụng bảo vệ các tế bào gan.

Trong những nghiên cứu về tác động của quercetin trên những tế bào HepG2
nhiễm aflatoxin B (1) (AFB (1)) cho kết quả là quercetin ức chế sự sản xu
ất các
loại oxy phản ứng và các chất gây độc tế bào, và ngăn chặn sự giảm glutathion
(GSH) trong các tế bào HepG2 nhiễm AFB (1). Tuy nhiên, quercetin làm giảm
không đáng kể nồng độ phosphatase kiềm trong huyết thanh; trong khi alanin
aminotransferase và aspartat aminotransferase ở chuột nhiễm AFB(1) lại tăng lên.
Do đó, tác dụng bảo vệ gan của quercetin là không trực tiếp chống lại AFB(1) mà
tăng cường hệ thống phòng vệ chống oxy hóa và ức chế sự peroxy hóa lipid [27].
Các tế bào đuôi gai (DCs) cần thiết cho h
ệ thống điều hòa miễn dịch. Kết
quả nghiên cứu in vitro về sự tác động của quercetin trên các tế bào đuôi gai cho
thấy quercetin giảm độ bám dính của DCs (-42%, p<0,05) và sự biểu hiện của
CD11a (-21%; p < 0.05) và ức chế một phần sự phân hóa DCs do OxLDL
(oxidized low density lipoprotein) gây ra (BDCA-1-29%; BDCA-2-33%, p <0,05).
Thử nghiệm in vivo được tiến hành với 8 tình nguyện viên nam khỏe mạnh, được
dùng 500 mg quercetin 2 lần/ngày trong 4 tuần. Kết quả cho thấy quercetin làm
giảm BDCA-2 + DCs trong máu ngoại vi 42% (p<0,05) cũng như dimethylarginin
bất đối xứng ức chế NO-synthase trong cơ thể (-31%, p<0,05). Như vậy, tác dụng
điều biến miễn dịch của quercetin cũng góp phần chống xơ vữa động mạch [73].
Một tác dụng khác của quercetin cũng được quan tâm nhiều là tác d
ụng
chống viêm. Quercetin ức chế đáng kể mức độ mARN của iNOS, COX-2 và CRP
của tế bào gan Chang. Flavonoid này cũng có tác dụng ức chế trên NF-kappaB
hoạt động và trên protein cô đặc của mẫu phosphoryl hóa của chất ức chế IkappaB
alpha và IKK (IkappaB kinase) alpha. Các nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng tác
dụng điều chỉnh iNOS, COX-2 và CRP trong tế bào gan Chang của quercetin có
thể góp phần vào tác dụng chống viêm, thông qua các cơ chế có liên quan đến việc
phong tỏa NF-kappaB hoạt động và điề
u hòa tăng của các gen tiền viêm [36].

Ngoài ra, quercetin ức chế sự tiết các chất trung gian gây dị ứng trong các tế bào
RBL-2H3 và ngăn cản sự biểu hiện mARN CD23 và p38 MAPK hoạt hóa trong
IL-4 kích thích các tế bào CaCO-2. Flavonol này cũng ngăn cản IgE-OVA gây
thêm tín hiệu hoạt hóa protein kinase (ERK) và giải phóng chemokin. Như vậy,
quercetin ngăn cản một cách hiệu quả sự phát triển của chứng viêm dị ứng qua
trung gian IgE của các mô hình tế bào đường ruột [58].
Kaempferol
Kaempferol là một flavonoid thiên nhiên, nó là một trong những flavonol
phổ bi
ến trong nhiều loài thực vật như trà, bưởi, bông cải xanh, táo…Kaempferol
(3, 4',5,7-tetrahydroxyflavon) có cấu trúc hóa học tương tự quercetin và cũng có
nhiều tác dụng sinh học tương tự như quercetin. Nó cũng có tác dụng chống oxy
hóa và chống viêm; ngoài ra còn có tác dụng gây chết tế bào theo chương trình
(apoptosis) trên nhiều dòng tế bào ung thư.
Giống như quercetin, tác dụng chống viêm của kaempferol một phần là do
tác dụng điều chỉnh iNOS, COX-2 và CRP trong tế bào gan Chang thông qua các
cơ chế có liên quan đến việc phong tỏa NF-kappaB ho
ạt động và điều hòa tăng các
gen tiền viêm [36]. Kaempferol cũng ngăn cản một cách hiệu quả sự phát triển của
chứng viêm dị ứng qua trung gian IgE của các mô hình tế bào đường ruột [58] .
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng tác dụng chống oxy hóa của kaempferol
có thể liên quan đến việc cảm ứng apoptosis các tế bào H460. Đây là một kiểu làm
chết tế bào theo chương trình điển hình kèm theo sự cô đặc ADN và sự
tăng mức
ATP nội bào. Điều này có liên quan tới khả năng thay đổi mức độ biểu hiện của
caspase-3 (caspase-phụ thuộc) và AIF (caspase-độc lập). Sự biểu hiện quá mức của
enzym chống oxy hóa Mn-SOD được đẩy mạnh để tạo một loại gen mới ức chế
khối u trong một vài tế bào ung thư của người; và có thể nó đóng vai trò quan
trọng vào tác dụng apoptosis trên tế bào H460 của hợp chất kaempferol [60].
Kaempferol có tác dụng gây apoptosis trên nhiều dòng tế bào ung thư. Các

tế bào MDA-MB-453 được điều trị bằng kaempferol ở các nồng độ khác nhau (từ
1 đến 200 µM) trong 24 và 48 giờ. Kaempferol ức chế một cách đáng kể sự tăng
trưởng của tế bào ung thư ở các tế bào tiếp xúc với 50 và 10 µM kaempferol và ủ
trong thời gian tương ứng là 24 và 48 giờ. Kaempferol ức chế sự phát triển của tế
bào bằng cách phá vỡ chu trình tế bào, kết hợp mạnh với việc ngăn cản sự phân
chia tế bào ở pha G2/M và có thể gây apoptosis thông quá sự phosphoryl hóa p53
ở các tế bào MDA-MB-453 trong ung thư vú ở người [26]. Trong điều kiện
hypoxic (1% oxy), kaempferol ức chế một cách hiệu quả hoạt động của HIF-1 theo
kiểu phụ thuộc liều (IC50 = 5,16 microM). Cơ chế của s
ự ức chế này không liên
quan đến việc ngăn cản mức độ protein HIF-1alpha mà là do bất hoạt p44/42
MAPK bởi kaempferol (IC50 = 4,75 microM). Khi cho các tế bào Huh7 tiếp xúc
với 10 microM kaempferol làm giảm đáng kể khả năng tồn tại của chúng và điều
này được thể hiện rõ hơn trong điều kiện hypoxic. Như vậy, kaempferol ức chế cả
MAPK và HIF-1 hoạt động ở nồng độ sinh lý (5-10 microM) và ngăn chặn sự sống
sót của các t
ế bào ung thư gan hiệu quả hơn trong điều kiện oxy giảm. Do đó
kaempferol là một tác nhân rất có tiềm năng giúp phòng ngừa hay chữa trị ung thư
biểu mô tế bào gan (HCC) [71].
Isoorientin
Hợp chất isoorientin là một flavon có mặt trong một số loài thực vật bậc
cao. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy hợp chất này thể hiện nhiều hoạt tính sinh học
có giá trị trong các thử nghiệm in vitro và in vivo bao gồm hoạt tính chố
ng oxy
hoá, kháng viêm, kháng sinh, bảo vệ gan, chống tiểu đường, giảm đường máu.
Giống như các chất thuộc nhóm flavonoid, hoạt tính chống oxy hoá của isoorientin
thể hiện rõ rệt trong các nghiên cứu trên hệ DPPH và sự peroxy hóa lipid với giá
trị IC50 khá thấp (9-10 µM) Khả năng chống oxy hoá này được chứng minh do
isoorientin kích thích sự hoạt hoá của yếu tố phiên mã Nrf2, từ đó thúc đẩy quá
trình tổng hợp các gen liên quan đến khả năng chống oxy hoá như NAD(P)H:

quinon oxidoreductase 1 (NQO-1), hem oxigenase 1 (HO-1), periaxin (PRX) [22],
[29], [61].
Hoạt tính chống viêm của isoorientin cũng được nghiên cứu khá chi tiết
trong thời gian gần đây. Năm 2004, Kupeli và cộng sự đã thử nghiệm tác dụng
chống viêm của isoorientin trên chuột nhắt gây viêm bằng carrageenan. Kết quả
cho thấy với liều 30 mg/kg thể trọng, isoorientin làm giảm đến hơn 40% thể tích
khối viêm mà hoàn toàn không gây độc cho dạ dày [57]. Trong một thí nghiệm
khác, isoorientin ở liều 25 mg/kg thể trọng làm giảm đến 57% tế bào bạch cầu và
40% hoạt tính myeloperoxidase trên mô hình chuột nhắt gây viêm bằng
carrageenan [103].
Một hoạt tính đáng quan tâm khác của isoorientin là tác dụng chống tăng
đường huyết. Thí nghiệm trên mô hình chuột gây tiểu đường bằng streptozotocin
cho thấy isoorientin với liều 15 mg/kg thể trọng làm giảm đáng kể lượng đường
glucose trong máu trong vòng 5-15 ngày [31].
Hợp chất isoorientin thể hiện hoạt tính kháng sinh yếu trên các chủng vi
khuẩn và nấm với giá trị MIC trong khoảng 100-200 µg/mL. Trong một số nghiên
cứu, mặc dù dịch chiết các mẫ
u thực vật chứa isoorientin ức chế mạnh sự phát
triển các chủng vi sinh vật kiểm định nhưng khi được phân lập ra, hoạt tính của
isoorientin lại có giá trị thấp hơn dịch chiết ban đầu [32]. Ngoài những hoạt tính
sinh học kể trên, isoorientin còn thể hiện những nhiều tác dụng khác như bảo vệ
gan, thận [35], [79].
Scopoletin
Scopoletin là một coumarin có nhiều tác dụng sinh học. Nhiều kết quả
nghiên cứu cho thấy rằ
ng scopoletin có tác dụng chống oxy hóa, chống viêm khớp,
chống ung thư, làm hạ huyết áp và có tác dụng chống trầm cảm.
Năm 2003, Shaw CY và cộng sự đã tiến hành thử tác dụng chống oxy hóa
của scopoletin phân lập từ Sinomonium acutum. Kết quả chỉ ra rằng scopoletin
đóng vai trò dọn sạch các gốc anion superoxid trong hệ thống phản ứng

xanthin/xanthin oxidase theo kiểu phụ thuộc nồng độ, nhưng không ức chế xanthin
oxidase. Nó có thể được sử dụ
ng trong việc ngăn ngừa các gốc anion superoxid
gây hại trong cơ thể [90].
Cơ chế làm hạ huyết áp của scopoletin, phân lập từ quả Tetrapleura
tetraptera T AUB (Mimosaceae), đã được nghiên cứu in vivo và in vitro. Các kết
quả thu được cho thấy, scopoletin gây tác dụng hạ huyết áp trên động vật thí
nghiệm thông qua các cơ chế: (a) hoạt động làm giãn các cơ trơn – nghĩa là có thể
làm giãn nở các mạch máu; và (b) đóng vai trò như một tác nhân chống co thắt
không đặc hiệu (giống papaverin) [75].
Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng scopoletin có thể là một hợp chất có
tiềm năng chống lại khối u, được sử dụng để điều trị ung thư. Scopoletin phân lập
từ T. cordata Mill., đã được tiến hành thử tác dụng kháng phân bào và tác dụng
gây độc tế bào trên các u lympho bào. Các tác dụng khác nhau ở các nồng độ khác
nhau
được phân tích liên quan đến việc cảm ứng apoptosis. Scopoletin làm tăng
nhanh tế bào lympho T bình thường (chỉ số kích thích sự tăng sinh tế bào:
1microg/ml scopoletin: 1,26 +/-0,1; 10microg/ml scopoletin: 3 +/-0,25; 100
microg/ml scopoletin: 1,86 +/-0,08). Tác dụng kích thích này là do sự tương tác
của scopoletin với protein kinase C (PKC) [66]. Ngoài ra, scopoletin ức chế sự
tăng sinh của tế bào PC3 bằng cách cảm ứng quá trình apoptosis của chúng.
Scopoletin ức chế sự tăng sinh của PC3, PAA và tế bào Hela với IC
50
lần lượt là
(157 +/- 25), (154 +/- 51), và (294 +/- 100) mg/L. Scopoletin làm giảm hàm lượng
protein và giảm mức ACP trong các tế bào PC3 theo kiểu phụ thuộc nồng độ. Các
tế bào được xử lý với scopoletin cho thấy những sự thay đổi về hình thái điển hình
của apoptosis bằng kính hiển vi ánh sáng, kính hiển vi huỳnh quang và kính hiển
vi điện tử truyền qua. Tỷ lệ tế bào chết theo chương trình là 0,3%, 2,1%, 9,3% và
35% tương ứng với liều scopoletin là 0, 100, 200, và 400 mg/L và các tế bào ở pha

G2 giảm rõ rệt sau khi được xử lý bằng scopoletin [64].
Scopoletin là thành phần chính của coumarin tìm thấy trong thân cây
Erycibe obtusifolia Benth, một loại dược liệu được sử dụng trong y học cổ truyền
của Trung Quốc để điều trị viêm khớp dạng thấp. Tiêm scopoletin vào màng bụng
với liều 50, 100 mg/kg làm giảm sự sưng tấy chân cũng như các chỉ số về khớp và
làm tăng trọng lượng trung bình cơ thể của chuột b
ị viêm khớp. Chuột được điều
trị với scopoletin liều cao hơn thì các khớp có cấu trúc mô học gần như bình
thường và giảm sự hình thành các mạch máu mới trong các mô hoạt dịch. Hơn
nữa, scopoletin điều hòa ức chế sự biểu hiện quá mức của yếu tố tăng trưởng nội
mạc mạch máu, yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi cơ bản và interleukin - 6 trong
các mô hoạt d
ịch. Kết quả là scopoletin có khả năng giảm dần các triệu chứng lâm
sàng của chuột bị viêm khớp [80].
Scopoletin phân lập từ Polygala sabulosa (Polygalaceae) có tác dụng giống
như thuốc chống trầm cảm. Scopoletin làm giảm thời gian bất động trong mô hình
treo đuôi chuột (10-100mg/kg, p.o.), nhưng không giảm trong thử nghiệm bơi
cưỡng bức. Các rối loạn bất động làm tăng thời gian bất động trong các thử
nghiệm bơi cưỡng bức (hành vi giống như trầm cảm), được làm giảm bởi
scopoletin (1-100mg/kg, p.o.). Tác dụng giống như thuốc chống trầm cảm của
scopoletin phụ thuộc vào các hệ thống thu thể serotonergic (thụ thể 5-HT (2A)),
noradrenergic (alpha (1) - và alpha (2)-adrenoceptors) và dopaminergic (thụ thể
dopamine D (1) và D ( 2)) [21].
Umbelliferon
Umbelliferon (7-hydroxycoumarin), một dẫn xuất của coumarin, là
benzopyron trong tự nhiên. Nó có nhiều tác dụng sinh học như chống oxy hóa, hạ
đường huyết và chống béo phì.
Ramesh B., Pugalendi K.V. đã tiến hành thử nghiệ
m các tác dụng sinh học
của umbelliferon trên chuột bị tiểu đường. Umbelliferon tăng cường khả năng

chống oxy hóa nên được xem là một chất chống oxy hóa mạnh. Chuột tiểu đường
được điều trị bằng umbelliferon (30 mg/kg trọng lượng cơ thể) hòa tan trong 10%
dimethyl sulfoxide (DMSO) trong 45 ngày, làm giảm mức peroxy hóa lipid và
tăng cường những chất chống oxy hóa enzym và không-enzym lên mức gần như
bình thường [87].
Ở chuột tiểu đường, mức đường huyế
t, hemoglobin glycosyl hóa (HbA
(1c)) tăng và hoạt động của các enzym tân tạo glucose như glucose-6-phosphatase
và fructose-1, 6-bisphosphatase cũng tăng; trong khi mức insulin huyết tương,
hemoglobin (Hb), glycogen gan giảm và các hoạt động của glucokinase và
glucose-6-phosphate dehydrogenase cũng giảm. Tiêm umbelliferon vào màng
bụng chuột tiểu đường (với liều 10, 20 và 30 mg/kg trọng lượng cơ thể) và
glibenclamid (600 micro g/kg trọng lượng cơ thể) trong 10% DMSO hòa tan trong
nước, trong 45 ngày, làm giảm đáng kể mức độ glucose máu, HbA (1c) và hoạt
động của glucose-6-phosphatase và fructose-1,6-bisphosphatase, trong khi đó làm
tăng nồng độ insulin huyết tươ
ng, Hb, glycogen gan và hoạt động của glucokinase
và glucose-6-phosphate dehydrogenase lên gần như bình thường. Ngoài ra, ở chuột
tiểu đường, các thành phần glycoprotein trong huyết tương và trong các mô (gan,
thận, tim và não) như acid sialic, hexose toàn phần, fucose, và hexosamin tăng
lên. Điều trị với umbelliferon hòa tan trong 10% DMSO trong 45 ngày đưa các
thành phần glycoprotein về gần bình thường. Như vậy, kết quả cho thấy rằng
umbelliferon với liều 30 mg/kg trọng lượng cơ thể có tác dụng hạ đường huyết, tác
dụng này có thể so sánh được vớ
i glibenclamid. Umbelliferon đã cải thiện việc
kiểm soát mức đường huyết, do đó giảm sự hình thành các thành phần
glycoprotein, giúp chống lại nguy cơ biến chứng của bệnh tiểu đường [86], [88].
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng umbelliferon ngoài tác dụng chống đái tháo
đường còn có tác dụng chống tăng lipid máu. Trong huyết tương của chuột bị tiểu
đường, cholesterol toàn phần (TC), cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL-C),

cholesterol lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL-C), triglycerid (TG), acid béo tự
do (FFA) và phospholipid (PL) tăng cao còn cholesterol lipoprotein tỷ trọ
ng cao
(HDL-C) giảm sút. Trong mô gan và thận của chuột bị tiểu đường TC, TG, FFA,
và PL có nồng độ cao. Ở chuột được điều trị tiểu đường bằng umbelliferon, các chỉ
số TC, TG, PL và FFA trong huyết tương và mô; và LDL-C, VLDL-C, và HDL-C
huyết tương gần trở lại như bình thường [85].
Aloe emodin
Aloe emodin là một hydroxyanthraquinon, có một số tác dụng sinh học
đáng chú ý như tác dụng chống viêm, chống virus và tác dụng chống ung thư.
Cơ chế gây viêm chính của đại thự
c bào là do chúng gây cảm ứng nitric
oxid synthase (iNOS) dẫn đến việc sản xuất ra oxid nitric ở mức cao. Aloe emodin
có tác dụng chống viêm vì nó ức chế việc sản xuất oxid nitric (NO), yếu tố hoại tử
u TNF- α và interleukin IL-12 từ các đại thực bào đã hoạt hóa bởi
lipopolysaccharid (LPS) và interferon-gamma (IFN- γ). Kết quả cho thấy, IC
50
của
aloe emodin trên NO, TNF-α và IL-12 từ các đại thực bào ở phúc mạc đã hoạt hóa
là 30 µM [69].
Kết quả nghiên cứu của Lin C.W. và cộng sự ở Trung Quốc đã cho thấy
aloe emodin là tác nhân tạo ra IFN với tác động kháng virus, ức chế virus viêm
não Nhật Bản (JEV) và enterovirus 71 (EV71). Aloe emodin có tác dụng gây độc
tế bào thấp đến các tế bào tiền đơn nhân HL-CZ của người và các tế bào
medulloblastoma TE-671 (bướu nguyên bào tủy) và hoạt hóa mạnh yếu tố đáp ứng
kích thích interferon (ISRE – interferon-stimulated response element) và chuỗi
hoạt hóa gamma (GAS- gamma-activated sequence). IC
50
của aloe emodin thay
đổi từ 0,50microg/mL đến 1,51microg/mL đối với JEV và từ 0,14microg/mL đến

0,52microg/mL đối với EV71. Aloe emodin cho thấy rõ khả năng ức chế mạnh
virus và đạt được các chỉ số điều trị cao, đặc biệt với các tế bào HL-CZ [62].
Hợp chất aloe emodin là một loại tác nhân chống ung thư mới với hoạt tính
chọn lọc chống lại khối u thần kinh ngoại bì (neuroectodermal) in vitro và in vivo.
Aloe emodin không ức chế sự
tăng sinh của nguyên bào sợi bình thường cũng như
của các tế bào tiền tạo máu mà cơ chế gây độc tế bào của nó là cảm ứng apoptosis
làm chết tế bào theo chương trình. Tính chọn lọc chống lại các tế bào khối u thần
kinh ngoại bì phụ thuộc hiệu lực cụ thể của việc kết hợp thuốc [81].
Kết quả nghiên cứu tác dụng chống ung thư của aloe emodin trên hai dòng
tế bào ung thư gan ở người là Hep G2 và Hep 3B cho thấy aloe emodin ức chế sự
phát triển tế bào và gây apoptosis ở cả hai dòng tế bào được thử nghiệm, nhưng
với các cơ
chế khác nhau. Ở các tế bào Hep G2, aloe emodin cảm ứng sự biểu hiện
p53 và kèm theo cảm ứng sự biểu hiện p21 kết hợp với việc ngăn cản chu trình tế
bào trong pha G1. Ngoài ra, aloe emodin làm tăng đáng kể lượng thụ thể
Fas/APO1 và sự biểu hiện của Bax. Ngược lại, với những tế bào Hep 3B thiếu p53,
tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào của aloe emodin qua trung gian phụ thuộc p21
mà không ngăn cản chu trình t
ế bào hoặc làm tăng lượng thụ thể Fas/APO1. Cơ
chế chính là aloe emodin gây cảm ứng apoptosis bằng cách tăng cường sự biểu
hiện của Bax [56].
Những nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy rằng aloe emodin có thể là một
loại thuốc hóa trị liệu mới và phù hợp để điều trị ung thư dạ dày ở người. Kết quả
điều tra tác dụng chống ung thư của aloe emodin trên hai dòng tế bào ung thư dạ

dày riêng biệt ở người là AGS và NCI-N87, cho thấy aloe emodin làm chết tế bào
theo cách thức phụ thuộc thời gian và liều lượng. Nó giải phóng các yếu tố cảm
ứng apoptosis và cytochrom c từ ty thể, tiếp theo là hoạt hóa caspase-3, dẫn đến co
rút nhân và gây apoptosis. Ngoài ra, aloe emodin ngăn cản sự hoạt động của casein

kinase II theo cách phụ thuộc thời gian và kèm theo sự giảm phosphoryl hóa Bid .
Trong một nghiên cứu khác, các tế bào MGC-803 được điều trị bằng 2,5, 5, 10, 20
và 40 microM aloe emodin trong 1-5 ngày. Kết quả cho thấy aloe emodin ức chế

sự tăng trưởng của tế bào ung thư theo cách phụ thuộc liều dẫn đến làm gián đoạn
chu trình tế bào. Hơn nữa, nó làm giảm hoạt tính của phosphatase kiềm (ALP) và
gây ra sự khác biệt giữa các tế bào [23], [38].
Acid caffeic
Nhiều nghiên cứu cho thấy acid caffeic có tác dụng chống oxy hóa, làm hạ
đường huyết, tác dụng chống viêm và làm lành vết thương.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc dùng acid caffeic cho chuột bị nhiễm
độc rượu làm giả
m bớt những thương tổn oxy hóa do rượu gây ra trong gan và
thận. Uống acid caffeic với liều 12 mg/kg/trọng lượng cơ thể trong 45 ngày làm
giảm đáng kể stress oxy hóa do nhiễm độc rượu, bằng chứng là giảm mức peroxy
hóa lipid đồng thời tăng hàm lượng các chất chống oxy hóa enzym và không-
enzym (như vitamin C và E, superoxid dismutase (SOD), catalase (CAT),
glutathion peroxidase (GPx), glutathion (GSH), và glutathion S-transferase (GST))
trong gan và thận. Những nghiên cứu mô học gan và thận cũng cho thấy việc uống
acid caffeic làm giảm rõ rệt những thay đổi bệnh lý do rượu gây ra [51].
Ngoài tác dụng chống oxy hóa kể trên, acid caffeic còn được chứng minh là
có tác dụng làm hạ đường huyết ở chuột C57BL/KsJ-db/db. Ở nhóm sử dụng acid
caffeic: mức đường huyết và hemoglobin glycosyl hóa giảm nhiều hơn so với
nhóm đối chứng; mức insulin huyết tương, C-peptid và leptin cao hơn đáng kể so
với nhóm đối chứ
ng. Tác dụng làm tăng insulin huyết tương của acid caffeic có thể
là do tác dụng chống thoái hóa trên các đảo nhỏ. Acid caffeic cũng làm tăng rõ rệt
glucokinase hoạt động và sự biểu hiện mARN của nó và tăng hàm lượng glycogen;
đồng thời giảm glucose-6-phosphatase và phosphoenolpyruvat carboxykinase hoạt
động và sự biểu hiện mARN của chúng, kèm theo việc giảm sự biểu hiện của chất

vận chuyển glucose 2 trong gan. Ngược lại với chất vận chuyển glucose 2 ở gan,
sự bi
ểu hiện của chất vận chuyển glucose 4 ở tế bào tạo mỡ lại lớn hơn nhóm đối
chứng. Ngoài ra, acid caffeic còn làm tăng đáng kể hoạt động của các enzym SOD,
CAT, GPx và mức độ biểu hiện mARN của chúng; trong khi đó làm giảm mức
hydrogen peroxid và các chất phản ứng acid thiobarbituric trong hồng cầu và gan
của chuột db/db. Các kết quả này cho thấy cơ chế chống đái tháo đường của acid
caffeic là ngăn chặn sự ti
ến triển của đái tháo đường týp 2 do nó làm giảm lượng
glucose sản xuất ở gan và tăng cường hấp thu glucose ở các tế bào tạo mỡ, tăng
tiết insulin và tăng khả năng chống oxy hóa [49].
Ho Sun Song và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu một tác dụng đặc biệt của
acid caffeic là tác dụng làm lành vết thương trên chuột bị rạch da. Acid caffeic là
một chất có hoạt tính chống oxy hóa mạnh và chống viêm trong hệ thống tế bào
nuôi cấy; và có thể có liên quan đến việc chữa lành vết thương trên chuột bị rạch
da. Nó kích thích các polymer tổng hợp giống như collagen trong tế bào nguyên
bào sợi NIH 3T3; nhưng lại ức chế cả hai thế hệ loài oxy phản ứng do silica gây ra,
ức chế sự giải phóng acid arachidonic do melittin sinh ra, ức chế sự sản xuất PGE
2 trong tế bào Raw 264,7; và ức chế sự giải phóng histamin trong các tế bào RBL
2H3 được kích thích bởi melittin hoặc acid arachidonic [92].
Acid gallic
Acid gallic là một polyphenol, được phân bố rộ
ng rãi trong các loài thực vật
cũng như trong nhiều loại thực phẩm khác nhau và nhiều tác dụng sinh học của nó
đã được báo cáo.
Acid gallic là một hợp chất chống oxy hóa tự nhiên. Đặc tính chống oxy
hóa hỗ trợ cho tác dụng bảo vệ gan của hợp chất này. Các tác dụng này được đánh
giá trên chuột bị tổn thương gan do nhiễm độc paracetamol và được so sánh với
silymarin, một thuốc bảo vệ gan tiêu chuẩn. Chuột được nhận một liều
paracetamol (900 mg/kg trọng lượng cơ thể); và được cho acid gallic (100 mg/kg

trọng lượng cơ thể) và silymarin (25 mg/kg trọng lượng cơ
thể) 30 phút sau khi
tiêm paracetamol. Khi so sánh với nhóm đối chứng, ở nhóm chuột uống
paracetamol: hoạt động của các enzym gan (aspartat transaminase, alanin
transaminase và phosphatase kiềm) được tăng cường; TNF- α và mức độ peroxy
hóa lipid cũng tăng cao (p < 0,05); trong khi mức chống oxy hóa lại suy giảm (p <
0,05). Điều trị bằng acid gallic làm giảm đáng kể những thay đổi trên (p <0,05) do
tác dụng chống oxy hóa của acid gallic [89].
Theo kết quả nghiên cứu của Giftson J.S. và cộng sự (năm 2010), acid
gallic là một tác nhân có khả năng phòng ngừ
a ung thư ruột kết do 1,2-dimethyl
hydrazin (DMH) gây ra. Do acid gallic có tác dụng chống oxy hóa; nó làm giảm
các sản phẩm của sự peroxy hóa lipid (LPO) như các chất phản ứng acid
thiobarbituric (TBARS), các hydroperoxid lipid (LOOH) và các dien liên hợp
(CD) và cũng làm tăng mức độ các chất chống oxy hóa như superoxid dismutase
(SOD), catalase (CAT), glutathion (GSH), glutathion reductase (GR) và glutathion
peroxidase (GPx) trong các mô của chuột nhiễm DMH nên hạn chế được những
tác động do DMH gây ra. [37].
Acid gallic có hoạt tính ức chế tyrosinase mạnh với IC50 = 3,59 x 10
-6
M
trên các tế bào u hắc sắc tố B16. Acid gallic có tác dụng điều hòa ức chế việc sản
sinh các loài phản ứng (RS) và tăng cường tỉ lệ glutathion (GSH) / glutathion đã
oxy hóa (GSSG) [53].
Acid gallic đã chứng tỏ được khả năng ức chế đáng kể sự tăng sinh tế bào
và gây apoptosis trên một loạt các dòng tế bào ung thư.
Nghiên cứu in vitro cho thấy, acid gallic gây ra những thay đổi về hình thái,
giảm tỷ lệ tế bào sống sót và gây apoptosis trên tế bào hắc sắc tố A375-S2 theo
cách phụ thuộc thời gian và liều. Quan sát cơ chế apoptosis ở mức độ phân tử
trong tế bào A375-S2 cho thấy acid gallic điều hòa tăng các protein pro-apoptotic

như Bax và gây cảm ứng hoạt động của dòng thác caspase, nhưng lại điều hòa ức
chế các protein anti-apoptotic như Bcl-2. Acid gallic kích thích giải phóng nguyên
sinh chất của các phân tử apoptotic, cytochrom c, thúc đẩy sự hoạt hóa caspase-9
và caspase-3 và cuối cùng là làm chết tế bào. Ngoài ra, acid gallic cũng thúc đẩy
việc giải phóng nguyên sinh chất của yếu tố cảm ứng apoptosis (AIF) và
endonuclease G (Endo G). Do đó, acid gallic gây cảm ứng apoptosis thông qua cả
2 cơ chế phụ thuộc caspase và không phụ thuộc caspase [65].
Acid gallic còn có tác dụng cảm ứng apoptosis trên các tế bào bạch cầu
dạng tiền tuỷ bào promyelocytic HL-60RG. Phân tích Flow cytometric (phương
pháp đo dòng chảy tế bào) cho thấy rằng apoptosis không được kích hoạt ở một
giai đoạn cụ thể của chu kỳ tế bào và các tế bào HL-60RG chỉ cần tiếp xúc với
acid gallic 2h là đủ để gây ra apoptosis. Các thử nghiệm khác cho thấy tác dụng
gây chết tế bào của acid gallic qua trung gian bở
i các loài oxy phản ứng như
hydrogen peroxid, các anion superoxid , các enzym phụ thuộc calmodulin [44].
Cũng liên quan đến tác dụng gây chết tế bào theo chương trình của acid
gallic, các nhà khoa học của Hàn Quốc, You BR và cộng sự đã tiến hành nghiên
cứu những tác động của acid gallic liên quan đến việc ức chế sự tăng trưởng và
gây chết tế bào trên các tế bào ung thư cổ tử cung HeLa. IC50 của acid gallic
khoảng 80 microM trong 24h đối với các tế bào HeLa; trong khi IC50 của acid
gallic đối với các tế bào nội mô tĩ
nh mạch rốn của người (HUVEC) là khoảng 400
microM. Acid gallic ức chế sự tăng trưởng của tế bào HeLa và HUVEC qua
apoptosis và/hoặc hoại tử. Độ nhạy cảm của các tế bào HeLa đối với acid gallic
cao hơn của HUVEC [101].
Acid chicoric
Một tác dụng đáng chú ý và đang được quan tâm nghiên cứu nhiều của acid
chicoric là tác dụng chống HIV. Acid chicoric là một dẫn xuất của acid caffeic,
trong tương lai nó có thể là hợp chất chống HIV đa mục tiêu, hỗ tr
ợ mạnh cho việc

điều trị HIV. Acid L - chicoric đã được xác định là một chất ức chế mạnh HIV-1
IN (Human immunodeficiency virus 1 integrase), là enzym chịu trách nhiệm tích
hợp DNA của virus vào bộ gen của vật chủ, và đóng vai trò quan trọng trong việc
sao chép, nhân lên của virus [18], [40]. Hoạt tính kháng virus HIV-1 của acid L -
chicoric là do ức chế sự tích hợp HIV-1.
Acid L - và D -chicoric và các dẫn xuất
ester tetra-acetyl của chúng ức chế sự sao chép của virus HIV-1 (III (B) và NL4.3)
và HIV-2 (ROD) trên các tế bào MT- 4 với EC50 khác nhau từ 1,7 đến 70,6
microM và IC50 khác nhau từ 40 đến 60 microM [63], [83].
Ngoài tác dụng chống HIV, acid chicoric còn là một hợp chất có tiềm năng
chống đái tháo đường. Sử dụng các nghiên cứu in vitro để đánh giá tác động của
acid chicoric tinh khiết phân lập từ Cichorium intybus trên sự hấp thu glucose và

×