Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.81 KB, 16 trang )

Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của WTO, vấn đề quản trị doanh nghiệp (DN) đã được đặt ra như một yêu
cầu cấp thiết và quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Quản trị DN tốt đồng nghĩa
với khả năng tiếp cận tài chính, đầu tư, nâng cao giá trị tăng trưởng... Các ngân hàng thương mại
(NHTM) với đặc thù là các tổ chức kinh doanh “tiền”, có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn
thì vấn đề quản trị lại càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt đối với một nước đang phát triển như Việt
Nam, khi ngân hàng là nguồn tài chính bên ngoài cực kỳ quan trọng đối với DN. Một ngân hàng
yếu kém trong quản trị sẽ không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà cịn tạo nên những
rủi ro nhất định mang tính dây chuyền cho các đơn vị khác và ngược lại. Rõ ràng, khả năng
chống đỡ của ngân hàng càng cao, khả năng hỗ trợ cho khu vực DN sẽ càng lớn. Thời gian tới,
khi hàng loạt các ngân hàng ngoại sẽ ồ ạt "đổ bộ" vào Việt Nam, chắc chắn những địi hỏi về
cơng tác quản trị ngân hàng (QTNH) sẽ càng gay gắt hơn đối với ngân hàng nội.

Phần 1. Một số vấn đề cơ bản về quản trị ngân hàng
I,Thứ nhất, tại sao cần quan tâm đến QTNH
Các NHTM - bản thân chúng cũng là các DN, song là các DN đặc biệt, do vậy hoạt động QTNH
không những tác động đến giá trị của ngân hàng và giá vốn của họ mà còn tác động đến giá vốn
của các DN và hộ gia đình mà họ cho vay vốn. Cơng tác tổ chức và quản trị tại ngân hàng sẽ tác
động trực tiếp không chỉ đến giá trị của ngân hàng mà cịn tới vị thế và uy tín của ngân hàng.
Một cách tổng quát, công tác QTNH tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, là
thước đo cho khả năng chống đỡ của ngân hàng trước biến động của nền kinh tế. Không những
thế, hoạt động của ngân hàng tác động đến sản lượng của nền kinh tế bởi lẽ các ngân hàng huy
động và phân bổ tiết kiệm của xã hội. Đặc biệt ở các nước đang phát triển, khi các ngân hàng là
nguồn tài chính bên ngồi rất lớn của DN, QTNH tốt sẽ góp phần thúc đẩy quản trị DN của các
DN mà họ cho vay.
II,Thứ hai, đặc điểm của quản trị DN ở các ngân hàng
Các NHTM là các DN đặc biệt nên hoạt động của các ngân hàng cũng có những “đặc thù” khác
với các cơng ty. đó là: sự khơng rõ ràng của một số nguồn thơng tin tài chính khiến khó đánh giá
chất lượng hoạt động và rủi ro; sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý; độ rủi ro
lớn, nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt động là rất cao và rất dễ dẫn đến phá sản;


chịu sự quản lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe và chi tiết do tầm quan trọng trong hệ
thống, nếu đổ vỡ có thể gây ra tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Vì thế, bản thân các ngân hàng
cũng phải đưa ra các quy định rất cụ thể, rõ ràng như các hạn chế về hoạt động (sản phẩm, chi
nhánh), u cầu về đảm bảo an tồn (phân loại tín dụng, dự trữ bắt buộc…).

1


Tại cùng một thời điểm, các ngân hàng chịu nhiều rủi ro về quản trị DN hơn chính vì tính khơng
rõ ràng có nghĩa là phạm vi cát cứ, chuyển giao rủi ro, lợi ích của cá nhân và sự chiếm dụng công
khai (hoạt động ngầm, cho vay nội gián, chiếm đoạt…) lớn hơn so với các DN phi tài chính. Do
đó, vai trị của QTNH lớn hơn vì với quản trị tốt, ngân hàng có thể minh bạch hơn, giá trị cao
hơn và tạo điều kiện giám sát hiệu quả hơn.

Phần 2. Thực tiễn QTNH ở Việt Nam hiện nay
Phải nói rằng, ở bất cứ nền kinh tế nào quản trị nói chung và QTNH nói riêng ln có tầm quan
trọng đặc biệt và là chìa khố để giúp các DN thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược của mình,
bảo đảm sự phát triển bền vững. Song, thực tiễn QTNH ở Việt Nam thời gian qua đã bộc lộ
khơng ít những hạn chế mà nếu khơng khắc phục được thì các NHTM Việt Nam sẽ rất khó cạnh
tranh trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay. Những hạn chế có thể kể đến là:

I,Thứ nhất, thiếu khn khổ cho hoạt động quản trị
Có một sự thật khá trớ trêu là từ trước tới nay, bộ luật liên quan trực tiếp tới các hoạt động tín
dụng, hay tổ chức tín dụng lại khơng hề có mục nào đề cập cụ thể tới các vấn đề tổ chức và quản
trị. Kể cả khi Luật DN mới được sửa đổi vào năm 2005, vấn đề về quản trị DN của NHTM
dường như vẫn bỏ ngỏ. Thực tế, trong suốt thời gian qua, vẫn thiếu hẳn một hệ thống luật đầy đủ
trong công tác quản lý tổ chức và quản trị. Khơng có luật, NHTM phải dựa vào các Nghị định để
tự xây dựng cơ chế quản trị. Đánh giá của giới luật sư cho thấy, bất chấp việc Việt Nam đã cho
ra đời hàng loạt những bộ luật mới để chuẩn bị cho giai đoạn chính thức hòa nhập kinh tế quốc
tế, nhưng các văn bản pháp lý về tổ chức, QTNH vẫn “như cũ”, thậm chí có một số điểm khơng

cịn phù hợp với hồn cảnh thực tiễn trong hoạt động của NHTM. Trong khi đó, điểm yếu của hệ
thống NHTM Việt Nam chính là nguồn vốn điều lệ còn quá thấp, nguồn nhân lực, cán bộ nhân
viên được đào tạo nhiều nhưng chưa đáp ứng u cầu hội nhập quốc tế.
II,Thứ hai, mơ hình tổ chức và quản lý hiện tại bộ lộ một số nhược điểm
Mơ hình tổ chức và quản lý hiện tại được phân biệt chủ yếu theo chức năng với hai cơ cấu quyền
lực là cấp quản trị điều hành và cấp quản lý kinh doanh.
HĐQT can thiệp vào điều hành
Dù luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của HĐQT và ban điều hành (BĐH), nhưng trong thực
tế việc chồng chéo, lấn sân, thậm chí lấn át vẫn xảy ra ở nhiều ngân hàng khiến cho hệ thống ra
quyết định phức tạp thiếu minh bạch, chưa tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát điều
hành NH, đặc biệt là ở các NHTM do Nhà nước là chủ sở hữu. Thành phần và cơ cấu HĐQT của
nhiều NH còn bất cập, quan hệ giữa HĐQT và BĐH không mấy sn sẻ, vai trị của các UB/hội

2


đồng thuộc HĐQT mờ nhạt, trách nhiệm của các ủy viên HĐQT không rõ ràng. Nếu khảo sát về
mức độ tham gia của HĐQT của các NH ở VN vào việc điều hành bắt đầu từ mức tham gia thụ
động cho đến mức độ cuối cùng là điều hành thì nhiều NH tỏ ra ở mức độ can thiệp. HĐQT
thường can thiệp vào việc điều hành qua sự yêu cầu trực tiếp hay gián tiếp BĐH. Biểu hiện rõ rệt
là HĐQT họp thường xuyên, thường là đột xuất và căng thẳng. Ranh giới giữa chỉ đạo, xây dựng
và ban hành chủ trương, đường lối và việc thực hiện không rõ ràng, dẫn đến tình trạng “vừa đánh
trống, vừa thổi cịi” .
Ban kiểm soát hoạt động “chênh vênh”
Theo quy định, Ban kiểm sốt (BKS) là bộ phận độc lập có chức năng giám sát việc tuân thủ các
quy định của pháp luật và điều lệ của TCTD, chịu trách nhiệm trước ĐHCĐ, chủ sở hữu và thành
viên góp vốn. Nhưng ĐHCĐ thì 1 năm mới họp 1 lần, nên hoạt động thường xun của BKS
chênh vênh khơng có sự chỉ đạo. Tại nhiều NH, các giải pháp quản trị rủi ro đã được đưa ra,
nhưng việc áp dụng còn chưa triệt để, nửa vời. Theo TS Nguyễn Trí Hiều thì sự phân chia giữa
quyền sở hữu và quyền kiểm soát của một số NH cũng là một vấn đề.

Tại nhiều NH có những cổ đơng sáng lập, cổ đơng lớn thường cảm thấy có trách nhiệm với sự
sống cịn của NH mình nên thường dành cho mình quyền kiểm sốt tuyệt đối, không những trong
vấn đề liên quan đến chiến lược và định hướng mà ngay cả những quyết định quan trọng thuộc
thẩm quyền BĐH. Trên thực tế ở một số NH, BKS thay vì đại diện cho ĐHCĐ lại thường trở
thành đồng minh cho Tổng GĐ và Chủ tịch HĐQT. TS Nguyễn Thị Thanh Hương nói, phải phân
biệt quyền kiểm sốt và quyền sở hữu vì chỉ với 1 đồng chủ sở hữu, NH có thể huy động 20 đồng
của xã hội, nên khơng thể để tình trạng các cổ đông lớn lạm quyền sở hữu để huy động vốn cho
các mục đích của cá nhân mình, rất nguy hiểm.

III,Thứ ba, Tính cơng khai, minh bạch thấp
Một trong những ngun tắc QTDN là DN phải được quản trị theo cách minh bạch. Tuy nhiên,
tại nhiều NH, nhất là NHTM nhà nước chưa có cơ chế báo cáo và cơng bố thông tin nghiêm
ngặt, minh bạch. Công chúng và NĐT chưa được tiếp cận thuận lợi qua kênh chính thức đối với
các thơng tin về NH như: Tình hình tài chính, hoạt động, chiến lược, mục tiêu kinh doanh, các cổ
đông lớn, các yếu tố rủi ro chưa được công bố đầy đủ và kịp thời để giúp công chúng và các
NĐT có thể đánh giá hợp lý về tình trạng và triển vọng phát triển của các NH. Hệ thống thơng
tin nội bộ NH cịn nhiều bất cập làm cản trở q trình chia sẻ và cập nhật thơng tin giữa các bộ
phận chức năng trong NH.
Một vấn đề nữa trong thông tin mà ban kế hoạch phát triển của BIDV chỉ ra là tại nhiều NHVN
mơ hình hệ thống thơng tin quản lý phân tán, hình thành các cấp và phân quyền quá mức (giữa
hội sở chính và chi nhánh) khiến các chi nhánh trở thành ngân hàng con, làm tăng thêm rủi ro
cho các NH trong khi quy mô NH tiếp tục mở rộng với tốc độ nhanh, trong khi năng lực kiểm
soát rủi ro của hội sở chính hạn chế do thiếu hệ thống quản trị rủi ro và hệ thống thông tin quản

3


lý, thơng tin báo cáo hữu hiệu. Có thể thấy rằng thể chế giám sát, sự minh bạch trong QTDN ở
VN chưa theo kịp sự phát triển có phần quá nóng của hệ thống NH.
IV,Thứ tư,vấn đề quản trị nội bộ chưa được quan tâm đúng mực

Quản trị nội bộ ngân hàng là một vấn đề rất cấp thiết hiện nay, đó là tiền đề giúp các ngân hàng
hoạt động tốt và chủ động nắm bắt những biến động trên thị trường. Quản trị nội bộ bao gồm
nhiều mảng liên quan từ quản trị nguồn nhân lực, quản trị tài chính đến quản trị khách hàng,
quản trị rủi ro, quản trị thương hiệu, quản trị thị trường... Nói chung là tất cả các hoạt động trong
phạm vi nội bộ liên quan đến các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng.
Sau đây chúng tôi xin đc đề cập đến 3 vấn đề quan trọng trong quản trị nội bộ NHTM đó là: Qtri
tài chính,qtri nhân lực,và quản trị rủi ro
1, Quản trị nhân lực
- Vấn đề nhận thức là cực kỳ quan trọng. Quản trị nguồn nhân lực là một q trình lâu dài, ở đó,
nhà quản trị phải thực hiện đồng thời các chức năng thu hút, duy trì và phát triển nguồn nhân lực.
Tuy vậy, thực tế cho thấy, đa phần các nhà quản trị thường tập trung cho vấn đề thu hút nguồn
nhân lực và xem việc thu hút được nhiều nhân sự có chất lượng cao là thành công nhưng lại quên
mất rằng việc duy trì và phát triển nguồn nhân lực mới là vấn đề phức tạp cần phải tập trung giải
quyết.
- Vấn đề thứ hai phát sinh từ quá trình hội nhập, từ sức ép cạnh tranh thu hút nhân sự có chất
lượng cao từ các NH thương mại nước ngoài. Việc người lao động mong muốn được làm việc
trong một môi trường chuyên nghiệp, năng động, có thu nhập xứng đáng và có cơ hội thăng tiến
là hồn tồn chính đáng. Chính vì vậy, nhà quản trị phải ln đối mặt với áp lực thay đổi nhân
sự. Điều này chỉ có thể khắc phục được nếu các NH thương mại Việt Nam thực hiện tốt chức
năng duy trì và phát triển nguồn nhân lực như đã đề cập ở trên.
Có thể thấy, ngoài 4 ngân hàng quốc doanh lớn, hầu hết các ngân hàng cổ phần đều đang chung
mối lo giữ người và đào tạo bổ sung nâng cao năng lực cho nhân viên hiện có.
Qua kinh nghiệm cá nhân cũng như dựa trên các phân tích thị trường lao động hiện nay, bà
Trần Thị Bảo Quế - Giám đốc nhân sự Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) cho rằng, có 5 yếu tố
quan trọng tạo nên môi trường làm việc hấp dẫn.
-

Trước hết, đó là chế độ, chính sách đãi ngộ hấp dẫn, khuyến khích được cán bộ nhân
viên gắn bó với doanh nghiệp và cơng việc.
Thứ hai, đó là hệ thống công cụ hỗ trợ tác nghiệp chuyên nghiệp, đầy đủ.

Thứ ba là chính sách phát triển nguồn nhân lực rõ ràng, được triển khai nghiêm túc và
có lộ trình cụ thể.

4


-

Tiếp theo đó là mơi trường giao tiếp, văn hóa doanh nghiệp bền vững, tạo dựng được
sự gắn kết.

-

Và cuối cùng, là làm sao để cán bộ nhân viên có thể chia sẻ về định hướng, tầm nhìn và
trách nhiệm với sự thành công chung.

Những yếu tố được đúc rút này có vẻ nặng tính “lý thuyết”, song trên thực tế đã có khơng ít
ngân hàng trả giá đắt khi chỉ chú trọng việc câu người bằng lương cao, thưởng hậu mà bỏ qua
các yếu tố tạo nên sự gắn kết và định hướng nghề nghiệp lâu dài cho nhân viên.

Tính dài hay chọn ngắn?
Mỗi ngân hàng có những chính sách phát triển riêng, cũng như việc đãi ngộ và các quy chế nội
bộ khác nhau, đôi khi dẫn đến tâm lý so bì giữa những người muốn nhảy việc để tìm cơ hội tốt
hơn. Đây là “áp lực” khơng nhỏ buộc các ngân hàng phải tìm ra mn vàn “chiêu thức” khác
nhau cho việc giữ người.
Đơn cử như trường hợp MB, một ngân hàng được đánh giá là ít có xáo trộn nhất về nhân sự,
Tùy thuộc từng thời điểm phát triển, ngân hàng này lại có những điều chỉnh cho việc đãi ngộ và
cam kết quyền lợi với nhân viên. “Sự phân cấp giữa nhân sự cao cấp và nhân viên là khơng đáng
kể. Thậm chí, có những loại hình đãi ngộ, chúng tơi chỉ dành riêng cho nhân viên”, bà Bảo Quế
“bật mí”.

Vậy, những người khơng ra đi khi “mồi” mức lương và vị trí tốt tại ngân hàng khác được đưa ra
đầy hấp dẫn, liệu có phải là khơng biết thiệt hơn? Theo phân tích của các chun gia, đây chính
là bài tốn cơ hội mà mỗi cá nhân tự tính tốn, cân nhắc cho mình. Đó có thể là cả một q
trình 5 năm - 10 năm, nhưng cũng có thể chỉ là tháng lương thưởng thêm cuối mỗi năm của
từng doanh nghiệp… Tính dài hay chọn ngắn, là do cách nhìn nhận của mỗi cá nhân đó.
Trong các hội thảo nghề nghiệp, người ta nói nhiều đến cơ hội nâng cao nghiệp vụ, mơi trường
chuyên nghiệp, cơ hội thăng tiến… Đó sẽ chỉ là những cụm từ sáo rỗng nếu thực tế, trong quá
trình làm việc mỗi nhân viên không được hoặc tự định hướng lộ trình phát triển nghề nghiệp.
Thơng thường, các ngân hàng lớn ln hoạch định những chương trình bồi dưỡng nhân lực,
đào tạo nâng cao giúp nhân viên giành các chứng chỉ nghiệp vụ có giá trị hoặc được cơng nhận
quốc tế.
Còn theo bà Bảo Quế, tại MB, ngay cả trong giai đoạn suy thoái kinh tế gần đây, khi các ngân
hàng khác hạn chế chi cho đào tạo thì MB vẫn coi đây là một khoản đầu tư cần thiết. “Hiện tại,

5


MB ưu tiên cho việc đào tạo chuyên sâu và đào tạo tại nước ngồi. Đồng thời, khuyến khích các
cá nhân tăng cường tự học, tự chia sẻ kinh nghiệm nội bộ thông qua các kế hoạch đào tạo nội
bộ”, bà nói.
“Muốn giữ cá to, phải be bờ kỹ”, phải chăng kinh nghiệm “giữ cá” bằng cách đầu tư bài bản này
của MB là một trong những đáp án đáng để các ngân hàng khác quan tâm trong mối lo chung
về nguồn nhân lực?
a, Quản trị tài chính
Quản trị tài chính đóng vai trị quan trọng và có phạm vi rộng lớn hiện hữu trong mọi hoạt động cuả
doanh nghiệp nói chung và đối với ngân hàng nói riêng có tác động đến tất cả các hoạt động trong ngân
hàng. Hầu hết các quyết định quan trọng của lãnh đạo ngân hàng dựa trên những thơng tin từ sự phân
tích tình hình tài chính như các hoạt động lựa chọn hình thức tổ chức doanh nghiệp, đến việc xây dựng
chiến lược kinh doanh.
1. Quản trị tài chính là gì:

Quản trị tài chính là một mơn khoa học quản trị nghiên cứu các mối quan hệ tài chính phát sinh trong
quá trình sản xuất-kinh doanh của một doanh nghiệp hay một tổ chức.
2.Phân loại:
Quản trị doanh nghiệp liên quan đến ba loại quyết định:
- Quyết định đầu tư: quyết định quan trọng nhất vì nó tạo ra giá trị cho doanh nghiệp.Quyết định đầu tư
là quyết định liên quan đến:tổng giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản cần có và mơi trường quan
hệ cân đối giữa các bộ phận tài sản trong doanh nghiệp.Cụ thể:
Quyết định đầu tư tài sản lưu động
Quyết định đầu tư tài sản cố định bao gồm mua sắm tài sản cố đinh mới,quyết định thay thế tài sản cố
định cũ, đầu tư dự án và đầu tư tài chính dài hạn
Quyết định quan hệ cơ cấu giữa đầu tư tài sản lưu động và tài sản cố định bao gồm quyết định sử dụng
đòn bẩy hoạt động và quyết định điểm hòa vốn.
- Quyết định tài trợ: nếu như quyết định đầu tư liên quan đến bên trái thì quyết định tài trợ lại liên quan
đến bên phải của bảng cân đối tài sản,nên sử dụng vốn chủ sở hữu hay vốn vay, nên dùng vốn ngắn
hạn hay vốn dài hạn.Ngoài ra, quyết định tài trợ còn xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận để lại tái đầu
tư và lợi nhuận được phân chia dưới dạng cổ tức.Một khi lựa chọn tài trợ bằng vốn vay ngắn hạn hay
vốn vay dài hạn hoặc lựa chọn giữa lợi nhuận để lại hay lợi nhuận phân chia phân chia đã được quyết
định thì bước tiếp theo nhà quản trị cịn phải quyết định làm thế nào để huy động được các nguồn tài
trợ đó.Cụ thể:

6


+ Quyết định huy động nguồn vốn ngắn hạn
+ Quyết định huy động nguồn vốn dài hạn
- Quyết định chia trả cổ tức: Chính sách cổ tức ấn định mức lợi nhuận của ngân hàng được đem ra phân
phối như thế naò.Lợi nhuận sẽ được giữ lại để tái đầu tư hay được chia trả cho các cổ đông
- Quyết định khác: quyết định về phòng ngừa rủi ro,quyết định về giao dịch và dịch vụ ...
3.Mục tiêu của quản trị tài chính
3.1. Mục tiêu của ngân hàng

Để đánh giá quản trị tài chính có hiệu quả hay khơng chúng ta cần có chuẩn mực nhất định,chuẩn mực
để đánh giá hiệu quả quản trị tài chính ở đây chính là mục tiêu của ngân hàng đề ra.
- Tạo giá trị:đứng trên giác độ taọ giá trị,tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu chính của cơng ty.Mục tiêu này
nhằm khơng ngừng gia tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu doanh nghiệp.mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
được cụ thể và lược hóa bằng các chỉ tiêu sau:
+ Tối đa hóa lợi nhuận sau thuế.
+ Tối đa hóa lợi nhuận trên cổ phần
+ Tối đa hóa gía trị cổ phiếu
- Vấn đề đại diện.
- Trách nhiệm đối với xã hội: bảo vệ khách hàng,trả lương công bằng cho nhân viên chú ý đến bảo đảm
an tòan lao động xã hội đào tạo và nâng cao trình độ của người lao động... và đặc biệt bảo vệ môi
trường.bảo vệ lợi ích của cô đông và các ngừơi liên quan.
3.2 Mục tiêu của quản trị tài chính:mục tiêu tài chính của doanh nghiệp nói chung và đối với ngân hàng
nói riêng là phải gia tăng được giá trị của ngân hàng trên thị trường.
4.Vai trị của quản trị tài chính.
Quản trị tài chính có vai trị vơ cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Bao gồm:
- Huy động và bảo đảm đầy đủ kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc
rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn.Nó đóng vai trị quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án
đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp phần chọn ra dự án
đầu tư tối ưu.
-Giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp.

7


5.Nội dung quản trị tài chính:
- Tham gia đánh giá,lựa chọn, các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh.
- Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh.
- Tổ chức sử dụng tốt các vốn hiện có, quản trị chặt chẽ các khoản thu, chi để đảm bảo khả năng thanh

toán của ngân hàng.
- Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của ngân hàng
- Đảm bảo kiểm tra,kiểm soát thường xuyên đối với tình hình hoạt động của ngân hàng và thực hiện tốt
việc phân tích tài chính.
- Thực hiện tốt kế hoạch hóa tài chính.
6.Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quản trị tài chính:
- Hình thức pháp lý của tổ chức ngân hàng
+ Ngân hàng nhà nước
+ Ngân hàng cổ phần
+ Ngân hàng liên doanh
+ Ngân hàng có vốn nước ngoài
Những đặc điểm riêng về tổ chức cũng ảnh hưởng đến quản trị tài chính như vịêc tổ chức,huy động,
cho vay, sản xuất kinh doanh và phân phối lợi nhuận.
- Môi trường kinh doanh:
+ Sự ổn định của nền kinh tế.
+ ảnh hưởng về giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế.
+ Sự canh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật cơng nghệ.
+ Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nước
+ Sự hoạt động của thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian

3 quản trị rủi ro

8


Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản
Do sự lệch pha giữa thời hạn vốn huy động với thời hạn cho vay: Với sự giảm sút
niềm tin vào VND ( do nhiều nguyên nhân khác nhau từ lạm phát, phát giá VND)
thì người dân phần lớn ưu chuộng gửi tiền với các kỳ hạn ngắn, chủ yếu dưới 12
tháng và tập trung phần lớn ở kỳ hạn từ 1 tháng tới 3 tháng. Trong khi đó, các

khoản cho vay thì phần lớn lại có kỳ hạn trên 12 tháng. Với sự lệch pha nêu trên,
chỉ cần NHTW có động thái hút tiền về từ lưu thơng về thì các ngân hàng TM có tỷ
lệ cho vay trên tổng huy động cao sẽ gặp khó khăn về thanh khoản và buộc phải
nâng lãi suất huy động. Hiện tại, ở VN số lượng ngân hàng khá lớn, phần lớn các
ngân hàng đều có chi nhánh rộng khắp các tỉnh thành quan trọng trong cả nước, chỉ
cần một ngân hàng khó khăn về thanh khoản, nâng mạnh lãi suất huy động sẽ làm
cho người dân rút tiền từ ngân hàng khác gửi sang ngân hàng này và bắt đầu xuất
hiện một cuốc đua về lãi suất huy động.
Mối quan ngại về các khoản trống
Theo quy định, với tiền gửi VND dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 3%; nhưng từ 12 tháng
trở lên chỉ là 1%. Để tránh mức 3%, ngân hàng có thể đàm phán với doanh nghiệp những khoản
tiền gửi lớn trú ở kỳ hạn trên 12 tháng, nhưng ngầm định doanh nghiệp có thể rút vốn trước hạn
mà vẫn bảo toàn lãi suất. Ở trường hợp này, ngân hàng đánh đổi lợi ích chi phí với khả năng rủi
ro.
“Việc quản trị thanh khoản tập trung ở dữ liệu sổ sách, cơ cấu các kỳ hạn. Nhưng với thỏa thuận
trên, khi nguồn tiền gửi rút ra trước hạn sẽ để lại những khoảng trống, rủi ro có từ những khoảng
trống này”,
Đi cùng với những khoảng trống đó là sự thụ động trong quản trị. Hay nói một cách hình ảnh,
ngân hàng xây tường bao thanh khoản nhưng lại tiềm ẩn những khoảng trống có thể xẩy ra bất cứ
lúc nào ở móng.

Trước nguy cơ trên, ngày 10/3 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông
tư số 04/2011/TT-NHNN quy định áp lãi suất thấp nhất (không kỳ hạn) đối với các
khoản tiền gửi rút trước hạn. Quy định này sẽ hạn chế phần nào nguồn gốc tạo
những khoảng trống đó.
Biện pháp
-

Một trong những đề xuất quản trị rủi ro thanh khoản (vừa được đăng tải trên website của ngân
hàng Nhà nước) là không cho phép rút trước hạn tiền gửi có kì hạn, trừ trường hợp đặc biệt khi

khách hàng có thỏa thuận trước với ngân hàng.

9


-

đẩy mạnh cho vay ngắn hạn, cho vay bổ sung vốn lưu động đối với doanh nghiệp , do đó tỷ lệ
nguồn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn chỉ là 17,62%, thấp hơn nhiều so với quy định của
Ngân hàng Nhà nước (30%).

-

phát triển hợp đồng huy động có lãi suất được điều chỉnh theo lạm phát.

* Rủi ro tín dụng:
a. Khái quát về rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay
không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất cho NH, đó là
khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho NH.
Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của NHTM như:
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ khơng có tài sản đảm bảo.
Hiện nay, cơng tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trị cực kỳ quan trọng đối với các ngân
hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt
các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân
hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng

Do đặc thù mà hoạt động cho vay trong các ngân hàng vẫn là chủ yếu, chiếm từ 70% đến
90% tổng tài sản có và một tỷ lệ tương đương trong tổng thu nhập của hệ thống ngân hàng. Đồng
thời, tỷ lệ nợ xấu mặc dù đã được cải thiện song vẫn ở mức cao và đang có xu hướng tăng lên.
Theo Ngân hàng Nhà nước, tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là 2,16% vào cuối 2010 và
tăng lên 3,21% vào cuối tháng 8.2011. Những ngân hàng có truyền thống kiểm sốt tốt nợ xấu
“bật mí” cho đến tháng 8-2011 nợ xấu của họ đã tăng khoảng 0,5% so với mức cuối năm ngoái.
Một số ngân hàng thừa nhận mức tăng là 1%, thậm chí 1,5 -2%.
VD: tháng 8/2011: tỉ lệ nợ xấu của Agribank 6,67%, Vietcombank 3,92%. của Viettinbank đến
hết 30/6/2011 là 1,71% nhưng con số này đã giảm xuống còn 1.2% tại thời điểm tháng 8/2011
Trong tổng số nợ xấu trên 76 nghìn tỷ đồng tính đến hết tháng 8/2011, nợ nhóm 3 chiếm 30,18%, nhóm 4 chiếm
20,53% và nhóm 5 chiếm trên 49%. Điều đó đồng nghĩa, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất trắng khoảng 37,2
nghìn tỷ đồng.

Ghi chú:
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là khơng có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến
hạn.
Nhóm

4:

Nợ

nghi

ngờ,

bao

gồm nợ


được

đánh

giá





khả

năng

tổn

thất

cao.

10


Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ được đánh giá khơng có khả
năng thu hồi, mất vốn.

b. Ngun nhân gây ra rủi ro tín dụng:
- Nguyên nhân thuộc về khách hàng :

+ Nguyên nhân chủ quan: do trình độ quản lý của khách hàng yếu kém dẫn đến sử

dụng vốn vay kém hiệu quả hoặc thất thoát ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. cũngcó thể do khách
hảng thiếu thiện chí trả nợ trong khi các biện pháp xử lý thu hồi nợ của NH tỏ ra kém hiệu
quả ; Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền
dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồngchéo và mất khả năng thanh tốn dây chuyền.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mơ tài sản, nguồn vốn
nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp
Việt Nam.
Ngồi ra,thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế tốn vẫn chưa được các
doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh
nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tínhchất hình thức hơn là thực chất.
Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số
liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
+Nguyên nhân khách quan: có thể do khách hàng gặp phải những thay đổi
m ô i trường kinh doanh không thể lường trước được như sự thay đổi về giá cả hay nhu cầu thị
trường, do thiên tai, hạn hán, sự thay đổi về mơi trường pháp lý hay chínhsách của Chính phủ
khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính khơng thể khắc phục được.
Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu đầu
vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn
đến khơng có khả năng trả nợ. Từ đó doanh nghiệp dù có thiện chí trả nợ nhưng vẫn không thể
trả được nợ
-Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do ngun nhân chủ quan như q trình phân tích và thẩm định
tín dụng khơng kỹ lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết địnhcho vay. Mặt khác cũng có thể quyết
định cho vay đúng đắn nhưng do thiếu kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử
dụng vốn vay khơng đúng mục đích nhưng ngân hàng vẫn khơng phát hiện để ngăn chặn kịp
thời. Ngân hàng quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm
bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay; chạy theo số lượng (hoặc theo kếhoạch) mà
sao lãng việc coi trọng chất lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởngvào sự thành công
của phương án kinh doanh của khách hàng. Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa


11


nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm
thanh tốn, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh tốn nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn
nhiều; hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy
vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định. Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng
chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong
cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay
b,Tác động của rủi ro tín dụng
-Đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì
vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền ở các ngân
hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho
tồn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình
sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, khơng có tiền trả lương dẫn đến đời sống cơng nhân
gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến tồn bộ nền
kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã
hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày
nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

-Đối với ngân hàng
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng khơng thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng
ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân
hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi khơng thu được nợ thì vịng quay vốn tín dụng giảm
làm ngân hàng kinh doanh khơng có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến
uy tín của ngân hàng. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên khơng có tiền trả
lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thun chuyển cơng tác, gây khó

khăn cho ngân hàng.
Chính vì vậy, địi hỏi các nhà quản trị NH phải hết sức thận trọng và có các biện pháp thích
hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay
=> Để giảm thiểu rủi ro tín dụng thì NHNN cũng ban hành qui định về việc trích lập dự
phịng rủi ro tín dụng đối với các NHTM. (Quỹ dự phịng rủi ro tín dụng được sử dụng để bù
đắp những rủi ro do nguyên nhân khách quan như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, chính
sách Nhà nước thay đổi hoặc biến động giá cả thị trường... phát sinh thuộc diện đơn lẻ cục
bộ sau khi sử dụng bồi thường của cơ quan bảo hiểm (nếu có).)
Cụ thể:

12


Điều 9 của Quyết định 493 (về tỷ lệ dự phịng chung) có quy định:
“1. Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phịng chung bằng 0,75% tổng giá trị
các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này.
2. Trong thời hạn tối đa năm (05) năm kể từ ngày Quy định này có hiệu lực thi hành, tổ chức
tín dụng phải thực hiện trích lập đầy đủ số tiền dự phòng chung theo quy định tại Khoản 1,
Điều này”.
Với những quy định trên, Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, trong điều kiện hoạt động của các
ngân hàng thương mại hiện nay, tỷ lệ trích lập dự phịng chung 0,75% trên là q cao. Vì
hiện nay, chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại rất
thấp, khoảng 2%, thậm chí có ngân hàng thương mại mức chênh lệch này cịn 1,5% - 1,8%.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc, cho phép riêng Ngân hàng Phát triển
Việt Nam sử dụng số tăng thu về lãi tiền gửi của năm 2011 so với số thu lãi tiền gửi của năm
2010 để trích lập bổ sung quỹ dự phịng rủi ro tín dụng

*Rủi ro ngoại hối
Rủi ro về ngoại hối phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của các khoản ngoại
hối nắm giữ, qua đó có thể làm cho ngân hàng phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến

động
Có hai bộ phận cấu thành rủi ro ngoại hối đó là mua bán ngoại hối và hoạt động trên tài sản có và
tài sản nợ bằng ngoại tệ.
Hoạt động mua bán ngoại hối của ngân hàng
Bao gồm:
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán hợp đồng ngoại thương;
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm mục đích thực hiện đầu tư
nước ngồi trực tiếp hay gián tiếp;
- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại
hối của đồng tiền có thể giảm rủi ro ngoại hối;
- Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ trong việc dự tính sự biến động của tỷ giá.

13


Hai hoạt động đầu tiên, ngân hàng thường thực hiện cho khách hàng để thu phí, và do đó, rủi ro
ngoại hối ngân hàng không phải gánh chịu. Hoạt động thứ ba, ngân hàng tiến hành nghiệp vụ
phòng ngừa rủi ro ngoại hối, tức là nhằm giảm rủi ro ngoại hối. Như vậy, rủi ro ngoại hối thực
chất chỉ liên quan đến trạng thái ngoại hối mở (open position) đối với những hoạt động mua bán
mang tính đầu cơ (unhedged position) tức là hoạt động thứ tư.
Trạng thái ngoại hối mở thường được thực hiện trong các giao dịch giữa các ngân hàng với nhau
trên thị trường ngoại hối và đặc biệt là đối với những ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư
lớn là những ngân hàng tạo thị trường bằng cách niêm yết tỷ giá mua bán hai chiều “Bid – Ask”
đối với ngoại tệ giao dịch.
Khía cạnh thứ hai của rủi ro ngoại hối mà các ngân hàng phải chịu là sự không cân xứng giữa tài
sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ. Tài sản có bằng ngoại tệ là các khoản mục trên
bảng tổng kết tài sản, như : các khoản cho vay bằng ngoại tệ; các chứng khoán bằng ngoại tệ;
tiền gửi bằng ngoại tệ ở ngân hàng khác; tiền mặt bằng ngoại tệ,… Tài sản nợ bằng ngoại tệ là
các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản, như: phát hành các chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ;
phát hành trái phiếu; và các hình thức huy động vốn khác bằng ngoại tệ. Do tính chất tồn cầu

hóa, thị trường tài chính đã tạo ra những khả năng to lớn để tăng nguồn vốn của các ngân hàng
bằng các ngoại tệ khác nhau. Đây là lợi thế to lớn khơng những đa dạng hóa nguồn vốn và sử
dụng vốn bằng ngoại tệ, mà còn tạo ra những cơ hội để tăng được lợi túc đầu tư và giảm được
chi phí vốn huy động.
Để hiểu thêm về hoạt động kinh doanh ngoại hối, sau đây là một số thông tin và số liệu chúng tôi
thu thập được của NH Sacombank – chi nhánh Đà Nẵng
Bảng 1: Tình hình mua ngoại tệ theo loại tiền tệ của Chi nhánh Đà Nẵng - NH Sacombank
Đơn vị tính: Triệu đồng
Ngoại tệ

Năm 2010
Số lượng
Tỷ trọng (%)
USD
838.574
81,38
EUR
153.165
14,86
AUD
25.048
2,43
(3 ngoại tệ chiếm tỉ trọng cao nhất)

Số lượng
964.360
486.011
27.052

Q 3 Năm 2011

Tỷ trọng (%)
64,54
32,53
1,81

Bảng 2: Tình hình bán ngoại tệ theo loại tiền tệ của Chi nhánh Đà Nẵng - NH Sacombank
Đơn vị tính: Triệu đồng

Ngoại tệ
USD

Số lượng
838.658

Năm 2010
Tỷ trọng (%)
81,38

Quí 3 Năm 2011
Số lượng
Tỷ trọng (%)
942.885
66,3
14


EUR
AUD

153.499

25.059

14,9
2,43

439.796
23.766

30,92
1,67

Bảng 3: Tình hình bán ngoại tệ theo loại sản phẩm của Chi nhánh Đà Nẵng - NH Sacombank
Đơn vị tính: Triệu đồng
Nghiệp vụ
Spot
Forward
Tổng

Mua
1.030.468
0
1.030.46

Năm 2010
Bán
1.018.322
12.217
1.030.539

Quí 3 Năm 2011

Mua
Bán
1.494.179
1.392.260
0
29.884
1.494.179
1.422.144

Hiện nay, tỉ giá vẫn luôn biến động, rủi ro tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối đối
với các NH là rất lớn, vì vậy, bản thân mỗi NH phải tự mình đưa ra các biện pháp thích hợp để
phịng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động ngoại hối của mình
Ở các nước, vai trị của quản trị nội bộ ngân hàng được đánh giá rất cao vì ngân hàng là một
ngành kinh doanh nhạy cảm và thường xuyên đối mặt nhiều rủi ro, đặc biệt vấn đề đảm bảo khả
năng thanh toán và chất lượng dịch vụ cung cấp. Ở Việt Nam, quản trị nội bộ đã được quan tâm
nhiều hơn trong thời gian gần đây. Song những biến động bất thường thời gian qua đã khiến các
nhà ngân hàng chú trọng hơn đến quản trị nội bộ.
Song cái khó trong quản trị nội bộ ngân hàng khơng chỉ nằm ở nguồn nhân lực mà còn ở yếu tố
cơng nghệ. Bởi nếu khơng có cơng nghệ thơng tin thì hầu như các thơng tin mà DN quản trị là
rời rạc và không kịp thời. Nhờ công nghệ thông tin, ngân hàng quản lí được các thơng tin quan
hệ trong nội bộ và hoạt động tác nghiệp đang xảy ra trong ngân hàng và có được các thơng tin hỗ
trợ cho quản lý và điều hành. Tuy nhiên, để có một hệ thống cơng nghệ thơng tin như vậy khơng
phải NHTM nào cũng có đủ tiềm lực tài chính để đầu tư.

3. Định hướng giải pháp
Thứ nhất, QTNH - cần một bộ luật hoàn chỉnh.
Hội nhập quốc tế đã mở ra cơ hội để ngành ngân hàng trao đổi hợp tác, tiếp cận các luồng vốn và
trợ giúp kỹ thuật quốc tế cho ngân hàng Việt Nam, góp phần làm cho quản trị của hệ thống ngân
hàng Việt Nam phù hợp hơn với trình độ và chuẩn mực quốc tế. Song QTNH cần đứng trên giác
độ tổng thể từ quản trị mục tiêu - chiến lược đến tổ chức - hoạt động và đặc biệt là quản trị rủi ro

mới mang lại sự an toàn cho NHTM. Để tạo một sự thay đổi có tính chiến lược về QTNH, một
bộ Luật rành rẽ thay cho Nghị định là cần thiết.

15


Thứ hai, cơ cấu lại mơ hình tổ chức của ngân hàng
Mơ hình tổ chức của một số NHTM hiện nay thích hợp trong điều kiện hoạt động với qui mô
nhỏ, mức độ tập trung quyền lực cao. Khi một NHTM có qui mơ ngày càng lớn với số lượng chi
nhánh ngày càng nhiều, khối lượng và tính chất cơng việc ngày một phức tạp hơn thì mơ hình tổ
chức như vậy sẽ bộc lộ những hạn chế, nhất là trong việc tổ chức và bố trí các phịng nghiệp vụ
cả ở cấp trung ương và chi nhánh hiện đang phân cấp quản lý theo loại hình nghiệp vụ, chưa chú
trọng quản lý theo thị trường và đối tượng phục vụ. Rõ ràng, với áp lực cạnh tranh, yêu cầu
chuẩn hoá hoạt động tổ chức theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả đang là đòi hỏi đối với cả các ngân
hàng lớn cũng như các ngân hàng quy mô nhỏ.
Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị nội bộ của các NHTM
Năng lực quản trị, đặc biệt là năng lực quản trị nội bộ của ngân hàng là yếu tố quyết định sự
thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, QTNH nói chung và quản trị
rủi ro nói riêng, cần dựa trên một số nguyên tắc sau: nguyên tắc chấp nhận rủi ro; nguyên tắc
điều hành rủi ro cho phép; nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt; nguyên tắc phù hợp
giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính; nguyên tắc hiệu quả kinh tế, nguyên tắc hợp
lý về thời gian và phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng v.v… Để thực hiện tốt những
nguyên tắc này, ngoài việc quản lý tốt tài sản nợ - tài sản có theo nguyên tắc của Uỷ ban Basel,
xây dựng văn hố quản trị lành mạnh, tạo mơi trường thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc
và thông lệ quản trị rủi ro, các NHTM cần chú trọng nâng cao chất lượng cơng tác kiểm sốt nội
bộ trên cơ sở áp dụng hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại, để phát hiện những tiềm ẩn rủi ro,
có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm tra, kiểm soát
nội bộ dễ đánh mất tính sáng tạo trong cơng việc.

Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam vẫn cịn nhiều việc phải làm,

trong đó cần chú trọng áp dụng mô thức quản trị DN hiện đại theo thông lệ quốc tế, hướng tới sự
phát triển bền vững của cả hệ thống./.

16



×