Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Vai trò của c mác và ph ăngghen đối với phong trào công nhân quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.77 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TUYÊN TRUYỀN

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN
CÔNG NHÂN QUỐC TẾ
Đề tài 4:
“Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với phong trào công
nhân quốc tế

GVHD:
SVTH:
MSSV:
LỚP:
HÀ NỘI 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài...............................................................................3
2. Mục đích của đề tài.........................................................................4
3. Nhiệm vụ của đề tài.........................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................4
5. Kết cấu của đề tài.............................................................................4
NỘI DUNG...........................................................................................5
PHẦN 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LENIN VỀ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA HỌ......5
1.1. Khái niệm về giai cấp cơng nhân.............................................5
1.2. Hồn cảnh ra đời giai cấp công nhân......................................6
1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.................................8
PHẦN 2: VAI TRỊ CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỚI


PHONG TRÀO CÔNG NHÂN QUỐC TẾ.....................................10
2.1. Những cuộc đấu tranh ban đầu của giai cấp cơng nhân quốc
tế.......................................................................................................10
2.2. Vai trị của Các Mác và Ph.Ăngghen đối với phong trào
công nhân quốc tế...........................................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................22


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.

Cuộc cách mạng cơng nghiệp Anh bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XVIII đã gây

nên những chuyển biến căn bản trong sự phát riển của sức sản xuất và quan hệ
sản xuất. Những phát minh kỹ thuật đem lại hậu quả kinh tế cơ bản là chuyển
lao động bằng tay sang lao động bằng máy, thay thế sức gió và sức nước bằng
máy hơi nước, đến những năm 30 của thế kỷ XIX, nước Anh trở thành một
trung tâm công nghiệp của thế giới, nước Pháp cũng giành được những thắng
lợi đáng kể trong phát triển công nghiệp nhưng chậm hơn nước Anh, nền công
nghiệp ở Đức cũng đang phát triển rõ rệt đặc biệt là công nghiệp than và luyện
kim, nhiều trung tâm cơng nghiệp ra đời với những xí nghiệp chế tạo lớn.
Những lực lượng sản xuất mới này còn đang bị kìm hãm bởi quan hệ sản xuất
nửa phong kiến.
Từ sau năm 1815, mặc dù thế lực phong kiến được phục hồi ở Pháp, làn
song cách mạng tư sản vẫn không ngừng lan tràn ra các nước Châu Âu. Mâu
thuẫn giữa sức sản xuất tư bản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất phong kiến ngày
càng ngay gắt. Sự phát triển của nền kinh tế công thương nghiệp, những cuộc
đấu tranh của xã hội đã từng bước xác lập nền thống trị của giai cấp tư sản.
Cùng với sự ra đời và lớn mạnh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp công

nhân đã xuất hiện và ngày một phát triển. Bị áp bức bóc lột tàn khốc, cơng nhân
đứng lên đấu tranh vì quyền lợi của mình. Nhưng phong trào đấu tranh trong
những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chưa giành được thắng lợi do
chưa có tổ chức và khơng được trang bị lí luận khoa học. Tuy nhiên tình hình
trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác và dẫn đến cao
trào cách mạng năm 1848.


Để làm sang tỏ và nhận thức đúng đắn hơn về phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân quốc tế trong thời kỳ đầu, bài tiểu luận này em xin chọn đề
tài số 4: “Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với phong trào cơng nhân
quốc tế”.

2. Mục đích của đề tài.

Bài viết này em sẽ làm sáng tỏ một phần vấn đề về giai cấp công nhân

quốc tế và q trình đấu tranh của giai cấp cơng nhân quốc tế. Từ đó phân tích
vai trị, đóng góp của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với phong trào công nhân quốc
tế.

3. Nhiệm vụ của đề tài.

Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài cần làm rõ những

vấn đề:
- Cơ sở lý luận của giai cấp công nhân
- Diễn biến các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.
- Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với phong trào công nhân quốc
tế.


4. Phương pháp nghiên cứu.

Trên cơ sở phương pháp luận sử học, chủ yếu sử dụng phương pháp luận sử

học, phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích tổng hợp…

5. Kết cấu của đề tài.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài được chia thành 2 phần:
Phần 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về giai cấp công nhân và sứ

mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân.
Phần 2: Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với phong trào công nhân
quốc tế.


NỘI DUNG
PHẦN 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LENIN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA HỌ.
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân

Bàn về khái niệm giai cấp công nhân, cho tới nay, tuỳ thuộc vào lập

trường giai cấp, thái độ chính trị, trình độ nhận thức và phương pháp tiếp cận ,
vẫn còn những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai
cấp công nhân như giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân
hiện đại, giai cấp cơng nhân đại cơng nghiệp,… Đó là những cụm từ đồng nghĩa

để chỉ giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa,
giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất
hiện đại. Ngoài ra, các ơng cịn dùng đến những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn
để chỉ các loại công nhân trong các ngành sản xuất khác nhau, trong những giai
đoạn phát triển khác nhau của cơng nghiệp, cơng nhân khống sản, cơng nhân
cơng trường thủ công, công nhân công xưởng, công nhân nông nghiệp…
Dù diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song giai cấp công nhân
được các nhà kinh điển xác định theo hai phương diện cơ bản:
- Phương diện về kinh tế - xã hội:
Là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp
công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các cơng cụ
sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Họ lao
động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại với những đặc điểm
nổi bật: sản xuất bằng máy móc, lao động có tính chất xã hội hố, năng suất lao
động cao và tạo ra những tiền đề của cải vật chất cho xã hội mới.
Khi mô tả quá trình phát triển của giai cấp cơng nhân, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: trong công trường thủ công và trong nghề thủ công,


người cơng nhân sử dụng cơng cụ của mình cịn trong cơng xưởng thì người
cơng nhân phải phục vụ máy móc. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, cơng nhân cơng
nghiệp cơng xưởng là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại.
- Phương diện về chính trị - xã hội:
Từ lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp cơng nhân cịn là sản
phẩm xã hội của q trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có “điều kiện
tồn tại dựa trên cơ sở chế độ làm thuê”. Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất đi
các tư liệu sản xuất của bản thân nên buộc phải bán sức lao động của mình để
kiếm sống.
Từ những phân tích trên, theo chủ nghĩa Mác – Lenin thì: Giai cấp cơng

nhân là một tập đồn xã hội, hình thành và phát triển cùng với q trình phát
triển của nền cơng nghiệp hiện đại. Họ lao động bằng phương thức công nghiệp
ngày càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại
biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hố ngày càng cao. Họ là
người làm th do khơng có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để
sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ
đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ
định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.

1.2. Hoàn cảnh ra đời giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân ra đời từ những tiền đề về kinh tế,chính trị, xã hội,

văn hoá. Sự ra đời của chủ nghĩa thực dân dẫn đến những đi xâm chiếm thuộc
địa, chiếm những vùng đất mới, nhằm tạo ra thị trường để tiêu thụ hàng hố,
chính từ đó dẫn đến tích luỹ tư bản về người, vốn, sức lao động…tư bản ra đời.
Bản chất của tư bản là bóc lột, mỗi lần đi xâm chiếm thuộc địa thì cần nhiều
hàng hố và sức người, dẫn đến những người nông dân bị phá sản phải làm thuê


bán sức lao động của mình cho bọn tư bản, xuất hiện những tiền đề về mặt kinh
tế, chính trị dẫn đến sự ra đời nền đại công nghiệp.
Thế kỷ XV- XVI châu Âu có nền văn hố phát triển bền vững, văn hoá
phục hưng và các phong trào cải cách diễn ra mở đường cho sự phát triển của
cách mạng tư sản và cách mạng chủ nghĩa. Bên cạnh đó nhiều học thuyết về
kinh tế tư sản ra đời: Ađam Xmít đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành
học thuyết chính trị kinh tế cổ điển của chủ nghĩa tư bản; Đavit Ricacđô đã phát
triển quan điểm của Ađam Xmít về học thuyết trên và trình bày một cách đúng
đắn là tiền lương của công nhân càng cao thì lợi nhuận của nhà tư bản càng cao;

các trào lưu về mặt triết học (Triết học cổ điển Đức, CNDV Phơbách)…Như
vậy sự ra đời của học thuyết chính trị kinh tế và triết học gắn liền với sự phát
triển của kinh tế tư bản và thúc đẩy nhanh sự phát triển nền đại công nghiệp.
Cuộc cách mạng công nghiệp Anh bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XVIII đã gây
nên những chuyển biến căn bản trong sự phát triển của sức sản xuất và quan hệ
sản xuất. Những phát minh kỹ thuật đã đem lại hậu quả kinh tế chuyển từ lao
động bằng tay sang lao động máy móc, thay thế các cơng trường thủ cơng bằng
máy móc hiện đại, Nhờ đó nước Anh sau một thời gian ngắn đã đạt được những
thành tựu về kinh tế rất to lớn. Đến những năm 30- 40 của thế kỷ XIX, nước
Anh trở thành một trung tâm công nghiệp của thế giới và đang bước vào giai
đoạn cơng nghiệp hố cao. Nước Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang trên
đà phát triển, tuy nhiên tốc độ chuyển biến chậm hơn nước Anh. Nền công
nghiệp ở Đức cũng phát triển đáng kể đặc biệt là công nghiệp than và luyện
kim. Nước Mỹ cũng bắt tay vào phát triển công nghiệp từ những năm 1837 1842….cùng với sự phát triển đó, nền đại công nghiệp lan dần ra tất cả các
nước châu Âu.
Đến những năm 50- 60 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng cơng nghiệp căn
bản đã hồn thành trên hầu hết các quốc gia phát triển ở châu Âu và Bắc Mĩ,
những xí nghiệp hiện đại trang bị bằng máy móc và tập trung hàng ngàn vạn
công nhân. Những đường giao thông chằng chịt nối liền các trung tâm với nhau,


xoá bỏ sự ngăn cách lâu đời giữa các vùng. Cuộc cách mạng công nghiệp làm
cho số công nhân ngày một đơng đảo và tập trung hình thành đội ngũ giai cấp
công nhân hiện đại mà trong nhiều tài liệu gọi là giai cấp vô sản hiện đại.

1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện qua ba nội dung

chính:

- Nội dung kinh tế:
Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hoá cao, giai cấp công
nhân cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của cải vật chất
ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Bằng
cách đó, giai cấp cơng nhân tạo tiền đề về vật chất – kĩ thuật cho sự ra đời của
xã hội mới. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình về nội dung kinh tế, giai cấp
cơng nhân phải đóng vai trị nịng cốt trong q trình giải phóng lực lượng sản
xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong quá khứ), thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ
nghĩa ra đời.
- Nội dung chính trị - xã hội:
Giai cấp cơng nhân cùng với nhân dân lao động tiến hành các cuộc cách
mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp thống trị, xố bỏ chế độ
bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân, quyền dân chủ
và làm chủ xã hội của đại đa số nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do
mình làm chủ như một cơng cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây
dựng xã hội mới, phát triển kinh tế và văn hố, xây dựng nền chính trị dân chủ pháp quyền, quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền


và lợi ích của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ, cơng bằng, bình đẳng và
tiến bộ xã hội, theo lý tưởng và mục tiêu của xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung văn hoá – tư tưởng:
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân trong tiến trình
cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hoá, tư
tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động, cơng bằng, dân chủ,
bình đẳng và tự do.
Giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hoá, tư tưởng bao

gồm cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý
thức tư tưởng, trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây
dựng và củng cố ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác
– Lenin, đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư cịn sót lại của
các hệ tư tưởng đã cũ. Phát triển văn hoá, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung
căn bản mà cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng đặt ra
đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.


PHẦN 2: VAI TRÒ CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN QUỐC TẾ
2.1. Những cuộc đấu tranh ban đầu của giai cấp
công nhân quốc tế.

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã nâng cao rõ rệt mức sản xuất trên

thế giới, các trung tâm công thương nghiệp mọc lên với những bến cảng tấp
nập, các đường giao thong thuỷ lộ chằng chịt, các thành phố đồ sộ… Nhưng
cùng với sự phát triển đó, cảnh tương phản giữa tư sản và công nhân ngày càng
bộc lộ rõ rệt. Ở hầu hết các nước cơng nhân lâm vào tình trạng vơ cùng cực khổ
(Nước Anh là nơi có nền cơng nghiệp phát triển nhất, ngày lao động kéo dài 1618 giờ, số cơng nhân lớn tuổi chỉ chiếm 30%, cịn lại là công nhân chưa đến tuổi
trưởng thành. Tiền lương của cơng nhân nữ, trẻ em thì rẻ mạt hơn đàn ơng, điều
kiện vệ sinh ăn ở thấp kém.)
Sự bóc lột tàn khốc của chủ nghĩa tư bản làm cho hố ngăn cách giữa giai
cấp tư sản và giai cấp công nhân ngày càng sâu sắc và mâu thuẫn xã hội trở nên
gây gắt. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản là không thể tránh khỏi.
Mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản ngày càng gay gắt thì cơng nhân càng
đứng dậy đấu tranh giành quyền lợi cho mình. Ngay từ những ngày đầu tiên của
cơng trường thủ công nhân đã chống lại bọn chủ một cách lẻ tẻ và tự phát.

Nhưng khi đó mâu thuẫn chủ yếu bao trùm xã hội là mâu thuẫn giữa sức sản
xuất tư bản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất phong kiến, công nhân chưa tấn
công quyết liệt vào giai cấp tư sản mà còn đi theo giai cấp tư sản “chống lại kẻ
thù của kẻ thù mình”. Sự tham gia của công nhân vào các cuộc cách mạng tư
sản ở Châu Âu đã góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc đấu tranh chống
phong kiến xong những thành quả thu lượm được rơi vào tay giai cấp tư sản.
Hình thức phản ánh sơ khai của người cơng nhân là những cuộc bạo động
tự phát chống lại việc áp dụng máy móc. Trong buổi đầu của cuộc cách mạng
công nghiệp họ tưởng rằng nguồn gốc của sự khổ đau chính là máy móc. Vì vậy


phong trào phá máy, đập phá công xưởng lan tràn rất nhanh trong các trung tâm
công nghiệp. Nhưng dần dần, họ thấy rằng máy móc khơng phải là kẻ thù thực
sự và hậu quả của sự phá máy thường là sự trấn áp của chính quyền. Họ tiến lên
một bước cao hơn là đấu tranh bãi công và xây dựng cơng đồn. Đây là một
bước tiến, mục đích của những cơng đồn ấy là địi quy định tiền lương, tập hợp
thành một lực lượng để điều đình tập thể với chủ, điều chỉnh lương theo lợi
nhuận của chủ, tăng lương hoặc giữ vững mức lương khi cần thiết. Nhưng hầu
hết các cuộc bãi công đều thất bại do hạn chế tập trung đấu tranh về kinh tế và
chưa có lí luận dẫn đường.
Qúa trình đấu tranh của giai cấp cơng nhân dần có ý thức và tổ chức hơn,
họ tiến hành những cuộc đấu tranh với quy mô lớn hơn không chỉ chống lại
riêng chủ xưởng mà với cả giai cấp tư sản, khơng chỉ địi lợi ích kinh tế mà cịn
địi u cầu chính trị rõ rệt.
Ở Pháp, cuộc đấu tranh của công nhân dệt thành phố Lyông (1831-1834),
đứng dậy khởi nghĩa nhân việc bọn chủ khước từ yêu sách tăng lương. Họ đưa
ra khẩu hiệu “sống có việc làm hay chết trong chiến đấu”. Sau những trận kịch
chiến trên đường phố, họ làm chủ thành phố trong 3 ngày liền. Nhưng do trình
độ cịn non kém, họ khơng biết phải tiếp tục làm gì nên bị quân đội trở lại đàn
áp nhanh chóng. Cuộc khởi nghĩa lần thứ 2 nổ ra vào 1834 cịn nêu lên khẩu

hiệu chính trị trên lá cờ đỏ “cộng hoà hay là chết” chứng tỏ bước trưởng thành
của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt đẫm máu nhưng
nó đánh dấu sự lớn mạnh của công nhân Pháp, lần đầu tiên bước lên vũ đài
chính trị vơi tư thế một giai cấp độc lập, chống trực tiếp kẻ thù là giai cấp tư sản
bằng biện pháp bạo lực. Nhưng nó cũng để lộ ra nhiều nhược điểm về trình độ
giác ngộ và tổ chức, thiếu vai trị của lí luận tiên phong và đảng tiên phong của
giai cấp. Cuộc khởi nghĩa Lyông được công nhân của các trung tâm công
nghiệp hưởng ứng.
Ở Anh, phong trào Hiến chương từ 1836 đến 1848. Tổ chức lãnh đạo
phong trào Hiến chương là Hội công nhân Luôn Đôn thành lập năm 1836 do


một người thợ thủ công là Lôvét đứng đầu. Hội công bố bản Hiến chương gồm
6 điểm với nội dung cải cách dân chủ, cải thiện kinh tế…nó được đơng đảo
quần chúng công nhân ủng hộ.
Cao trào Hiến chương lần thứ nhất diễn ra vào tháng 5 -1839. Bản kiến
nghị mang 1.125.000 chữ kí được đệ lên nghị viện. Cơng nhân chủ trương đấu
tranh hồ bình nếu có thể được,bằng vũ lực nếu khơng có cách nào khác. Nghị
viện đã bác bỏ ý kiến, công nhân chuyển sang đấu tranh bạo lực nhưng bị đàn
áp, trước tình hình đó Hiệp hội kêu gọi tổng bãi cơng khổng lồ trong tồn quốc
vào ngày 12-8 được gọi là “Tháng thiêng liêng”, tuy nhiên được một thời gian
thì Hiệp hội tuyên bố tự giải tán do sự phân hoá tư tưởng trong giới lãnh đạo.
Cao trào Hiến chương lần 2 diễn ra năm 1842, là năm nền kinh tế nước
Anh bị sa sút, đời sống nhân dân đói khổ. Ngày 2.5, một bản kiến nghị mới đệ
trình lên nghị viện với 3.315.752 chữ ký. Yêu cầu của bản kiến nghị đòi thủ tiêu
ách áp bức của Anh đối với Ailen và công nhân, nhưng không được chấp nhận.
Phong trào bãi công nổ ra địi thực hiện Hiến chương, cuộc bãi cơng thể hiện
tính chất chính trị và nâng phong trào bãi cơng lên mức khởi nghĩa vũ trang.
Chính phủ tiến hành đàn áp, bắt bớ để dập tắt phong trào, nhưng nghị viện đã
phải thong qua đạo luật rút thời gian làm việc của cơng nhân xuống cịn 10 giờ.

Năm 1848, những người thuộc phái Hiến Chương lại tiến hành cuộc đấu
tranh lần ba, cơng nhân biểu tình ngày 10-4 để đưa bản kiến nghị lên Quốc hội gồm
5 triệu chữ ký. Nhưng công nhân bị àn áp.
Ở Đức, cùng với sự phát triển của công nghiệp, giai cấp công nhân Đức ngày
càng lớn mạnh về số lượng và ý thức giác ngộ. Cuộc đấu tranh ở Sơlêdiên năm
1844 đánh dấu thời kỳ đấu tranh có tính chất độc lập của giai cấp cơng nhân. Tuy bị
thất bại nhưng nó có tác dụng góp phần làm thức tỉnh và đồn kết giai cấp công
nhân Đức.
Tuy tất cả các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở giai đoạn này đều thất
bại và bị dìm trong bể máu, nhưng nó đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia, các


cuộc đấu tranh đã vừa máng tính chất kinh tế vừa mang tính chất chính trị và nó
khẳng định những mâu thuẫn cố hữu trong lòng Chủ nghĩa tư bản là khơng thể điều
hồ được.
Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ một số nhược điểm đó là: chưa có đường lối đấu
tranh khoa học và chính xác; chưa có một tổ chức lãnh đạo sang suốt của giai cấp
công nhân; thiếu một lí luận soi đường dẫn các cuộc đấu tranh đó đi đến thắng lợi
(Sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản khoa học mà người sáng lập ra nó là C.Mác và
Ăngghen đã đáp ứng được những nhu cầu của giai cấp công nhân. (ở giai đoạn sau
này) ).

2.2. Vai trò của Các Mác và Ph.Ăngghen đối với
phong trào công nhân quốc tế.
Đằng sau bộ mặt lộng lẫy của chủ nghĩa tư bản, toàn bộ sư thực về đời sống
công nhân đã được Ăngghen vạch ra trong tác phẩm nổi tiếng “Tình cảnh của giai
cấp lao động ở Anh”.
Tình trạng khổ cực của quần chúng được phản ánh phần nào vào ý thức của
một số nhân vật tiến bộ trong giai cấp có của. Họ nhận thức được mặt trái của xã
hội tư bản chủ nghĩa, tìm cách xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp khơng có bóc

lột. Họ nêu lên những luận điểm xã hội chủ nghĩa và kế hoạch xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Song đó mới là xã hội chủ nghĩa không tưởng mà những người đại diện xuất
sắc trong giai đoạn này là Xanh Ximơng và Saclơ Phuariê ở Pháp và Ơoen ở Anh.
H.C. Xanh Ximông (1760-1825) đại biểu của chủ nghĩa không tưởng ở Pháp,
chỉ ra nguyên nhân của mọi sự khổ đau là do bóc lột chủ nghĩa tư bản, cần phải xố
bỏ sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản và Ông chủ trương xây dựng một xã hội mới
dưới quyền thống trị của các “nhà cơng nghiệp”, trong đó mọi người đều phải lao
động trên cơ sở của nền đại sản xuất.


S. Phuariê (1772-1837) nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng của Pháp, ông
vạch trần những gian xảo trục lợi của bọn tư nhân và những mánh khoé xảo quyệt
của giai cấp tư sản. Ông chủ trương xây dựng một xã hội tương lai mà khơng cịn
chế độ người bóc lột người.
Rơbơc Ơoen (1771-1858) sinh ra tại xứ Wales, ơng cho rằng nguồn gốc của
sự nghèo khổ là do chế độ tư hữu và lao động làm thuê gây ra. Ông chủ trương xây
dựng cơng xã, trong đó tài sản là của chung, xoá bỏ nghèo khổ, lao động trở thành
nghĩa vụ và hạnh phúc của mọi người.
Các Ông đã chỉ trích và kết tội xã hội tư bản chủ nghĩa, mơ ước xố bỏ nó và
tưởng tượng ra một xã hội tốt đẹp hơn, tìm cách thuyết phục những người giàu để
hộ thấy rằng sự bóc lột là vơ nhân đạo. Nhưng chủ nghĩa xã hội không tưởng không
thể vạch ra một lối thoát thực sự. Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử lúc đó, chủ
nghĩa xã hội khơng tưởng là một trào lưu tư tưởng tiến bộ và trở thành một trong
những nguồn gốc của học thuyết Mác. Cùng với trào lưu về chủ nghĩa xã hội của
các nhà không tưởng, trào lưu triết học xuất hiện.
Nước Anh là nơi khai sinh của cuộc cách mạng công nghiệp và có nền kinh tế
tư bản phát triển, đó cũng là nơi ra đời nhiều học thuyết tư sản. Trong thế kỷ XVIII,
Ađam Xmit cho ra đời học thuyết kinh tế chính trị cổ điển của chủ nghĩa tư bản. Ơng
là người đầu tiên tuyên bố rằng lao động là nguồn gốc của giá trị. Ông là người đầu
tiên nêu lên kết cấu xã hội gồm ba giai cấp: công nhân, tư bản và chủ đất mà chưa

thấy được quá trình đấu tranh giai cấp trong xã hội đó. Đavit Ricacđơ là người tiếp
tục phát triển học thuyết kinh tế của Ađam Xmit. Tuy quan điểm của hai ơng cịn
hạn chế bởi tính chất tư sản nhưng nó đã đóng góp một phần quan trọng vào sự phát
triển học thuyết chính trị kinh tế
Ở Đức nửa đầu thế kỷ XIX, là nơi sản sinh ra các học thuyết cổ điển, Vinhem
Phriđrich Hêghen (1770-1831), Ông đứng trên lập trường duy tâm chủ nghĩa, giải
thích tồn tại bằng “ý niệm tuyệt đối”. Phần lớn giá trị trong triết học Hêghen là phép


biện chứng, nhận định sự phát triển của xã hội bắt đầu từ cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập. thực chất Ơng nhìn xã hội bằng con mắt siêu hình.
C. Mác và Ănghen là người sáng tạo ra chủ nghĩa cộng sản khoa học. Các
Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818. Ông thường xuyên tiếp xúc với nhà hoạt động
cách mạng của phong trào công nhân, nghiên cứu những cuốn sách của các nhà triết
học duy vật Pháp như Phuariê, Xanh Ximông, đồng thời Mác cũng chú ý nghiên
cứu một cách có hệ thống các vấn đề kinh tế chính trị…Ơng đã dần chuyển từ lập
trường dân chủ cách mạng sang hẳn lập trường cộng snả chủ nghĩa, sự chuyển biến
này gắn liền với sự chuyển biến quan điểm triết học từ duy tâm sang duy vật. Mác
đã phê phán quan điểm của Hêghen và Phơbách để từ đó rút ra hạt nhân tinh tuý
nhất nhằm làm cơ sở cho một phép biện chứng mới- phép biện chứng duy vật.
Cùng thời gian này, giai cấp vơ sản cịn có một nhà hoạt động vĩ đại mà sau
này trở thành bạn chiến đấu của C. Mác đó là Phriđrich Ăngghen (28/11/1820).
Năm 1842 Ăngghen đến Anh và Ông đã trực tiếp chứng kiến tận mắt cảnh cùng cực
của công nhân Anh, từ đó ơng tìm tài liệu, báo cáo thống kê và viết lên tác phẩm
nổi tiếng “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh”.
Năm 1844, Ăngghen đến Paris tìm gặp C.Mác, hai ơng đã thống nhất những
vấn đề về chính trị quan trọng và chuyển từ quan điểm duy tâm sang duy vật, từ chủ
nghĩa cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản khoa học. Sau đó hai ơng cùng nhau viết
và cho xuất bản tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” năm 1844.
Tổng kết nguồn gốc của học thuyết Mác, Lênin đã nhận định rằng: “Nó là

người kế thừa chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà lồi người tạo ra
hồi thế kỷ XIX- đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội
Pháp”.
Hai ông đã chỉ ra được những đặc điểm của giai cấp công nhân hiện đại: đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất của nhân loại; giai cấp có tinh thần
cách mạng triệt để; tổ chức kỷ luật cao; tính chất quốc tế. Từ bốn đặc điểm như vậy,


giai cấp cơng nhân hiện đại có đầy đủ cơ sở khách quan để xoá bỏ xã hội tư bản và
xây dựng thành công xã hội mới. Để thực hiện được xứ mệnh đó tự bản thân giai
cấp cơng nhân khơng thể làm được mà phải có một chính đảng của giai cấp mình và
có lí luận dẫn đường thì mới đưa phong trào công nhân đi đến thắng lợi.
Mác và Ăngghen đã soạn thảo nhiều tác phẩm làm rõ hơn vai trị sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân. Năm 1847, hai ông bắt tay vào thực hiện việc tổ
chức những người cách mạng thế giới thành lập “Đồng minh những người chính
nghĩa” và để tạo điều kiện tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản vào phong trào công
nhân Mác và Ăngghen đã thành lập “Uỷ ban thông tấn cộng sản”. Công tác tuyên
truyền của Mác và Ăngghen chẳng bao lâu có hiệu qủa trong phong trào cơng nhân.
Một số người lãnh đạo trong “Đồng minh những người chính nghĩa” bắt đầu tiếp
thu lí luận của Mác và Ăngghen.
Năm 1847, “Đồng minh những người chính nghĩa” họp ở London và đổi tên
thành “Đồng minh những người cộng sản”, lí do được Đồng minh những người
cộng sản ghi rõ: chúng ta chỉ mong muốn sự chính nghĩa nói chung, điều mà ai
cũng có thế khẳng định được nhưng chúng ta phải chống lại chế độ tư hữu và do đó
chúng ta muốn có cộng đồng tài sản. Nói tóm lại chúng ta là những người cộng sản.
Đại hội lần thứ nhất này đã đánh dấu bước thắng lợi lớn về tư tưởng và tổ chức. Nó
chứng tỏ rằng giai cấp cơng nhân bắt đầu tiếp thu học thuyết Mácxít, xây dựng nên
tổ chức độc lập của mình.
Đại hội lần hai tiến hành từ 29/11 đến 8/12/1847, dưới sự lãnh đạo của
C.Mác và Ăngghen, Đại hội đã thong qua điều lệ của Đồng minh. Đại hội giao cho

Mác và Ăngghen thảo ra cương lĩnh dưới hình thức một bản run ngơn. Chấp hành
nghị quyết đó đến tháng 2 năm 1848, bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” lần đầu
tiên được tuyên bố ở London.
Trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” – Chương 1, nêu lên một cách khái
quát quy luật phát triển cơ bản của xã hội tư sản, vạch rõ lợi ích đối lập giữa giai


cấp tư sản và vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản; Chương 2, Mác và
Ăngghen nêu lên muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử phải chon vùi giai cấp tư sản và
xây dựng xã hội mới, giai cấp vơ sản phải có chính đảng vơ sản, một nền chun
chính vơ sản và phải dung những biện pháp bạo lực; chương 3, Mác và Ăngghen
phê phán quan điểm xã hội chủ nghĩa khơng mang tính chất vơ sản; chương 4, hai
ơng đề ra những ngun lí cơ bản về sách lược của Đảng cộng sản trong cuộc đấu
tranh cho dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” kết thúc. Những người cộng sản “cơng
khai tun bố mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ tất
cả trật tự xã hội hiện có. Mặc cho giai cấp thống trị run sợ khi nghĩ đến một cuộc
cách mạng cộng sản. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vơ sản chẳng mất gì
hết ngồi xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng ấy họ giành được cả thế
giới về mình. “Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại!”
Tun ngơn Đảng cộng sản ra đời nhanh chóng được truyền bá vào phong
trào cơng nhân ở nhiều nước châu Âu. Cùng lúc đó ở Châu Âu đang diễn ra khủng
hoảng kinh tế cuối năm 1847 đầu 1848, hàng chục vạn người bị chết đói, tình trạng
thất nghiệp tràn lan… giai cấp tư sản ( đặc biệt là ở Pháp và Đức) không thể thống
trị được nữa, tầng lớp nhân dân cũng không chịu thống trị như cũ được nữa.
Ở Pháp, tháng 2/1848 đang dưới triều vua Luy Philíp, nhân dân xuống đường
biểu tình địi tuyển cử, bị đàn áp vua LuY thoái vị, cách mạng thắng lợi bước đầu,
một chính phủ lâm thời được thành lập. Các lực lượng của giai cấp tư sản vừa giành
được thắng lợi đã chia nhau quyền lực; công nhân và nông dân giương cao ngọn cờ
địi tự do, bình đẳng, bắc ái thành lập các uỷ ban lao động tấn công vào giai cấp tư

sản; Sau khi giành được chính quyền giai cấp tư sản quay lại đàn áp nhân dân và
mở ra thời kỳ mới của cuộc đấu tranh giữa giai cấp cơng nhân đấu tranh chống
chính phủ mới là giai cấp tư sản đứng đầu. Giữa năm 1848 công nhân và nông dân
đã tổ chức thành những chiến luỹ khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân. Nhưng bị chính phủ tư sản đàn áp và thất bại tháng 6/1848. Tuy thất bại


nhưng nó xác định được bản chất của giai cấp công nhân và tỏ rõ bọ mặt phản cách
mạng của giai cấp tư sản sẵn sang lợi dụng giai cấp công nhân để chống phong kiến
và cũng sẵn sang quay lại phản bội và đàn áp giai cấp công nhân.
Ở Đức, tình trạng khủng hoảng kinh tế cũng diến ra. Cuối tháng 2 đầu tháng
3 nhiều vùng ở Đức cũng nổ ra cuộc cách mạng chống nhà nước phong kiến, hưởng
ứng khẩu hiệu của Đồng minh những người cộng sản. Cuộc đấu tranh diễn ra hết
sức quyết liệt, trước áp lực của cơng nhân thì nhà vua phải ra lệnh bãi miễn chính
phủ và một chính phủ mới do giai cấp tư sản đã chấp nhận mở rộng dân chủ và đáp
ứng quyền lợi của giai cấp công nhân, điều đó chứng đó giai cấp cơng nhân Đức đã
đi đầu trong cuộc đấu tranh và giành được thắng lợi. Nhưng sau khi thắng lợi giai
cấp tư sản Đức lại phản bội giai cấp cơng nhân.
Tóm lại, cuộc cách mạng năm 1848 ở Đức và Pháp, châu Âu đều thất bại, nó
chưa phải là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng nó đã chứng tỏ những tư
tưởng của “Tun ngơn đảng cộng sản” trở thành sức mạnh vật chất. Cuộc cách
mạng này là một bước tiến của phong trào công nhân quốc tế trong việc mở rộng
lực lượng của mình. Bên cạnh đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đóng vai trị quan
trọng đối với việc định hướng, dẫn dắt đường lối trong phong trào công nhân quốc
tế, khiến cho giai cấp cơng nhân nhận thức được sứ mệnh của mình, đứng lên đấu
tranh.
Trước C.Mác, nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến giai cấp vô sản, song, do
điều kiện về lịch sử những người đó lại khơng nhận thấy, ở phía giai cấp vơ sản,
một tính chủ động lịch sử nào, một cuộc vận động chính trị nào của bản thân giai
cấp vô sản cả, họ càng không thấy những điều kiện vật chất cần cho sự giải phóng

của giai cấp vô sản. Ðối với họ, giai cấp vô sản chỉ tồn tại với tư cách là giai cấp
đau khổ nhất.
Trên cơ sở phân tích khách quan, khoa học những điều kiện kinh tế của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như những điều kiện chính trị, xã hội đã tạo nên các


quan hệ giai cấp trong xã hội tư bản, C.Mác đã làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản - giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến; giai cấp có đủ điều
kiện khách quan quy định sứ mệnh của mình, có đủ năng lực, phẩm chất để thực
hiện sứ mệnh giải phóng chính bản thân mình tiến tới giải phóng tồn thể nhân loại.
Khẩu hiệu "Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại!" là kết quả của cả một quá trình
nghiên cứu và hình thành luận thuyết của C.Mác, nó phản ánh một cách đầy đủ nhất
nguyên lý về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản mà Ơng phát hiện ra.
V.I.Lê-nin đánh giá: "Ðiểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó
làm sáng rõ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản là người xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa". Trải qua thử thách của thời gian và kiểm nghiệm của thực tiễn, cho
đến nay, phát minh vĩ đại của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản gắn
liền với vai trò của Ðảng Cộng sản còn nguyên giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc, là vũ khí tinh thần của giai cấp cơng nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng
với chủ nghĩa tư bản, với những điều kiện xã hội hạ thấp, làm hư hỏng con người, là
phương tiện mạnh mẽ để con người cải biến hiện thực vì lợi ích của con người.
Cùng với những thành tựu, phát minh vĩ đại, suốt cuộc đời nghiên cứu khoa
học và hoạt động cách mạng, C.Mác cùng Ph.Ăng-ghen xây dựng nên chủ nghĩa
Mác, một học thuyết, một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, bao gồm triết
học Mác-xít, kinh tế chính trị học Mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học. Ðây là
những cơ sở lý luận khoa học, vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng và giải phóng nhân loại của giai cấp vơ sản trên tồn thế giới. Cho đến nay
chưa có học thuyết nào thể hiện một cách khoa học, chặt chẽ, rõ ràng về con đường
giải phóng giai cấp, giải phóng con người như học thuyết Mác.



KẾT LUẬN
Giai cấp vô sản ra đời cùng với giai cấp tư sản, hình thành xã hội tư bản
chủ nghĩa. Ngay từ đầu hai giai cấp này đã mâu thuẫn gay gắt với nhau, dẫn đến
cuộc đấu tranh của vô sản chống tư sản. Ở giai đoạn đầu họ đấu tranh với hình
thức sơ khai, đập phá máy móc vì học cho rằng nguyên nhân làm khổ hộ chính
là máy móc. Giai cấp cơng nhân lúc này chưa ý thức được sứ mệnh lịch sử của
mình.
Trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, chủ nghĩa xã hội
khoa học hình thành và đánh dấu bằng sự ra đời của “Tuyên ngôn đảng cộng
sản”, bản Tuyên ngôn nêu lên sứ mệnh lịch sử và đoàn kết quốc tế của giai cấp
vô sản để đánh đổ chế độ tư bản, xác lập chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội
khoa học ra đời đã đưa phong trào công nhân lên một bước mới, công nhân ý
thức về sứ mệnh lịch sử của mình và việc đấu tranh có tổ chức. Mặc dù chưa có
một Đảng cộng sản gắn chặt với phong trào công nhân nhưng “Đồng Minh
những người cộng sản” đã có một vai trị to lớn đối với phong trào cơng nhân
quốc tế. Nó thực sự là một kiểu mẫu đầu tiên của giai cấp vô sản, là một tổ chức
cách mạng đầu tiên của giai cấp công nhân quốc tế. Với tinh thần đó, nó thực sự
trở thành một tổ chức tiền bối cho sự ra đời của Hiệp hội công nhân quốc tế
(Quốc tế I).
Do hạn chế về kiến thức và tài liệu, nên trong quá trình nghiên cứu bài
tiểu luận của em cịn nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự giúp đỡ bổ sung
của quí thầy (cô)!



×