CHƯƠNG 3: TÌNH HÌNH KINH TẾ- THƯƠNG MẠI GIỮA ẤN ĐỘ VÀ
PAKISTAN NHỮNG NĂM 2000-2021
3.1. Chính sách kinh tế của hai nước
3.1.2 Chính sách kinh tế của Ấn Độ
Ấn Độ được biết đến là cái nôi của nền văn minh nhân loại, từ một nước thuộc
địa đã kiên trì đấu tranh và giành được độc lập năm 1947. Sau Chiến tranh lạnh,
Ấn Độ chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi sự đối đầu Đông - Tây; đồng thời, những
hạn chế trong chính sách đối nội, đối ngoại ngày càng bộc lộ khiến nền kinh tế
khủng hoảng và tụt hậu nghiêm trọng, nền kinh tế Ấn Độ đã có những bước tiến
dài với tốc việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế từ năm 1991 khi Chính phủ Ấn
Độ đã tiếp thu đồng thời các mơ hình tự do hóa, tư hữu hóa và tồn cầu hóa
nhằm ứng phó với khủng hoảng kinh tế đầu những năm 90 của thế kỷ 20. Với
hướng chủ đạo là lựa chọn xuất khẩu thay cho chính sách nhập khẩu, Ấn Độ đã
tích cực đẩy nhanh tiến trình cơng nghiệp hóa, đồng thời, thực hiện các biện
pháp cải cách tài chính: cho phép người kinh doanh tư nhân đầu tư vào hệ thống
ngân hàng, nới lỏng chế độ quản lý lãi suất, tự do lưu động vốn giữa các khu vự
Từ năm 2000 đến năm 2010, sau năm 2000 Ấn Độ tiếp tục công cuộc cải cách
kinh tế theo hướng tự do hóa với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế nói chung và các cơng ty, sản phẩn hàng hóa, dịch vụ nói riêng. Để đạt
được mục tiêu đó, Chính phủ Ấn Độ đã quyết định thực hiện những chuyển đổi
cơ bản về cơ cấu kinh tế. Tự do hóa nền kinh tế đã mở ra cho khu vực tư nhân
những lĩnh vực mà trước đây khu vực công nắm giữ như: ngành công nghiệp
nặng, ngân hàng, hàng không dân dụng, viễn thông, năng lượng, cầu cảng và hạ
tầng giao thơng. Quan trọng hơn là sự tự do hố nền kinh tế đã giảm bớt những
méo mó lệch lạch và tăng tính cạnh tranh trong và ngồi nước. Mục tiêu này là
động lực chính mà Ấn Độ theo đuổi và cũng là chất xúc tác để Ấn Độ thúc đẩy
tiến trình hội nhập vào trật tự thế giới. Xu hướng chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy ở
Ấn Độ sau khi đất nước dần mở cửa nền kinh tế bởi người dân lo sợ các công ty
của Ấn Độ lúc ấy không thể tồn tại trong cuộc cạnh tranh với bên ngoài sau
hàng thập niên được nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các công ty
Ấn Độ không chỉ vượt qua sự cạnh tranh mà còn tạo ra ảnh hưởng lớn hơn trên
toàn cầu, khiến Ấn Độ cảm thấy tự tin hơn trong quá trình hội nhập.
Nhờ cải cách, tự do hóa một cách cơ bản và tồn diện, Ấn Độ đã thốt khỏi tình
trạng khủng hoảng, trì trệ; tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh và liên tục, GDP
từ 1,1% (1991) tăng lên bình quân 5,5% trong giai đoạn 1991 - 2001, đạt bình
quân 7,5% trong giai đoạn 2002 - 2012; lạm phát từ hai con số đã xuống dưới
5%; quy mô của nền kinh tế tăng từ 274 tỷ USD (1991) lên 2,3 nghìn tỷ USD
(2016)(1). Ngay sau khi lên nhậm chức (26-5-2014), Thủ tướng Narendra Modi
đã thực hiện chính sách kinh tế Modinomics với nhiều sáng kiến mới trải rộng
trên nhiều ngành, lĩnh vực nhằm thúc đẩy sự phát triển tồn diện.
Nhờ đó, nền kinh tế của Ấn Độ đã có bước phát triển vượt bậc, GDP luôn đạt ở
mức tăng trưởng khá cao; năm 2015: 7,9%; năm 2016: 8,26%; năm 2017: 6,85;
năm 2018: 6,53%; GDP danh nghĩa, từ vị trí thứ mười năm 2010 đã vươn lên vị
trí thứ năm nền kinh tế lớn nhất toàn cầu (đạt 2.940 tỷ USD) vào năm 2019(2).
Do ảnh hưởng chung từ sự giảm tốc của nền kinh tế tồn cầu, cũng như những
khó khăn trong lĩnh vực tài chính nội tại của Ấn Độ, tăng trưởng GDP chỉ đạt
được 4,04% năm 2019.
Nhưng trong giai đoạn hội nhập quốc tế, khi lợi ích kinh tế của Ấn Độ ngày
càng gắn chặt hơn với hệ thống tồn cầu, chính sách đối ngoại của Ấn Độ cũng
trở nên thực dụng hơn. Ấn Độ tỏ ra sẵn sàng chấp nhận những lợi ích tuyệt đối
từ lý thuyết kinh tế tự do. Từ đầu những năm 2000, Ấn Độ bắt đầu đạt tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao (năm 2015 đạt 7,6%), đưa nước này trở thành nền kinh tế lớn
phát triển nhanh nhất, trái ngược hoàn toàn với bức tranh trước giai đoạn tự do
hóa vào những năm 90 của thế kỷ XX, khi Ấn Độ chỉ đạt tốc độc tăng trưởng
3% - 4%/năm.
Trong q trình khơi phục kinh tế, sự thay đổi về quan niệm lợi ích đã thúc đẩy
Ấn Độ tham gia sâu hơn vào quản trị kinh tế toàn cầu. Sự sụp đổ của vòng đàm
phán Doha và cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008 khơng chỉ làm
suy giảm vai trò và ảnh hưởng của phương Tây mà còn mở ra cơ hội cho các
quốc gia mới nổi. Cựu Cố vấn An ninh quốc gia Ấn Độ Shivshankar Menon gọi
năm 2008 là “năm kết thúc khoảnh khắc siêu cường số một của Mỹ”. Bên cạnh
cuộc khủng hoảng về vai trò lãnh đạo, Ấn Độ còn nhận thấy quá trình tự do hóa
của nền kinh tế trong nước cịn chậm và chưa toàn diện. Dù vậy, cuộc khủng
hoảng tài chính tồn cầu cũng đã cho thấy mơ hình “chủ nghĩa tư bản tự do kiểu
Mỹ” đã bộc lộ những điểm yếu. Đặc biệt, kể từ sau cuộc khủng hoảng này,
Nhóm các nền kinh tế lớn (G-20) đã tỏ ra nổi trội hơn Nhóm 7 nước cơng
nghiệp phát triển với kỹ thuật cơng nghệ cao (G-7) trong vai trị lãnh đạo kinh tế
thế giới. Vai trò lãnh đạo luân phiên của nhóm G-20 cịn mang lại cơ hội cho
những quốc gia mới tham gia có thể xây dựng chương trình nghị sự của diễn
đàn này. Chẳng hạn như, tại Hội nghị thượng đỉnh G-20 (năm 2016), Trung
Quốc đã thúc đẩy các ưu tiên chính của mình như cung cấp tài chính hỗ trợ giải
quyết các vấn đề biến đổi khí hậu, phát triển, đầu tư vào kết cấu hạ tầng, tạo
việc làm và thúc đẩy thương mại. Đây cũng là những ưu tiên của Ấn Độ hiện
nay.
Ấn Độ cũng tranh thủ vị thế là nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh trên thế giới
để không chỉ thúc đẩy các vấn đề kinh tế mà cịn cả các vấn đề chính trị tại các
diễn đàn G-20. Tại Hội nghị thượng đỉnh G-20 năm 2017, Thủ tướng Ấn Độ N.
Modi đã thúc đẩy thành công các biện pháp chống khủng bố, vấn đề khơng chỉ
được trong nước rất quan tâm mà cịn được quốc tế hưởng ứng mạnh mẽ.
Những nỗ lực của ông đã góp phần thúc đẩy G-20 đưa ra tuyên bố chống khủng
bố mạnh mẽ nhất từ trước đến nay.
Với chính sách mở cửa thơng thống, Ấn Độ được coi là điểm đến hấp dẫn của
các nhà đầu tư quốc tế. FDI đã trở thành nhân tố quan trọng của nền kinh tế Ấn
Độ và tăng trưởng mạnh trong suốt những năm qua. Đến nay, hơn 800 cơng ty
nước ngồi đã đặt cơ sở ở Ấn Độ với khoảng 1 nghìn dự án, trong đó các tập
đồn lớn như Samsung, Foxconn, Airbus, Nissan, IBM...
Năm 2010 đến từ 2021 Chiến dịch “Make in India” đã mang lại hiệu quả tích
cực, Tập đồn Airbus của Mỹ đã đầu tư 500 triệu USD hợp tác với các doanh
nghiệp Ấn Độ từ năm 2015 trong sản xuất máy bay Airbus và tạo việc làm cho
6 nghìn lao động.
Khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đóng góp 50% GDP và 60% sức tăng
trưởng của Ấn Độ. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Ấn Độ cũng dần
được cải thiện, nhiều hãng sản xuất ô tô, máy bay của Mỹ và Nhật Bản đã hợp
tác sản xuất với các hợp đồng giá trị lớn, các doanh nghiệp có đủ khả năng tham
gia sản xuất các chuỗi giá trị toàn cầu mang lại lợi nhuận lớn cho nền kinh tế đất
nước. Ấn Độ trở thành một trong số các nền kinh tế có mức tăng trưởng nhanh
nhất thế giới, tạo tiềm lực, cơ sở vững chắc cho củng cố sức mạnh tổng hợp
quốc gia.
Tóm lại, q trình tái cấu trúc kinh tế Ấn Độ sau năm 2000 đến nay là giai đoạn
tiếp theo của quá trình cải cách kinh tế theo hướng tự do hóa được khởi xưởng
từ năm 1991. Ấn Độ tiếp tục mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư đầu tư trực tiếp
nước ngoài qua việc cải cách thể chế và nới lỏng quy định đầu tư cho tư nhân.
Các ngành kinh tế phát triển chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch
vụ trong GDP. Nhờ đó, nền kinh tế Ấn Độ đã có những bước phát triển vượt
bậc trong thời gian qua. Mặc dù cịn nhiều khó khăn và thử thách nhưng với
những cải cách kinh tế gần đây của Thủ tướng Modi, nền kinh tế Ấn Độ được
kỳ vọng sẽ phát triển lên một tầm cao mới trong tương lai.
3.1.2 Chính sách kinh tế của Pakistan
Trong những thập kỷ trước, nền kinh tế đã chịu ảnh hưởng của những cuộc biến
động, thay đổi về chính trị, dân số tăng nhanh, do sự đối đầu với Ấn Độ. Tuy
nhiên, IMF- đã đồng ý với các chính sách của chính phủ, hỗ trợ bởi đầu tư nước
ngồi, cho phép nền kinh tế gia nhập với thị trường thế giới, tạo động lực phục
hồi kinh tế vĩ mô trong cuối thập kỷ. Nền kinh tế vĩ mô được sắp xếp lại từ năm
2000, nổi bật nhất là việc tư nhân hoá ngành ngân hàng đã giúp đỡ cho nền kinh
tế. Tỉ lệ nghèo của Pakistan đã giảm được 10% kể từ năm 2001. GDP tăng
trưởng 6-8% từ năm 2004. Trong năm 2005, Ngân hàng thế giới xếp Pakistan là
nước đứng đầu trong số các nền kinh tế cải cách ở khu vực và đứng trong top 10
các nền kinh tế cải cách của toàn cầu.
Lạm phát vẫn là mỗi đe doạ lớn nhất đối với nền kinh tế, lạm phát của Pakistan
lên đến trên 9% trong năm 2005 và giảm xuống còn 7.9% trong năm 2006.
Ngân hàng quốc gia đang theo đuổi chính sách thắt chặt tiền tệ trong khi vẫn cố
gắng duy trì sự tăng trưởng kinh tế.
Năm 2000, Pakistan đã triển khai một chương trình cải cách kinh tế được gọi là
"Chương trình Điều chỉnh Kinh tế" (ERP) nhằm giảm thiểu các rào cản thương
mại, cải thiện quản lý tài chính và tăng cường đầu tư trong các ngành công
nghiệp. Năm 2001, Pakistan đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Trong suốt những năm 2000 đầu tiên, Pakistan tập trung vào tăng cường năng
lực sản xuất và tăng cường xuất khẩu. Đặc biệt, nước này đã tập trung vào các
lĩnh vực sản xuất dệt may, da giày, sản xuất thuốc lá và vật liệu xây dựng.
Từ năm 2008, chính phủ Pakistan đã đưa ra một số biện pháp kích thích tăng
trưởng kinh tế bao gồm giảm lãi suất, tăng chi tiêu công và cải cách thuế.
Những biện pháp này đã giúp tăng trưởng kinh tế của Pakistan đạt mức cao nhất
trong 10 năm.
Giảm lãi suất chính phủ Pakistan đã giảm lãi suất để kích thích chi tiêu và đầu
tư trong nền kinh tế. Điều này đã giúp tạo ra điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp vay vốn để mở rộng sản xuất và tạo việc làm.
Tăng chi tiêu cơng chính phủ Pakistan đã tăng chi tiêu công để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Chi tiêu công bao gồm các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng, giáo
dục, y tế và an ninh quốc phòng.
Cải cách thuế chính phủ Pakistan đã áp dụng các biện pháp cải cách thuế như
tăng thu nhập chịu thuế và giảm thuế nhập khẩu để thúc đẩy sản xuất trong
nước.
Những biện pháp này đã giúp tăng trưởng kinh tế của Pakistan đạt mức cao nhất
trong 10 năm. Theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng GDP của
Pakistan đã tăng từ 4,7% vào năm 2010 lên đến 5,8% vào năm 2018. Tuy nhiên,
vẫn còn nhiều thách thức đang đối diện với nền kinh tế của Pakistan như bất ổn
chính trị, nạn bn lậu và nạn khủng bố.
Năm 2013, chính phủ Pakistan đã bắt đầu thực hiện một chương trình cải cách
kinh tế dài hạn được gọi là "Chương trình Hành động Kinh tế Quốc gia"
(NEAP) nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế và giảm thiểu
các rủi ro kinh tế.
Chương trình Hành động Kinh tế Quốc gia (NEAP) là một chương trình cải
cách kinh tế dài hạn được chính phủ Pakistan bắt đầu triển khai từ năm 2013.
Mục tiêu chính của NEAP là tăng cường sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế
Pakistan thông qua việc tăng cường quản lý tài chính, cải thiện quy trình kinh
doanh, và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế chủ chốt.
Cải cách thuế và quản lý tài chính NEAP tập trung vào cải cách thuế và quản lý
tài chính để tăng thu nhập cho chính phủ và giảm các khoản nợ cơng. Chương
trình này bao gồm các biện pháp như tăng thu nhập chịu thuế, tăng hiệu quả
thuế, giảm chi phí quản lý tài chính và cải thiện quản lý nợ công.
Cải cách hệ thống tài chính NEAP tập trung vào cải cách hệ thống tài chính để
nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn và tăng cường hoạt động của các thị
trường tài chính. Các biện pháp như tăng cường giám sát và quản lý rủi ro tài
chính, nâng cao khả năng tiếp cận vốn và cải thiện hệ thống thanh toán được
triển khai.
Tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng tập trung vào tăng cường đầu tư vào cơ sở
hạ tầng, bao gồm đường sắt, đường bộ, điện và nước. Điều này nhằm tăng
cường năng lực sản xuất, giảm chi phí vận chuyển và cải thiện môi trường kinh
doanh.
Tăng cường quản lý và đổi mới trong các ngành kinh tế chủ chốt NEAP tập
trung vào tăng cường quản lý và đổi mới trong các ngành kinh tế chủ chốt, bao
gồm nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Các biện pháp như đầu tư vào
nghiên cứu và phát triển, cải cách quy trình sản xuất và tăng cường năng lực
cạnh tranh được triển khai.
Năm 2016, chính phủ Pakistan đã đưa ra một chương trình cải cách thuế và tài
chính, trong đó bao gồm giảm thuế nhập khẩu, giảm thuế giá trị gia tăng và tăng
cường thu thuế tài sản.
Năm 2016, chính phủ Pakistan đã bắt đầu thực hiện một chương trình cải cách
thuế và tài chính nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế và tăng
thu ngân sách.
Giảm thuế nhập khẩu chính phủ đã giảm thuế nhập khẩu cho nhiều sản phẩm,
bao gồm các sản phẩm điện tử và ô tô nhập khẩu. Điều này giúp giảm giá thành
cho các sản phẩm này và thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng.
Giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) Chính phủ đã giảm thuế VAT từ 17% xuống
còn 16% trong năm 2016. Điều này giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp và
tăng sức mua của người tiêu dùng.
Tăng cường thu thuế tài sản. Chính phủ đã tăng cường thu thuế tài sản bằng
cách giảm các rào cản pháp lý và tăng cường thực thi pháp luật để thu hồi các
khoản thuế không đủ.
Những biện pháp này nhằm giúp tăng thu ngân sách của chính phủ và giảm chi
phí cho doanh nghiệp, giúp tăng cường sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế
Pakistan. Tuy nhiên, cũng có những lo ngại rằng giảm thuế quá nhiều có thể gây
ra thiếu hụt thu ngân sách và gây ra các vấn đề tài chính khác.
Trong những năm gần đây, Pakistan đã tập trung vào cải cách các ngành công
nghiệp như năng lượng, công nghệ thông tin và truyền thông, và cải cách hệ
thống giáo dục và đào tạo.
Năng lượng trong những năm gần đây, Pakistan đã chuyển đổi từ sử dụng nhiên
liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng sạch hơn như điện mặt trời và gió.
Chính phủ đã đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư vào các dự án năng
lượng sạch, bao gồm các khoản tín dụng và khuyến khích thuế. Năm 2015,
chính phủ đã đặt mục tiêu phát triển 5.000MW điện mặt trời và gió vào năm
2030.
Cơng nghệ thơng tin và truyền thông các ngành công nghiệp công nghệ thông
tin và truyền thông của Pakistan đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần
đây. Chính phủ đã đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư vào các cơng ty
cơng nghệ, tăng cường các hoạt động nghiên cứu và phát triển và cải thiện hạ
tầng mạng.
Giáo dục và đào tạo. Chính phủ Pakistan đã tập trung vào cải cách hệ thống
giáo dục và đào tạo nhằm cải thiện chất lượng và đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động. Các biện pháp cụ thể bao gồm đầu tư vào các trường đại học
và trung tâm đào tạo chuyên nghiệp, tăng cường đào tạo nghề và khuyến khích
đầu tư vào các ngành nghề.
Những nỗ lực này nhằm giúp tăng cường sức mạnh cạnh tranh của các ngành
công nghiệp quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế của
Pakistan. Tuy nhiên, cũng cần phải đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm vấn
đề an ninh, thất nghiệp và bất ổn chính trị.
3.2 Các thỏa thuận thương mại
Thỏa thuận Thương mại Tự do Ấn Độ-Pakistan (PIFTA 2012) thỏa thuận này
nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước bằng cách giảm các rào cản
thương mại và tăng cường quan hệ kinh tế giữa hai bên.
Thỏa thuận được ký kết vào ngày 8 tháng 4 năm 2012 tại Islamabad, Pakistan.
Thỏa thuận này là một thỏa thuận tự do thương mại toàn diện giữa Ấn Độ và
Pakistan, với mục đích giảm thiểu các rào cản thương mại giữa hai nước, tăng
cường hoạt động thương mại và đầu tư, và nâng cao cơ hội kinh doanh cho các
doanh nghiệp của hai nước.
PIFTA bao gồm hơn 7.000 mặt hàng, bao gồm hàng hóa và dịch vụ, với cam kết
giảm giá hoặc loại bỏ thuế quan trên hầu hết các mặt hàng trong vòng 15 năm.
Các mặt hàng bị loại trừ bao gồm một số sản phẩm nhạy cảm, chẳng hạn như
hàng quân sự, hàng hóa có nguồn gốc từ Israel và các sản phẩm thuộc lĩnh vực
bảo vệ sức khỏe và mơi trường.
Tuy nhiên thỏa thuận này cịn gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai do căng
thẳng trong quan hệ hai nước và vấn đề liên quan đến an ninh nên kết quả chưa
đạt như mong đợi
Hiệp định vận tải đường bộ: Được ký kết vào năm 2006, thỏa thuận này nhằm
cải thiện việc vận chuyển hàng hóa và tăng cường quan hệ thương mại giữa hai
nước bằng cách đưa ra các quy định và tiêu chuẩn chung cho vận tải đường bộ.
Theo thoả thuận này, các phương tiện vận tải đường bộ được cấp giấy phép đi
qua biên giới tại các cửa khẩu đã được chỉ định. Các xe buýt và xe khách cũng
có thể được cấp giấy phép để chạy qua biên giới.
Để thực hiện thoả thuận này, hai nước đã thiết lập một số trạm kiểm sốt và đưa
ra các quy định về an tồn và an ninh giao thông. Các phương tiện vận tải
đường bộ phải tuân thủ các quy định về quy trình và các tiêu chuẩn kỹ thuật khi
qua biên giới.
Nhưng việc thực thi thoả thuận này vẫn gặp một số khó khăn, đặc biệt là do
căng thẳng chính trị giữa hai quốc gia, và hiện vẫn còn tồn tại một số rào cản
thương mại giữa Ấn Độ và Pakistan.
Thỏa thuận về Nông nghiệp và Thủy sản: Được ký kết vào năm 2006, thỏa
thuận này nhằm tăng cường quan hệ thương mại giữa hai nước trong lĩnh vực
nông nghiệp và thủy sản bằng cách đưa ra các chính sách hỗ trợ và giảm các rào
cản thương mại.
Hợp tác trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản. Các đối tác từ hai nước có thể
hợp tác để tăng sản xuất nơng nghiệp và thủy sản bằng cách chia sẻ kinh
nghiệm và công nghệ. Giảm các rào cản thương mại, thỏa thuận nhằm giảm các
rào cản thương mại, bao gồm các thuế và hạn chế nhập khẩu giữa hai nước.
Điều này nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và tăng cường quan hệ thương mại giữa hai
nước. Điều chỉnh các chính sách hỗ trợ nơng nghiệp và thủy sản. Thỏa thuận
đưa ra các chính sách hỗ trợ và quy định cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và
thủy sản để đảm bảo rằng các sản phẩm này được sản xuất và kinh doanh một
cách bền vững và hợp lý. Hợp tác trong phát triển công nghệp, thỏa thuận cũng
đề xuất hợp tác giữa Ấn Độ và Pakistan trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển
công nghệ nông nghiệp và thủy sản để tăng cường năng lực sản xuất và cải thiện
chất lượng sản phẩm. Tổng quan, thỏa thuận này nhằm tăng cường quan hệ
thương mại giữa hai quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản bằng cách
giảm các rào cản thương mại, đưa ra các chính sách hỗ trợ, tăng cường hợp tác
về sản xuất và phát triển công nghệ.
Thỏa thuận về Đầu tư. Được ký kết vào năm 2012, thỏa thuận này nhằm tăng
cường quan hệ đầu tư giữa hai nước bằng cách giảm các rào cản đầu tư và cung
cấp bảo vệ pháp lý cho các nhà đầu tư.
Giảm các rào cản đầu tư cam kết giảm các rào cản đối với đầu tư và bảo vệ các
nhà đầu tư của hai nước, bao gồm cả việc giảm thuế và giới hạn quy định đối
với các nhà đầu tư nước ngoài.
Cung cấp bảo vệ pháp lý cho các nhà đầu tư cung cấp bảo vệ pháp lý cho các
nhà đầu tư của hai nước, bao gồm cả việc xác định các quy định về bảo vệ nhà
đầu tư và giải quyết các tranh chấp đầu tư.
Khuyến khích đầu tư. Thỏa thuận này khuyến khích đầu tư giữa hai nước bằng
cách tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và cung cấp thông tin về các cơ
hội đầu tư trong hai nước. Tuy nhiên việc thực hiện thuận này vẫn còn nhiều thử
thách do sự cẳng thẳng của hai nước.
3.3 Đầu tư giữa các nước
Trong những năm gần đây, Ấn Độ và Pakistan đã tập trung vào việc tăng cường
quan hệ đầu tư giữa hai nước thông qua việc ký kết các thỏa thuận và các diễn
đàn thương mại. Tuy nhiên, sự phát triển của quan hệ đầu tư này cịn nhiều
thách thức do tình trạng căng thẳng chính trị và an ninh giữa hai nước.
Các con số cho thấy rằng quan hệ đầu tư giữa hai nước vẫn còn khá thấp. Theo
số liệu của Ủy ban Đầu tư Ấn Độ (Invest India), tổng vốn đầu tư của Ấn Độ vào
Pakistan tính đến tháng 10 năm 2021 chỉ đạt khoảng 60 triệu đô la Mỹ, trong
khi vốn đầu tư của Pakistan vào Ấn Độ là khoảng 90 triệu đơ la Mỹ. Số liệu này
cho thấy cịn rất nhiều tiềm năng để tăng cường quan hệ đầu tư giữa hai nước.
Để thúc đẩy quan hệ đầu tư giữa hai nước, các cơ quan chính phủ và doanh
nghiệp của Ấn Độ và Pakistan đã thực hiện nhiều hoạt động, bao gồm tổ chức
các hội chợ thương mại chung và diễn đàn đầu tư, thúc đẩy các liên kết giữa các
doanh nghiệp, đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và truyền
thông, tăng cường quan hệ giữa các khu công nghiệp và các khu kinh tế đặc
biệt, và đẩy mạnh hơn nữa quan hệ đối tác trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ.
Các doanh nghiệp Ấn Độ đã đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau ở Pakistan,
bao gồm sản xuất thép, xử lý chất thải, dệt may và năng lượng. Các doanh
nghiệp Ấn Độ như Tata, Reliance Industries, Adani Group và Essar Group đã
đầu tư vào các dự án tại Pakistan. Năm 2019, Pakistan đã tăng cường việc thu
hút đầu tư từ Ấn Độ bằng cách tăng cường quảng bá thương hiệu đất nước và tổ
chức các sự kiện quảng bá thương mại. Mặc dù có sự cố xảy ra giữa hai nước
vào năm 2019, khi Ấn Độ cắt đứt mọi liên lạc thương mại với Pakistan, tuy
nhiên, các doanh nghiệp Ấn Độ vẫn tiếp tục quan tâm đến việc đầu tư vào
Pakistan.
Dưới đây là một số chi tiết về các đầu tư của hai nước
Dự án điện mặt trời Quaid-e-Azam Solar Power Plant: Đây là dự án điện mặt
trời lớn nhất tại Pakistan, được đầu tư bởi Ấn Độ với tổng kinh phí khoảng 200
triệu USD. Dự án này đã được hồn thành vào năm 2015 và có khả năng cung
cấp điện cho 200.000 hộ gia đình.
Dự án khai thác và chế biến đồng thau Reko Diq: Đây là một trong những dự án
khai thác đồng thau lớn nhất thế giới, tọa lạc tại Balochistan, Pakistan. Dự án
này được đầu tư bởi Tập đoàn TATA của Ấn Độ và Antofagasta Minerals của
Chile, với tổng kinh phí dự kiến lên đến 3,3 tỷ USD.
Dự án dầu khí Iran-Pakistan-Ấn Độ: Đây là một dự án đường ống dẫn dầu khí
từ Iran tới Ấn Độ, thông qua Pakistan. Dự án này đã được đề xuất từ năm 1995
và đã được khởi động lại vào năm 2018 sau khi liên quan đến các lệnh trừng
phạt của Mỹ đối với Iran được giảm nhẹ. Dự án này có tổng kinh phí dự kiến
khoảng 7 tỷ
Dự án bảo vệ bờ biển Karachi: Đây là một dự án có quy mơ lớn, với mục đích
bảo vệ bờ biển của thành phố Karachi, Pakistan khỏi các hiện tượng sạt lở. Dự
án này được đầu tư bởi Chính phủ Ấn Độ với tổng kinh phí khoảng 92 triệu
USD.
Tuy nhiên, những mối quan hệ đầu tư này có thể gặp nhiều thách thức do các
yếu tố chính trị và an ninh. Các chuyên gia cho rằng, nếu hai nước có thể giải
quyết các vấn đề an ninh và chính trị, sẽ có nhiều cơ hội để tăng cường mối
quan hệ đầu tư giữa Ấn Độ và Pakistan trong tương lai.
3.4 Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tới tình kinh tế - thương mại của Ấn
Độ và Pakistan
Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế và thương mại của
cả Ấn Độ và Pakistan. Cả hai nước đều phải đối mặt với những thách thức đáng
kể trong việc duy trì hoạt động sản xuất và kinh doanh trong bối cảnh giãn cách
xã hội và hạn chế giao thông.
Ở Ấn Độ, đại dịch COVID-19 đã gây ra ảnh hưởng lớn đến các ngành công
nghiệp, đặc biệt là ngành dịch vụ và du lịch. Sản xuất và xuất khẩu cũng đã bị
gián đoạn do thiếu hụt lao động và vật liệu nguyên liệu. Theo dữ liệu của Tổng
cục Hải quan Ấn Độ, giá trị xuất khẩu của Ấn Độ giảm 7,26% trong năm 2020.
Ngồi ra, Ấn Độ cũng đã gặp khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ và duy
trì nguồn tài chính đối với các doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn kinh tế.
Tình hình Covid-19 ở Ấn Độ đối mặt với những rủi ro tan vỡ mang tính hệ
thống. Trong vòng hơn một năm qua, các ca nhiễm ở Ấn Độ tiếp tục tăng lên.
Gần đây, nhiều người Ấn Độ đã tử vong. Để đối phó với tình hình mất kiểm
sốt Covid-19, Ấn Độ đã nỗ lực tìm mua các máy thở trên thế giới. Tuy nhiên,
tình hình dịch bệnh hiện nay ở Ấn Độ vẫn sẽ kéo dài một thời gian nữa, do: Thứ
nhất, tỷ lệ tiêm chủng Covid-19 mới chỉ đạt 10% dân số. Thứ hai, miễn dịch
cộng đồng của Ấn Độ chưa thành công. Tại một số khu vực có tỷ lệ kháng thể
tương đối cao, tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến nguy hiểm. Thứ ba, người dân
tăng mức độ tụ tập liên quan tới các nhân tố tơn giáo, kinh tế. Vì vậy, trong
ngắn hạn, mục tiêu phịng chống dịch sẽ rất khó khăn do tốc độ lây nhiễm và
mức độ nguy hiểm của Covid-19 đã vượt qua khả năng kiểm soát của Chính
phủ Ấn Độ. – Nền kinh tế Ấn Độ đối mặt với những nguy hiểm sâu sắc: Kể từ
năm ngoái đến nay, do ảnh hưởng của Covid-19, nền kinh tế của Ấn Độ đã suy
giảm. IMF dự đoán kinh tế Ấn Độ năm 2021 tăng trưởng 12,5%, có triển vọng
quay trở lại mức tăng trước khi dịch Covid-19 bùng phát. Tuy nhiên, trước tình
hình dịch bệnh hiện nay, ảnh hưởng của Covid-19 đến nền kinh tế Ấn Độ dễ
nhận thấy, khả năng kinh tế Ấn Độ sẽ khó tăng mạnh trong năm nay, do: Các
biện pháp phong tỏa của Ấn Độ cũng ảnh hưởng tới phục hồi của nền kinh tế;
Nền kinh tế Ấn Độ chủ yếu dựa vào ngành dịch vụ. Ảnh hưởng của dịch bệnh
đối với ngành dịch vụ Ấn Độ rất rõ rệt; Mức độ gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế
Ấn Độ với môi trường quốc tế chặt chẽ. Các ngành sản xuất dược phẩm, may
mặc v.v… đều có liên quan tới thị trường bên ngồi. Trong bối cảnh các quốc
gia và khu vực trên thế giới từng bước kiểm soát dịch bệnh, chuyển sang giai
đoạn hồi phục kinh tế, thì việc mất kiếm sốt dịch bệnh sẽ làm mất đi cơ hội
hợp tác với bên ngoài.
Tương tự, Pakistan cũng đã phải đối mặt với những ảnh hưởng nghiêm trọng
của đại dịch COVID-19 đến nền kinh tế của họ. Pakistan đã ghi nhận mức tăng
trưởng kinh tế âm đầu tiên trong hơn một thập kỷ, với tỷ lệ thất nghiệp và nghèo
đói tăng lên đáng kể. Các ngành cơng nghiệp đóng vai trị quan trọng trong nền
kinh tế của Pakistan, nhưng hầu hết các doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động
trong giai đoạn giãn cách xã hội. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn với việc
duy trì hoạt động và phải đối mặt với các rào cản trong việc vận chuyển hàng
hóa qua biên giới. Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế của
Pakistan đã giảm 0,4% trong năm 2020 và dự kiến sẽ giảm thêm 1,5% trong
năm 2021.
3.5 Triển vọng hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước
Mối quan hệ kinh tế và thương mại giữa Ấn Độ và Pakistan đã trải qua nhiều
biến động và thử thách trong quá khứ. Tuy nhiên, các nỗ lực đã được đưa ra để
nâng cao hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia này. Thương mại giữa Ấn Độ và
Pakistan đang ở mức thấp so với tiềm năng của hai quốc gia này. Trong năm
2020, tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu giữa hai quốc gia này là khoảng 833
triệu đô la Mỹ, với Ấn Độ nhập khẩu chủ yếu từ Pakistan các sản phẩm như vải,
gạo và quả khô, trong khi Pakistan nhập khẩu chủ yếu từ Ấn Độ các sản phẩm
hóa chất và máy móc. Hai quốc gia đã ký kết Hiệp định Thương mại Tự do
ASEAN - Ấn Độ - Australia - New Zealand (RCEP), một thỏa thuận thương
mại lớn nhất thế giới, tuy nhiên, Pakistan không phải là thành viên của RCEP.
Hợp tác kinh tế hai quốc gia đã thảo luận về việc mở rộng hợp tác kinh tế trong
các lĩnh vực như du lịch, nông nghiệp, khoa học và công nghệ. Các cuộc họp
giữa các quan chức kinh tế của Ấn Độ và Pakistan đã được tổ chức để tìm kiếm
các cơ hội hợp tác và thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Các
doanh nghiệp Ấn Độ và Pakistan cũng đã tổ chức các cuộc gặp gỡ để thảo luận
về hợp tác kinh tế và đầu tư. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan
vẫn còn căng thẳng và phức tạp, ảnh hưởng đến việc phát triển hợp tác kinh tế
và thương mại giữa hai quốc gia.