Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận cao học xhh các vấn đề đương đại chuyên đề biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.63 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN XÃ HỘI HỌC
CÁC VẤN ĐỀ ĐƯƠNG ĐẠI
Chuyên đề: Biến đổi khí hậu


Các từ viết tắt

Các hội nghị Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu

COP

Biến đổi khí hậu

BĐKH

Cơng ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu

UNFCCC

Hội nghị các bên

CMP


MỤC LỤC

1. Bối cảnh /Đặt vấn đề…………………………………………………..3
2. Tổng quan 26 COP ……………………………………………………4
3. Những kết quả đã đạt được…………………………………………….23
4. Những kết quả chưa đạt được…………………………………………23
5. Kết luận………………………………………………………………..24


6. Tài liệu tham khảo……………………………………………………..25


1. Bối cảnh/Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu đang từng ngày làm thay đổi thế giới của chúng ta rất
nhanh theo chiều hưởng xấu đi, và là một trong những thách thức lớn nhất đối
với nhân loại trong thế kỷ 21. Biểu hiện dễ thấy nhất của BĐKH là nhiệt độ
trung bình ở nhiều nơi trên thế giới có chiều hướng gia tăng, lượng mưa thay
đổi bất thường, các loại hình thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan ngày
càng gia tăng cường độ và vị trí, tác động tiêu cực đến nhiều khía cạnh của
đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhiều diễn biến khí hậu bất
thường đã xuất hiện thường xuyên hơn khiến mọi người bắt đầu chú ý và đã
có những hoạt động nhằm đối phó và thích ứng với hồn cảnh mới như đầu
tư vào nhiều lĩnh vực để làm cho cả xã hội, đặc biệt là những người nghèo
khó và dễ bị ảnh hưởng bởi khi hậu nhất, có khả năng chống chịu cao hơn
trước những tác động của BĐKH
Ở các nước phát triển vấn đề về BĐKH diễn ra rõ rệt hơn, và luôn làm
cho thế giới phải quan tâm. Nó có các biểu hiện rõ ràng với các quốc gia
thuộc nền công nghệ cao, sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch…. Và nó gây
hậu quả vơ cùng nguy hiểm cho tồn bộ quốc gia đó, và xã hội loài người.
Xuất phát từ những lý do trên, vậy nên đến năm 1995 thì Hội nghị về
biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần đầu tiên được tổ chức tại Berlin. Hội
nghị về Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc là hội nghị được tổ chức hàng
năm trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
(UNFCCC). Là cuộc họp chính thức của các Bên UNFCCC (Hội nghị các
Bên, COP) để đánh giá tiến bộ trong việc đối phó với biến đổi khí hậu, và bắt
đầu từ giữa những năm 1990, để đàm phán Nghị định thư Kyoto thiết lập các
nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lý đối với các nước phát triển để giảm phát
thải khí nhà kính của họ. Từ năm 2005, các Hội nghị cũng được coi là "Hội

nghị của các Bên phục vụ như là Cuộc họp của các Bên tham gia Nghị định


thư Kyoto" (CMP); các bên tham gia Công ước không phải là thành viên của
Nghị định thư cũng có thể tham gia các cuộc họp liên quan đến Nghị định
thư với tư cách quan sát viên. Từ năm 2011, các cuộc họp cũng đã được sử
dụng để đàm phán Thỏa thuận Paris như một phần của các hoạt động của nền
tảng Durban cho đến khi kết thúc vào năm 2015, tạo ra một lộ trình chung
hướng tới hành động vì khí hậu.
2. Giới thiệu tóm tắt về các hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí
hậu
COP 1 diễn ra từ ngày 28/3 đến 7/4/1995, tại Berlin, Đức với 117
quốc gia, 1000 đại biểu. COP 1 đã thảo luận những mối lo ngại về sự tương
xứng trong khả năng đạt được các cam kết, và đồng thuận về "Các hành động
được thực thi cùng nhau", những biện pháp chung tay đầu tiên trong hành
động chống lại biến đổi khí hậu quốc tế. Kết quả đạt được trong COP rất đáng
tự hào với 117 bên ký kết UNFCCC và 53 nước quan sát viên. Nhưng đồng
thời kết thúc của cuộc họp cũng chưa được viên mãn cho lắm khi các quốc
gia đang phát triển phản đối cơ chế cùng "nhau thực hiện" và coi đó là sự chối
bỏ trách nhiệm của cá quốc gia phát triển (Theo đó cơ chế "cùng nhau thực
hiện" là các quốc gia phát triển hỗ trợ các quốc gia đang phát triển trong
những hoạt động giảm phát thải khí nhà kính thơng qua các dự án đầu tư
"sạch" hoặc chia sẻ các công nghệ sản xuất tiên tiến thân thiện với môi
trường)
COP 2 diễn ra từ 1/7/1996, tại Genena, Thụy Sỹ, với 1500 đại biểu.
Nội dung chính của COP 2 đó chính là chấp nhận những phát hiện khoa học
về biến đổi khí hậu được đưa ra bởi Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí
hậu (IPCC);Kêu gọi "các mục tiêu trung hạn ràng buộc về mặt pháp lý";
Đàm phán những vấn đề chi tiết về cắt giảm khí nhà kính, lộ trình cắt giảm và
xác định trách nhiệm của mỗi nhóm nước. Kết quả bất ngờ đó là Hoa Kỳ lần



đầu tiên đồng ý tham gia một thỏa ước có tính ràng buộc pháp lý. Hội nghị
diễn ra khá sn sẻ, đây chính là bước đêm cho COP 3.


COP 3 diễn ra tháng 12 năm 1997 tại Kyoto, Nhật Bản, với 10000
đại biểu. Nội dung của COP 3 đưa ra các mục tiêu mang tính bắt buộc đối
các nước tham gia về việc giảm lượng khí thải nhà kính hoặc có thể tiến hành
biện pháp thay thế như mua bán phát thải nếu không muốn đáp ứng yêu cầu
đó; Các nước tham gia kí kết phải cắt giảm lượng khí thải CO2 và các khí
nhà kính (CH4, CFC,.. ) đến năm 2012 ít nhất 5% so với mức phát thải năm
1990; Nghị định yêu cầu các quốc gia tham gia cam kết thực hiện các mục
tiêu nêu trên thơng qua 3 cơ chế chính: cơ chế thị trường khí thải, cơ chế phát
triển sạch và cơ chế đồng thực hiện. Cuộc họp có kết quả khá sn sẻ, tính
đến ngày 13 tháng 11 năm 1998, 60 quốc gia đã ký Nghị định thư Kyoto;
Theo Chương trình khung LHQ về biến đổi khí hậu (UNFCCC) thì có 192
bên tham gia Nghị định thư Kyoto; và 36 quốc gia đã đăng ký giảm phát thải
khí nhà kính trung bình hằng năm trong giai đoạn 2008 - 2012 xuống trung
bình 5% so mức ghi nhận vào năm 1990.
Nhưng hội nghị vẫn còn một số những tồn tại chưa tháo gỡ được
Mỹ không chấp nhận thỏa thuận và ký kết hiệp định; Trung Quốc (khi đó là
các quốc gia mới nổi) có lượng phát thải khí nhà kính tăng trong khi mục tiêu
của các nước là giảm lượng khí phát thải; Các nước đang phát triển không
phải chịu bất cứ ràng buộc nào về mặt pháp luật quốc tế để cắt giảm hoặc
kiểm sốt lượng phát thải của mình. Điều này làm suy giảm động lực thúc
đẩy các quốc gia đang phát triển tham gia vào các mục tiêu cam kết trong
nghị định; Nghị định thư đã không xác định một hệ thống số liệu thích hợp
để đo lường hiệu quả từng loại khí nhà kính hoặc tương đương với mức giảm
5%, do vậy khơng có một khung đánh giá chung, nhất quán giữa các quốc

gia. Ngoài ra, hạn chế của UNFCC cùng với Phụ ước Kyoto đó là : Mặc dù
các quốc gia thành viên UNFCCC vẫn hội họp hàng năm, mặc dù ngân sách
của Văn phòng UNFCCC dành cho việc thi hành UNFCCC và Phụ ước
Kyoto càng ngày càng tăng, và mặc dù những tổ chức và nhân vật tranh đấu
7


cho môi trường vẫn hô hào phải hành động” để “cứu nguy trái đất,” những
cam kết của UNFCCC, đặc biệt là mục tiêu cắt giảm lượng CO2 được cam
kết trong Phụ ước Kyoto, đã khơng được thực hiện: Lượng khí CO2 phóng
thích vào khí quyển đã tăng từ 23,25 tỉ tấn trong năm 1997 (khi Phụ ước
Kyoto được ký kết) lên đến 29,20 tỉ tấn trong năm 2006, tức 26%. Nếu so
với 21,68 tỉ tấn trong năm 1990 (mốc chỉ tiêu của Phụ ước Kyoto) lượng khí
CO2 phóng thích năm 2006 đã tăng gần 35%. Tất cả các quốc gia, kể cả Hoa
Kỳ, thi hành triệt để lời cam kết >< lượng khí CO2 phóng thích vào khí
quyển tồn cầu trong năm 2006 chẳng những không thấp hơn 5,2% mà còn
tăng 22,8% so với năm 1990.
COP 4 diễn ra vào tháng 11 năm 1998 tại Buenos Aires, với 5000 đại
biểu tham gia. Những vẫn đề còn tồn động chưa giải quyết được trong Nghị
định thư được kì vọng sẽ được hoàn tất tại cuộc họp này. Tuy nhiên, sự phức
tạp và khó khăn của việc đạt được thỏa thuận về những vấn đề này đã cho
thấy không thể thực hiện được, và thay vào đó các bên thơng qua một "Kế
hoạch Hành động" kéo dài 2 năm nhằm gia tăng các nỗ lực và vạch ra các cơ
chế để thi hành Nghị định thư Kyoto, sẽ được hoàn thiện vào năm 2000.
Kết quả hội nghị, có các kết quả đạt được sau: Về việc tuân thủ Các
bên đã đạt được sự hiểu biết chung rằng cần có một cơ chế mạnh và toàn diện
để đảm bảo việc thực thi Nghị định thư Kyoto một cách hiệu quả; Các quốc
gia dễ bị tổn thương bởi tác động của biến đổi khí hậu sẽ nhận được sự hỗ trợ
thêm từ Quỹ Môi trường Toàn cầu để hoạch định các biện pháp cụ thể để
thích ứng; Argentina và Kazakhstan bày tỏ sự cam kết của mình trong việc

thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà kính, là hai quốc gia khơng thuộc
Phụ lục đầu tiên làm việc đó. Mặc dù như vậy nhưng kết thúc hội nghị vẫn
còn vướng mắc như sau: Các vấn đề chính đưa ra bàn luận nhận về những ý
kiến trái chiều và không đưa ra những hướng dẫn rõ ràng phải đạt được.

8


COP 5 diễn ra từ 25 tháng 10 đến 5 tháng 11 năm 1999, tại Bonn,
Đức, với hơn 3000 người tham dự và 165 bên đại diện tham gia. Nội dung
của cuộc hội nghị bao gồm Các đại biểu tiếp tục cơng việc hướng tới việc
hồn thành "Kế hoạch Hành động Buenos Aires” được thông qua tại Hội nghị
lần thứ tư của các Bên (COP 4) vào tháng 11 năm 1998. Và theo “Kế
hoạch Hành động Buenos Aires”, các Bên đặt ra thời hạn hai năm để tăng
cường thực hiện và chuẩn bị FCCC để Nghị định thư Kyoto có hiệu lực
trong tương lai.
Hội nghị kết thúc và có được kết quả rất tuyệt vời: Các bên tham gia
Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu đã nhất trí đẩy nhanh
các nỗ lực nhằm biến các khái niệm rộng rãi của Nghị định thư Kyoto thành
hiện thực. Cụ thể, các Bên đã đồng ý tăng hơn gấp đôi thời gian dành cho các
cuộc đàm phán trong năm tới. Điều này làm tăng đáng kể triển vọng rằng các
Bên sẽ hồn thành thời hạn hồn thành cơng việc về các khía cạnh chính
trong khn khổ hoạt động của Nghị định thư tại hội nghị năm tới tại The
Hague, Hà Lan. Nghị định thư cam kết các nước phát triển giảm phát thải các
khí nhà kính mà hầu hết các nhà khoa học tin rằng đang gây ra hiện tượng
nóng lên tồn cầu, đồng thời cung cấp các công cụ sáng tạo dựa trên thị
trường để đạt được các mức giảm đó.
COP 6 diễn ra từ 13–25 tháng 11 năm 2000, tại The Hague, Hà Lan.
Nội dung chính của cuộc họp Hội nghị lần thứ sáu các bên tham gia Công
ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu là một hội nghị quốc tế lớn

về hiện tượng nóng lên tồn cầu.Các nội dung chính trong chương trình nghị
sự là 1 cơ chế của Kyoto, 2 hệ thống tuân thủ, 3 vấn đề chìm và 4 vấn đề của
các nước đang phát triển: (1) sự tham gia của các nước đang phát triển, (2)
chuyển giao công nghệ, (3) khắc phục các tác động tiêu cực của biến đổi khí
hậu và những tác động bất lợi của các biện pháp đối phó. Các nỗ lực đã được
thực hiện để tạo sự đồng thuận về những vấn đề này. Kết quả là cuộc họp
9


COP6 đã bị "tạm dừng" sau khi các đại biểu không thể thống nhất về các vấn
đề được thảo luận. COP 6 Phần II dự kiến sẽ được triệu tập vào khoảng tháng
7 năm 2001. Đây là cuộc họp tranh cãi nẩy nửa nhất từ trước tới giờ, là một
cuộc thảo luận tiến triển nhanh chóng nhất thành một cuộc đàm phán cấp độ
cao về những vấn đề chính trị quan trọng, bao gồm cuộc tranh cãi quan trọng
về lời đề nghị của Mỹ cho phép tín dụng carbon 'chìm' trong các khu rừng
và đất nông nghiệp sẽ đáp ứng một phần quan trọng của việc giảm lượng
khí thải của Hoa Kỳ theo cách này; bất đồng về hậu quả của việc không tuân
thủ của các nước không đạt mục tiêu giảm phát thải của họ; và những khó
khăn trong việc giải quyết các nước đang phát triển có thể có được sự hỗ trợ
tài chính để đối phó với tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và đáp ứng
nghĩa vụ của mình với kế hoạch dùng để đo và có thể giảm phát thải khí nhà
kính.
COP 6 lần II, diễn ra từ 16 đến 27 tháng 7 năm 2001 tại Bonn, Đức,
với hơn 4.600 đại biểu đến từ 181 các chính phủ, 254 tổ chức quan sát liên
chính phủ, phi chính phủ và khác, và 332 cơ quan truyền thông đã tham
dự. COP 6 lần II đã được nối lại và một thỏa thuận chính trị đạt được về các
khía cạnh quan trọng của các cuộc đàm phán quốc tế: các nước đang phát
triển và khía cạnh tài chính, cơ chế, chìm carbon và tn thủ. Các yếu tố
chính của kế hoạch hành động của Buenos Aires được thỏa thuận và ghi lại
trong Quyết định 5 / CP.6. Cả hai kịch bản lạc quan và bi quan cho kết quả

của COP6 II. Theo kịch bản lạc quan, giao thức Kyoto sẽ có hiệu lực vào
năm 2005, cung cấp một cơ sở để thực hiện ổn định các biện pháp đối phó
nóng tồn cầu thơng qua hợp tác quốc tế. Theo kịch bản bi quan, có thể các
dự án dựa trên sự hợp tác quốc tế sẽ không được chấp thuận và cần phải phát
triển một hệ thống khác thay cho giao thức Kyoto. Những bất đồng rõ rệt nhất
trong số các quốc gia tham gia liên quan đến xung đột lợi ích giữa các nước
đang phát triển và phát triển so với việc thành lập một quỹ đối phó với sự
nóng lên tồn cầu đây chính là vướng mắc của cuộc hội nghị lần này.
10


COP

7

diễn

ra

từ ngày

29/10/2001

đến

10/11/2001

tại

Marrakech, Morocco. Các quyết định chính tại COP 7 bao gồm: Các quy tắc

hoạt động về mua bán khí thải quốc tế giữa các bên tham gia Nghị định thư
và CDM và việc thực hiện chung. Một chế độ tuân thủ nêu rõ hậu quả của
việc không đạt được các mục tiêu phát thải nhưng được các bên tham gia
Nghị định thư trì hỗn, khi nó có hiệu lực, quyết định về việc liệu những hậu
quả đó có ràng buộc về mặt pháp lý hay không. Các thủ tục kế toán cho các
cơ chế linh hoạt.
Kết quả thu dược từ COP 7 mang lại cơ hội để đạt được tiến bộ đáng
kể trong việc tạo điều kiện cho các hành động hiệu quả trong chống biến đổi
khí hậu, vạch ra những nỗ lực để bảo tồn và bảo vệ di sản xanh, cũng như các
dự án giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực xử lý chất thải và giao
thơng. Các nhà đàm phán đã hồn thành cơng việc trong Kế hoạch hành động
Buenos Aires, hoàn thiện hầu hết các chi tiết hoạt động và tạo tiền đề cho các
quốc gia phê chuẩn Nghị định thư Kyoto. Dù vậy vẫn cịn một số cản trở:
Phái đồn Hoa Kỳ vẫn duy trì vai trị quan sát viên, từ chối tham gia tích cực
vào các cuộc đàm phán. Các bên khác tiếp tục bày tỏ hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ
tham gia lại vào quá trình này vào một thời điểm nào đó và làm việc để đạt
được sự phê chuẩn của Nghị định thư Kyoto với số lượng quốc gia cần thiết
để Nghị định thư này có hiệu lực (cần có 55 quốc gia phê chuẩn, bao gồm cả
những quốc gia chiếm 55% lượng khí thải carbon dioxide của các nước phát
triển vào năm 1990)
COP 8 diễn ra từ ngày 23/10/2002 đến 1/11/2002 tại New Delhi, Ấn
Độ. COP 8 đã kêu gọi nỗ lực của các nước đã phát triển hãy chuyển giao
công nghệ và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu lên các nước đang
phát triển. Nó cũng đồng thời chấp thuận chương trình làm việc New Delhi
tại Điều 6 của Công ước khung. Kết quả có đươc sau hội nghị: Nghị định thư
Kyoto có thể có hiệu lực ngay khi nó được thơng qua bởi 55 quốc gia, bao
11


gồm các quốc gia chịu trách nhiệm 55% lượng phát thải khí nhà kính năm

1990 của các nước đã phát triển. Với việc Mỹ (36.1% lượng cacbon dioxide
của các nước đã phát triển) và Úc từ chối thông qua, sự chấp thuận của Nga
(17% tổng phát thải toàn cầu năm 1990) là cần thiết để có thể đạt được tiêu
chí thơng qua và vì thế Nga có thể làm trì hỗn cả q trình. Tuy nhiên cuộc
họp có chút vướng mắc nhỏ khi được đánh dấu bởi sự lưỡng lự của Nga,
tuyên bố rằng quốc gia này cần thêm thời gian để suy nghĩ.
COP 9 được diễn ra từ 1/12/2003 - 12/12/2003 tại Milan, Ý, với hơn
5000 đại biểu từ 166 chính phủ, 4 quốc gia quan sát viên, 312 tổ chức liên
chính phủ, phi chính phủ và các tổ chức quan sát viên khác, 191 hãng
truyền thông. Nội dung COP 9 kêu gọi các quốc gia việc giải quyết các tác
động của biến đổi khí hậu và hỗ trợ tài chính và cơng nghệ cho các nước đang
phát triển: Kêu gọi các quốc gia xác định các phương án để giảm phát thải
khí nhà kính từ hàng hải và hàng khơng dân dụng; Định nghĩa và phương
thức hố trồng rừng và tái trồng rừng; hướng dẫn thực hành sử dụng đất,
chuyển mục đích sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF); Thành lập Quỹ Biến
đổi Khí hậu Đặc biệt (SCCF) và Quỹ các nước kém phát triển nhất (LDC).
Kết quả của cuộc hội nghị thông qua nhiều quyết định và kết luận về
các vấn đề khác nhau, bao gồm: các định nghĩa và phương thức trồng rừng và
tái trồng rừng theo Cơ chế Phát triển sạch (Clean Development Mechanism);
hướng dẫn thực hành sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất và
lâm nghiệp (LULUCF); Quỹ Biến đổi Khí hậu Đặc biệt (SCCF) và Quỹ các
nước kém phát triển nhất (LDC). Mặc dù cuộc họp diễn ra rất tốt nhưng các
quốc gia phát triển vẫn hạn chế việc chuyển giao công nghệ giảm thiểu biến
đổi khí hậu và hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển.
COP 10 diễn ra từ ngày 6/12/2004-17/12/2004 tại Buenos Aires,
Argentina. COP 10 Thảo luận về tiến trình đã diễn ra kể từ Hội nghị đầu tiên
của Các bên 10 năm trước và các thách thức trong tương lai, đặc biệt nhấn
12



mạnh tới việc làm giảm nhẹ và thích nghi với biến đổi khí hậu. Các bên cũng
đồng thời bắt đầu bàn luận về cơ chế hậu-Kyoto, về việc làm cách nào để
phân chia nghĩa vụ giảm phát thải sau năm 2012, khi mà giai đoạn cam kết
đầu tiên kết thúc. Kết quả là đã Thông qua Kế hoạch Hành động Buenos
Aires. Và cuộc họp kết thúc trong thành công rực rỡ, khơng có trở ngại hay
khúc mắc gì.
COP 11 (hay COP 11/CMP 1) diễn ra từ 28 tháng 11 tới 9 tháng 12
năm 2005, tại Montréal, Québec, Canada, với sự tham gia của hơn 10.000
đại biểu. Là cuộc Họp các Bên (CMP 1) đầu tiên đối với Nghị định thư
Kyoto kể từ cuộc gặp ban đầu tại Kyoto năm 1997. Nó là một trong những
hội nghị liên chính phủ lớn nhất về biến đổi khí hậu từng diễn ra. Sự kiện này
đánh dấu việc Nghị định thư Kyoto bắt đầu có hiệu lực. Đăng cai với hơn
10.000 đại biểu, nó là một trong những sự kiện quốc tế lớn nhất của Canada
và là sự kiện lớn nhất quy tụ tại Montreal kể từ Expo 67. Kế hoạch Hành
động Montreal là một thỏa thuận trong việc "gia hạn hiệu lực của Nghị định
thư Kyoto qua năm 2012 (năm Nghị định thư hết hiệu lưc) và đàm phán về
những cắt giảm sâu hơn trong việc phát thải khí nhà kính". Bộ trưởng Bộ mơi
trường Canada thời điểm đó là Stéphane Dion đã nói rằng thỏa thuận này đã
đem đến "một tấm bản đồ cho tương lai". Tuy vậy, vấn đề cam kết của các
nước đang phát triển chưa được đặt ra và Hoa Kỳ, không tham gia Nghị định
thư Kyoto, phản đối trong các cuộc thảo luận thỏa thuận về một vài vấn đề.
COP 12/CMP 2 diễn ra từ 6–17 tháng 11 năm 2006 tại Nairobi,
Kenya. Nội dung COP 12, ông Yvo de Boer, thư ký điều hành biến đổi khí
hậu của Liên hiệp quốc cho rằng biến đổi khí hậu đã trở thành một vấn đề vơ
cùng phức tạp. Các chính phủ cần phải có các biện pháp mạnh: bắt buộc dung
năng luợng sạch; cấm phát điện bằng than, dọn sạch ô tô ở các trung tâm
thành phố, buộc các nhà xây dựng phải áp dụng các tiêu chuẩn hiệu quả năng
lượng nghiêm ngặt…Một số sáng kiến khác đã được công bố, trong đó nổi
13



bật nhất là một quỹ của Liên hợp quốc nhằm xây dựng năng lực giữa các
chính phủ châu Phi, cho phép họ đấu thầu tốt hơn các dự án công nghệ sạch
và bảo vệ khỏi các tác động khí hậu.
Kết quả có được sau COP 12: Hỗ trợ các quốc gia đang phát triển và
cơ chế phát triển sạch; Các bên đã thông qua một kế hoạch 5 năm để hỗ trợ
việc thích ứng biến đổi khí hậu bởi các quốc gia đang phát triển, và đồng ý về
trình tự và phương thức của Quỹ Thích ứng; Các bên cũng đồng thời đồng ý
cải thiện dự án cho cơ chế phát triển sạch. Tuy nhiên, kết thúc cuộc họp vẫn
chưa được thành công cho lắm, và Hans Verolme, WWF (Quỹ bảo vệ thiên
nhiên) mong đợi các nguyên thủ quốc gia có thể đến hội nghị thượng đỉnh về
khí hậu tiếp theo. Bởi các chính phủ thường được đại diện tại các cuộc họp
này bởi các bộ trưởng môi trường - những người tương đối nhỏ trên sân khấu.
Một số đại biểu lo ngại về chi phí kinh tế và những mất mát tiềm tàng của sự
cạnh tranh, chủ yếu các cuộc thảo luận đều tránh nhắc tới việc giảm phát thải;
Một số đại biểu lo ngại về chi phí kinh tế và những mất mát tiềm tàng của sự
cạnh tranh, chủ yếu các cuộc thảo luận đều tránh nhắc tới việc giảm phát thải.
COP 13/CMP 3 diễn ra từ 3–17 tháng 12 năm 2007 tại Nusa
Dua, Bali, Indonesia, với sự tham gia cùa 3.500 quan chức chính phủ từ
187 quốc gia; 5800 người đăng ký là những người tham gia từ LHQ và
môi trường, phát triển, kinh doanh, các tổ chức phi chính phủ khác; và
khoảng 1.500 thành viên của các phương tiện truyền thơng. Nhiệm vụ
chính của COP13 là xác định con đường khí hậu sau năm 2012, các chế độ có
thể được thiết lập - bao gồm các mục tiêu giảm phát thải để thành công;
những cam kết trong giai đoạn cam kết đầu tiên của Nghị định thư Kyoto
(2008–12); Kế hoạch Hành động Bali nhằm xác định các thơng số và tiến
trình cho các cuộc đàm phán trong tương lai cho đến năm 2009. Thông qua
Kế hoạch Hành động Bali hướng tới việc tăng cường khẩn cấp việc thực thi
Công ước khung tới và sau năm 2012.
14



Kết quả đạt được trong COP 13 như sau: Hầu hết các quốc gia đều
đề cập đến bốn 'khối xây dựng' : giảm thiểu,thích ứng, cơng nghệ và tài chính
như những thành phần thiết yếu của giai đoạn sau năm 2012; COP đã đồng ý
rằng tài trợ cho việc thích ứng các dự án được thực hiện thông qua sự phát
triển trong sạch của Nghị định thư Kyoto cơ chế (CDM) sẽ được quản lý
trong thời gian tạm thời bởi Tồn cầu Cơ sở Mơi trường (GEF), thuộc thẩm
quyền của COP / MOP; Giảm lượng khí thải từ phá rừng ở các nước đang
phát triển '(REDD) - nhóm chuyên gia liên quan sẽ tiếp tục nghiên cứu các
định nghĩa và đánh giá phát thải do phá rừng và suy thoái rừng. Giúp thực
hiện các hành động CDM có khả năng được hỗ trợ bởi quỹ rừng với 300 triệu
đô la của Ngân hàng Thế giới, và một khoản khác lên đến 200 triệu đô la để
hỗ trợ các dự án tín dụng carbon dựa trên việc tạm dừng nạn phá rừng. Hội
nghị thành cơng tốt đẹp và khơng có gì vướng mắc.
COP 14/CMP 4 diễn ra từ 1–12 tháng 12 năm 2008 tại Poznań, Ba
Lan. Nội dung của COP 14 là đàm phán về một kế thừa của Nghị định thư
Kyoto. Kết quả có được sau hội nghị là các đại biểu đồng ý về các nguyên tắc
trong việc cấp vốn cho một quỹ để giúp các quốc gia nghèo nhất đương đầu
với hậu quả của biến đổi khí hậu và đồng ý về một cơ chế để hợp nhất việc
bảo vệ rừng thành những nỗ lực của cộng đồng quốc tế để chống lại biến đổi
khí hậu. Hội nghị diễn ra thành cơng rực rỡ và khơng có gì trở ngại trong
cuộc họp.
COP 15 diễn ra tại Copenhagen, Đan Mạch từ ngày 7–18 tháng 12
năm 2009, với sự tham gia của 192 quốc gia (các bộ trưởng và quan chức).
Hai vấn đề lớn đang được bàn thảo trong COP 15 là: Đặt mục tiêu để cắt
giảm các loại khí gây hiệu ứng nhà kính mà các nước phải tuân theo, kể cả
hai nước phát thải lớn nhất là Trung Quốc và Mỹ và các nước giàu phải chi
bao nhiêu tiền để giúp các nước nghèo đầu tư chống biến đổi khí hậu; Thực
hiện cam kết của các bên phụ thuộc và các điều khoản khác của UNFCCC,

15


bao gồm: cơ chế tài chính của các nước thuộc và không thuộc UNFCCC;
Tăng cường năng lực cho các nước đang phát triển trong việc giảm nhẹ và
thích ứng BĐKH, phát triển và chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực
trong khn khổ UNFCCC;

Thực hiện chương trình hành động Buenos

Aires về các biện pháp thích ứng và ứng phó với BĐKH; Các cam kết đối với
các nước về giảm phát thải nhà kính định lượng sau năm 2012 (2020, 2030,
2050).
Kết quả là đã nhen nhóm ý tưởng về việc để các chính phủ tự nguyện
đề ra mục tiêu giảm khí thải theo tính tốn phù hợp với nhu cầu của nước
mình, u cầu các nước gửi mục khí thải vào cuối tháng 1/2010. Trong
cuộc họp lần này có sự mâu thuẫn rất lớn: Hội nghị mâu thuẫn giờ đây không
chỉ tồn tại giữa hai nhóm nước phát triển và đang phát triển, mà còn trong nội
bộ các nước phát triển với nhau. sự bất đồng gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc,
hai nước có lượng khí thải lớn nhất thế giới hiện nay và được cho là những
“nhân vật chính” quyết định thành công của COP15. Trái với những tuyên bố
tích cực được hai phía đưa ra trước hội nghị, trong tuần qua, cả Mỹ và Trung
Quốc đều tỏ thái độ cứng rắn khi khơng ngớt lời chỉ trích lẫn nhau.
COP 16 diễn ra từ 29/11-10/12/2010 tại Cancun, Mexico, với hơn
12.000 đại biểu, gồm 5.200 các quan chức chính phủ đến từ 194 nước.
COP 16 đề cập đến các vấn đề thích ứng và giảm thiểu tác động BĐKH, tìm
nguồn tài chính và chuyển giao cơng nghệ liên quan.
Thơng qua hội nghị kết quả đạt được thắng lợi lớn nhất của COP16
là vào ngày cuối cùng trước khi bế mạc, Hội nghị đã nhất trí (trừ Bolivia)
thơng qua “Thỏa thuận Cancun” (Cancun Agreement) với các nội dung tương

đối cân bằng giữa hai hướng đàm phán (theo Nghị định thư Kyoto - KP và
theo Cơng ước khí hậu - LCA) và giữa các nôi dung trong mỗi hướng đàm
phán ; Các nước đã thống nhất phải hợp tác dài hạn trong ứng phó với biến
đổi khí hậu để nhiệt độ tồn cầu không tăng quá 2 độ C vào cuối thế kỷ 21 và
16


phát triển nền kinh tế theo hướng carbon thấp; COP 16 thống nhất xây dựng
quy trình Quỹ Khí hậu xanh; nhất trí tăng cường các hoạt động giảm phát thải
do phá rừng và suy thối rừng, thơng qua bảo vệ, quản lý bền vững ở các
nước đang phát triển với sự hỗ trợ về cơng nghệ và tài chính của các nước
phát triển; đưa ra những hướng dẫn mới về Cơ chế phát triển sạch (CDM).
Tuy nhiên, hội nghị chưa đưa ra được các kế hoạch cụ thể mang tính
ràng buộc pháp lý cho việc cắt giảm lượng phát thải tại các nước và trên
tồn cầu. COP 16 đã khơng đạt được tiến triển lớn trong việc làm thế nào để
gia hạn Nghị định thư Kyoto và cũng chưa làm rõ cách thức quyên tiền cho
"Quỹ Khí hậu Xanh." Hội nghị Cancun cũng chưa giải quyết được đề tài gai
góc, đó là chương trình giảm bớt phát thải bởi nạn phá rừng và do rừng xuống
cấp (REDD) bởi những bế tắc về vấn đề tìm nguồn tài trợ và cách thức giúp
đỡ các nước nghèo trong vấn đề bảo vệ rừng.
COP 17 năm 2011 được tổ chức tại Durban, Nam Phi, từ 28 tháng
11 tới 9 tháng 12 năm 2011, với sự tham gia của 194 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Mục tiêu đưa ra một hiệp ước mới nhằm hạn chế lượng
carbon và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, đồng thời thống nhất về văn
bản mang tính ràng buộc pháp lý mới thay thế cho Nghị định thư Kyoto. Hội
nghị đồng ý một thỏa thuận ràng buộc pháp lý bao gồm tất cả các quốc gia, sẽ
được thơng qua vào năm 2015 và có hiệu lực vào năm 2020; Ngồi ra cịn có
tiến triển liên quan đến việc thành lập Quỹ Khí hậu Xanh, trong đó một
khung quản lý được thơng qua. Quỹ sẽ đóng góp 100 tỉ USD mỗi năm để
giúp các quốc gia nghèo thích ứng với hậu quả của biến đổi khí hậu.

Kết quả của hội nghị COP 17 rất xuất sắc: Thành lập Diễn đàn
Durban về hành động tăng cường (DPEA) là một trong những kết quả quan
trọng của COP17. DPEA được hi vọng sẽ “nâng cao mức độ tham vọng với
quan điểm đảm bảo nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu cao nhất có thể bởi
các quốc gia”; Tại COP17, các quốc gia đã thông qua cơ cấu quản trị của Quỹ
17


Khí hậu Xanh (GCF) và kêu gọi sớm đưa Quỹ này đi vào hoạt động. Được
quản lý bởi một Ban gồm đại diện của 24 quốc gia (trong đó có 12 quốc gia
đang phát triển và 12 quốc gia phát triển); Giảm phát thải từ mất rừng và suy
thoái rừng (REDD+); Hành động giảm thiểu phù hợp ở cấp quốc gia
(NAMAs); Nơng nghiệp và biến đổi khí hậu: Nơng nghiệp là một trong
những nội dung đàm phán nhằm tìm giải pháp phù hợp giữa hoạt động giảm
nhẹ, thích ứng với biến đổi khí hậu vừa đảm bảo vấn đề an ninh lương thực
tồn cầu hiện nay; Thích ứng với biến đổi khí hậu: Tại COP17, Ủy ban Thích
ứng đã được thành lập đi vào hoạt động, bao gồm 16 thành viên, có trách
nhiệm báo cáo COP về việc tăng cường điều phối các hoạt động thích ứng
với biến đối khí hậu ở quy mơ tồn cầu ; Cơ chế Cơng nghệ cho biến đổi khí
hậu: Các quốc gia đã thống nhất về Cơ chế Cơng nghệ cho biến đổi khí hậu,
dự kiến sẽ chính thức đi vào hoạt động đầy đủ vào năm 2012. Cơ sở và điều
khoản tham chiếu cho hoạt động của cơ chế này là Trung tâm và mạng lưới
Cơng nghệ khí hậu. Tuy nhiên, Quyết định thành lập DPEA khơng có sự phân
biệt giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Cũng không “trách nhiệm
chung nhưng có phân biệt”. Điều này hạn chế khả năng cho phép một sự
phân biệt rõ ràng giữa trình độ phát triển và trách nhiệm của các quốc gia.
Trong khi đó, đối với các quốc gia đang phát triển chắc chắn sẽ có những
thuận lợi và khó khăn riêng khi tham gia các cam kết đối với các quốc gia
phát triển .Quyết định thành lập DPEA khơng có sự phân biệt giữa các quốc
gia phát triển và đang phát triển.

COP 18 diễn ra từ ngày 26/11 - 7/12/2012 tại Doha, Qatar, với sự
tham dự của gần 200 quốc gia. COP 18 tập trung thảo luận về các nỗ lực
chống sự nóng lên tồn cầu, trong đó bao gồm việc thực hiện các cam kết
trong giai đoạn thứ hai của nghị định thư Kyoto. Kết quả có được qua hội
nghị là các đại diện của 27 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU),
Australia và Thụy Sỹ cùng 8 nước công nghiệp khác trên thế giới đã ký thỏa
thuận gia hạn Nghị định thư Kyoto từ ngày 1-1-2013 đến năm 2020, trong khi
18


chờ một thỏa thuận quốc tế mới về cắt giảm khí thải nhà kính, cịn được gọi
là Nghị định thư "hậu Kyoto". Kết quả này của hội nghị được xem là một
bước đi quan trọng tiến tới một thỏa thuận quốc tế mới của LHQ, dự kiến sẽ
được thông qua vào năm 2015 để có thể có hiệu lực vào năm 2020 khi thời
hạn kéo dài của Nghị định thư Kyoto kết thúc. Hoan nghênh thỏa thuận này,
Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon đánh giá đây là bước tiến quan trọng đầu
tiên, nhưng ông cũng nhấn mạnh rằng thế giới còn rất nhiều việc phải làm.
Hội nghị diễn ra thành cơng và khơng có bất cứ khúc mắc gì.
COP 19 được tổ chức ở Warsaw, Ba Lan từ ngày 11 tới ngày 23
tháng 11 năm 2013, với sự tham dự các phái đoàn đến từ 195 nước. Nội
dung của COP 19 tập trung đàm phán để thông qua một hiệp ước toàn cầu
mới do Liên hợp quốc bảo trợ về biến đổi khí hậu nhằm bắt đầu thực hiện từ
năm 2020, thay thế Nghị định thư Kyoto; Xác định nguồn tài chính để giúp
tồn thế giới hướng tới tiến trình phát triển, ít phụ thuộc vào nguồn năng
lượng hóa thạch và xây dựng cơ chế giúp các khu vực có dân số chịu rủi ro
cao do biến đổi khí hậu; Thúc đẩy các nước phát triển tăng cường viện trợ
cho các nước đang phát triển, theo đúng cam kết trước đó là cung cấp 100 tỷ
USD mỗi năm giúp các nước này ứng phó với những tác động tiêu cực của
biến đổi khí hậu, gấp 10 lần so với giai đoạn 2010 - 2012.
Kết quả của COP 19 đó là, đạt được nguyên tắc chính cho một thỏa

thuận mới để chống lại sự biến đổi khí hậu trên tồn cầu dự kiến sẽ được ký
kết vào năm 2015 và có hiệu lực sau năm 2020, thay thế Nghị định thư
Kyoto. Theo đó, tất cả các nước, chứ khơng riêng những nước giàu, sẽ có
“những đóng góp riêng” nhằm góp phần cắt giảm khí thải CO2. Các nước
phải đưa ra kế hoạch cắt giảm khí thải của mình vào q 1 năm 2015 để
chuẩn bị cho việc ký kết thỏa thuận vào cuối năm đó tại Hội nghị ở Paris,
Pháp; Thiết lập một cơ chế giúp các nước dễ bị tổn hại vì những hiện tượng
thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu gây ra là một thỏa thuận về các quy tắc
19


bảo vệ và duy trì các khu rừng nhiệt đới - lá phổi của tự nhiên. Dù vậy, các
nước phát triển đã không đưa ra cam kết nào về việc viện trợ cho các nước
nghèo trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Mỹ và nhiều nước phát triển
cũng từ chối thông báo kế hoạch làm thế nào để tăng số tiền viện trợ cho các
nước đang phát triển, mà họ đã cam kết, lên mức 100 tỷ USD/năm vào năm
2020. Khơng có nước phát triển nào đưa ra hành động mạnh mẽ hơn về cắt
giảm khí thải.
COP 20 diễn ra từ ngày 01 – 12/12/2014 tại Lima, Peru, với sự tham
dự phiên khai mạc có Chủ tịch COP19, Chủ tịch COP20, Tổng thư ký Ban
Liên chính phủ về biến đổi khí hậu, Thị trưởng thành phố Lima, Tổng thư
ký của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC)
và hàng nghìn đại biểu đến từ 197 nước tham gia và quan sát viên của
UNFCCC. Nội dung COP 20 đề cập đến đó là: Xây dựng Thỏa thuận quốc tế
2015 áp dụng cho tất cả các Bên; Tăng cường kỳ vọng giảm phát thải giai
đoạn trước 2020; Vấn đề cam kết giảm phát thải khí nhà kính của các nước
phát triển cho thời kỳ cam kết lần thứ hai của Nghị định thư Kyoto; Các vấn
đề tài chính theo Cơng ước và Nghị định thư; Cơ chế tổn thất và thiệt hại;
Quy trình đánh giá đa phương theo SBI, các kế hoạch thích ứng quốc gia và
đánh giá giai đoạn 2013-2015. Kết quả có được trong COP 20 theo thỏa

thuận, các nước phải thông qua chương trình quốc gia cắt giảm khí thải gây
hiệu ứng nhà kính trước hạn chót 31/5/2015; Các nước phát triển phải hỗ trợ
tài chính cho các nước đang phát triển trong cuộc chiến chống biến đổi khí
hậu, phần nào xoa dịu lo ngại của các nước đang phát triển, trong đó có
Trung Quốc và Ấn Độ.
COP 21 được tổ chức tại Paris từ 30 tháng 11 tới 12 tháng 12 năm
2015 với dự tham dự của 55 quốc gia. Thỏa thuận Paris hoạt động theo chu
kỳ 5 năm về hành động khí hậu ngày càng tham vọng do các quốc gia thực
hiện. Đến năm 2020, các quốc gia đệ trình kế hoạch hành động khí hậu được
20



×