Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tiểu luận cao học đặc trưng, tính chất ngôn ngữ báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.26 KB, 8 trang )

Mục lục
Lời nói đầu
Nội dung
I. Ngơn ngữ báo chí là gì?
II.

Đặc trưng ngơn ngữ báo chí

1. Ngơn ngữ sự kiện
2. Siêu ngôn ngữ
3. Ngôn ngữ của độ không xác định
4. Ngơn ngữ định lượng
III. Tính chất ngơn ngữ báo chí
1. Tính chính xác
2. Tính cụ thể
3. Tính đại chúng
4. Tính ngắn gọn
5. Tính định lượng
6. Tính biểu cảm
7. Tính khn mẫu


Lời nói đầu

Hiện nay, ngơn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong
cách chức năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng “phong cách
khuôn mẫu hoạt động trong lời nói, được hình thành từ những thói quen sử
dụng ngơn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng
các lớp văn tiêu biểu”, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ khác
nhau, để khẳng định ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có
vị thế ngang hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như


phong cách khoa học, phong cách hành chính – cơng vụ, phong cách sinh
hoạt hàng ngày, phong cách chính luận.

2


Nội dung
I. Ngơn ngữ báo chí là gì?
Ngơn ngữ báo chí là cách viết của người làm báo, với cách viết ngắn
gọn, súc tích, thể hiện những thơng tin maf người làm báo muốn truyền ttair
đến người đọc, trong đó ngơn ngữ báo chó chính là cơng cụ truyền thơng điệp
chính và cơ bản nhất, như vậy, có thể thấy ngơn ngữ báo chí là một phần của
sự phát triển ngơn ngữ.
II. Đặc trưng ngơn ngữ báo chí
1. Ngơn ngữ sự kiện
Ngôn ngữ sự kiện là ngôn ngữ bám sát sự kiện có thật và nguyên dạng
để phản ánh
Nhà báo chỉ được quyền nói cái thật mà độc giả, khán giả, thính giả đều
cảm nhận được ngay trong cuộc sống xung quanh họ. Nhà báo không được
bịa ra sự thật hay tưởng tượng ra sự thật. Đồng thời cái có thật mà mình phản
ánh phải để ngun dạng chứ khơng được thêm bớt hay tô vẽ. Sự thêm bớt
hay tô vẽ vào cái thật của cuộc đời chỉ khiến tác phẩm của mình thiếu sức
thuyết phục. Nhờ ngơn ngữ sự kiện mà Ngơn ngữ báo chí đạt được các u
cầu sau đây :
-Mới và cụ thể: Đây là hai yếu tố căn bản tạo ra tính thời sự. Đồng thời
hai yếu tố này còn giúp cho nhà báo ” tránh lặp lại,tránh khn sáo ” và tạo ra
động lực tìm cách diễn đạt sáng tạo
-Khách quan: Sự kiện là cái tồn tại khách quan.Chính sự kiện sẽ nói lên
chân lý , bộc lộ ý nghĩa , bộc lộ thái độ đối với hiện thực chứ không phải là
nhà báo tự nói ra.

Tóm lại, ngơn ngữ sự kiện là phương tiện duy nhất để phản ánh của báo
chí đồng thời là tiêu chí phân biệt với các ngơn ngữ khác

3


2. Siêu ngôn ngữ
Theo Nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tri Niên: Siêu ngôn ngữ là cách diễn
đạt phù hợp với từng hồn cảnh, từng đối tượng. Nó là phương thức diễn đạt
thường trực của nhà báo. Hay nói cách khác, ngơn ngữ trong tác phẩm báo
chí là siêu ngơn ngữ. Siêu ngơn ngữ giúp nhà báo phản ánh trung thực, chính
xác và đảm bảo yêu cầu thông tin.
3. Ngôn ngữ định lượng
Ngơn ngữ báo chí coi trọng lượng sự kiện. Chính lượng sự kiện sẽ khái
quát hiện thực. Ngôn ngữ sự kiện chỉ được khẳng định ở lượng sự kiện. Tính
chất, bản chất khuynh hướng của sự kiện tất thảy đều qua lượng sự kiện mà
có. Độ tin cậy của tin bài đều do lượng sự kiện ấn định. Lượng sự kiện cấp
cho nhà báo những cách diễn đạt mới độc đáo và đầy lượng thơng tin.
Những điều vừa nói cho ta thấy nhà báo chỉ có thể làm việc trên cơ sở
của ngôn ngữ định lượng. Do vậy so với những cách diễn đạt theo ngơn ngữ
định tính khơng phù hợp với báo chí vì đấy là ngơn ngữ của các nhà chính trị,
các nhà tư tưởng sử dụng để khái qt vấn đề phát biểu chủ đích của mình
một cách trực tiếp.
4. Ngôn ngữ của độ không xác định
Theo Nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tri Niên, ngôn ngữ của độ không xác
định là:
– Cách diễn đạt gợi sự liên tưởng, sự chú ý, kích thích sự tìm hiểu và
tạo ra sự suy nghĩ khơng dứt trong lịng người đọc,người xem.
-Cách diễn đạt hạn chế tối đa khả năng đoán trước của người đọc,người
xem nhờ thế mà có được” cái bất ngờ ” làm bùng nổ thông tin.

-Cấu trúc mở, tạo cho tác phẩm báo chí có sức sống vượt thời gian.
Ngôn ngữ của độ không xác định là sự đồng hành với cấu trúc mở.

4


Tóm lại,cơ sở của ngơn ngữ của độ khơng xác định là cách phản ánh sự
kiện trong trạng thái vận động của nó. Có thể xem quy trình vận động của sự
kiện là điều kiện tiên quyết cho ngôn ngữ của độ không xác định.
5. Kết luận
Ngôn ngữ sự kiện là linh hồn của ngơn ngữ báo chí, bởi nó là nền tảng
cho sự tồn tại và là trung tâm của ngơn ngữ báo chí
Ngơn ngữ định lượng thực chất là sự phái sinh, sự cụ thể hóa của ngơn
ngữ sự kiện. Chính vì sự địi hỏi phản ánh cụ thể, chân xác về sự kiện có thật
và nguyên dạng đã dẫn đến việc đòi hỏi phải coi trọng số lượng
Ngôn ngữ của độ không xác định là một dạng thức phát triển của ngơn
ngữ sự kiện vì nó dựa trên sự vận động của sự kiện mà hình thành
III. Tính chất ngơn ngữ báo chí
1. Tính chính xác
Ngơn ngữ của bất kì phong cách nào cũng phải đảm bảo tính chính xác.
Nhưng với ngơn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì
báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ xuất dù nhỏ
nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thơng tin,
nghĩa là có thể gây ra hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được.
Muốn sử dụng ngơn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tn thủ ít nhất 2
yêu cầu: Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ
pháp, có vốn từ vựng rộng, chắc và khơng ngừng được trau dồi; thành thạo về
mặt ngữ âm; hiểu biết phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện có thực
và ngun dạng để phản ánh, khơng tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu cầu này
có một mối quan hệ qua lại hết sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện

thực thì ngơn ngữ chỉ có thể “kêu” một cách rỗng tuếch, thiếu hơi ấm nóng
của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục mạnh mẽ với độc giả. Ngược lại,
biết rõ hiện thực nhưng kém về ngơn ngữ thì cũng khơng thể chuyển tải thơng

5


tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí đơi khi cịn mắc lỗi tai hại
cho người khác hoặc cho xã hội. Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách
chính xác, nhà báo khơng chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà cịn góp phần
khơng nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người
tiếp nhận các sản phẩm của báo không chỉ đông tới mức không xác định được
họ (nhất là trẻ em) lại ln xem báo chí là ngọn đèn chỉ dẫn trong việc sử
dụng ngôn từ, cho nên ngôn ngữ báo chí càng hồn thiện thì tiếng Việt càng
có điều kiện phát triển.
2. Tính cụ thể
Tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng
hiện thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ đến từng
chi tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là
người trong cuộc, đang trực tiếp chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong
tác phẩm của mình. Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngơn ngữ ghi nhanh còn nằm
ở việc tạo ra sự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy,
mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí nói chung và ghi nhanh nói
riêng đều phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định, với những con
người cũng xác định (có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính,…). Đây là
cội nguồn của sự thuyết phục vì nhờ những yếu tố đó mà người đọc, người
nghe có thể kiểm chứng được thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngơn
ngữ ghi nhanh nên hạn chế tối đa việc dùng từ ngữ, cấu trúc không xác định
hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như: “một người nào đó”, “ở một nơi nào đó”,
“vào khoảng”, “hình như”,…

3. Tính đại chúng
Báo chí, truyền hình là phương tiện thơng tin đại chúng. Tất cả mọi
người trong xã hội không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa
vị xã hội, lứa tuổi, giới tính,… đề là đối tượng phục vụ của báo chí: đây là nơi
họ tiếp nhận thơng tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì
6


thế, ngơn ngữ báo chí phải là thứ ngơn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức
là tính phổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi khơng có nghĩa là dễ dãi,
thấp kém. Với ngơn ngữ khơng có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho đối
tượng hạn hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện chức năng tác động vào
mọi tầng lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do
khiến cho trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên
ngành hạn hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay
mượn tiếng nước ngồi.
4. Tính ngắn gọn
Ngơn ngữ báo chí nói chung và ngơn ngữ ghi nhanh nói riêng cần ngắn
gọn, súc tích. Sự dài dịng có thể làm lỗng thơng tin, ảnh hưởng đến hiệu quả
tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nó cịn làm tốn thời gian
vơ ích cho cả hai bên: cho người viết, vì người đó sẽ khơng đáp ứng được yêu
cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời; cho người đọc (người nghe), vì trong
thời đại bùng nổ thơng tin như hiện nay, người ta luôn cố gắng thu được càng
nhiều thơng tin trong một đơn vị thời gian càng ít. Đấy còn chưa kể đến việc
khi viết dài sẽ dễ mắc nhiều những dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về sử
dụng ngôn từ (trên thực tế khảo sát cho thấy một tỉ lệ khá lớn các câu sai về
ngữ pháp trong các tác phẩm ghi nhanh báo chí có liên quan đến việc nhà báo
ham mở rộng các thành phần phụ mà quên mất các thành phần chính của câu).
5. Tính định lượng
Các tác phẩm báo chí thường bị giới hạn về mặt thời gian hay diện tích

xuất hiện trên báo, đó là tính định lượng. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối
với lĩnh vực trên truyền hình. Vì vậy, việc lựa chọn và sắp xếp các thành tố
ngơn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lí để phản ánh đầy đủ lượng sự kiện mà không
vượt quá khung cho phép về khơng gian và thời gian.
6. Tính biểu cảm

7


Tính biểu cảm trong báo chí nói chung và ghi nhanh nói riêng gắn liền
với việc sử dụng từ ngữ mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn của cá nhân,…
Ví dụ như: “Sơng Tơ mà khơng lịch” (Báo Văn hóa, 17-5-1999) Nếu ngơn
ngữ ghi nhanh báo chí khơng có tính biểu cảm thì nó chỉ tồn tại là những
chuỗi thơng tin khơ khan và khó thu hút được độc giả. Tính biểu cảm tác động
mạnh đến tâm hồn người nghe, làm cho họ có những trạng thái cảm xúc nhất
định theo hướng mà người viết mong đợi.
7. Tính khn mẫu
Giao tiếp báo chí khơng thể thiếu khn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian
và cơng sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức
thời. Song, khác với khuôn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa
học, khn mẫu báo chí không cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt,
uyển chuyển. Chẳng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải thỏa mãn
6 câu hỏi: Ai? Cái gì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? nhưng thứ tự
trả lời các câu hỏi đó có thể sắp xếp khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh
giao tiếp cụ thể. Bên cạnh đó, các thành tố khn mẫu trong ngơn ngữ báo chí
lại ln kết hợp hài hịa với các thành tố biểu cảm cho nên ngôn ngữ báo chí
thường rất mềm mại, hấp dẫn chứ khơng khơ khan như ngơn ngữ trong văn
bản hành chính, là nơi người ta sử dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu
mà thôi.


8



×