Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận cao học xhhyt ảnh hưởng của covid – 19 đến hành vi học tập của học sinh thpt hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: XÃ HỘI HỌC Y TẾ
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH COVID – 19 ĐẾN HÀNH VI
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HIỆN NAY
( Nghiên cứu tại trường THPT Cẩm Giàng, Hải Dương)


DANH MỤC BẢNG VIẾT TẮT

HVBC&TT :

Học viện Báo chí và tuyên truyền

PPNC

:

Phương pháp nghiên cứu

THPT

:

Trung học phổ thông

NLĐ

:

Người lao động



MXH

:

Mạng xã hội

SV

:

Sinh viên


ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
1. Đề tài nghiên cứu
Ảnh hưởng của Covid – 19 đến hành vi học tập của học sinh THPT
hiện nay (nghiên cứu tại trường THPT Cẩm Giàng, Hải Dương).
2. Tính cấp thiết
Sự xuất hiện của Covid – 19 vào tháng 12 năm 2019 đã làm ảnh hưởng
đến tất cả các lĩnh vực không chỉ riêng quốc gia nào đó mà trên tồn cầu. Cho
đến nay, dịch bệnh COVID-19 vẫn đang diễn biến rất phức tạp tại nhiều quốc
gia trên thế giới, tác động tiêu cực đến các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung
Quốc, Nhật Bản, Liên minh châu Âu... Tại Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm
2020, COVID-19 tác động lên nền kinh tế và làm cho tăng trưởng kinh tế
nước ta rơi xuống mức thấp nhất trong 10 năm qua. Sự càn quét khốc liệt của
chúng gây nhiều tác động tiêu cực chưa từng có tiền lệ lên các mặt kinh tế- xã
hội thế giới và Việt Nam. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp
quốc (UNDP) công bố hôm nay (27/9) cho rằng, Đại dịch Covid-19, là một
cuộc khủng hoảng sức khỏe mà hệ lụy của nó là nỗi đau khổ to lớn và thiệt

hại đó là, mạng sống con người. UNDP cho hay, cuộc khủng hoảng vẫn chưa
đi đến hồi kết, với hơn 400.000 ca nhiễm mới được báo cáo mỗi ngày, trong
đó có hơn 50.000 ca ở Đơng Nam Á. Không chỉ ảnh hưởng nặng nề đối với
nền kinh tế, lĩnh vực y tế, xã hội chịu ảnh hưởng hết sức nặng nề, đại dịch
Covid – 19 còn gây ra nhiều trở ngại cho ngành giáo dục.
Trong thời đại hội nhập như hiện nay, khoa học công nghệ bùng nổ thì
càng khơng thể thiếu vai trị của người dân có trình độ cơng nghệ cao. Theo
Becker (1964), nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm 1992, khơng có đầu tư nào
mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư vào
giáo dục. Phát triển giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn
3


nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Giáo dục gắn liền với học hành, những điều học sinh học
trong nhà trường sẽ gắn với nghề nghiệp và cuộc sống trong tương lai.
Báo cáo "Thanh niên và COVID-19: Tác động đến việc làm, giáo dục,
quyền và sức khỏe tinh thần" của ILO cho biết, 65% thanh niên thừa nhận đã
học kém hơn kể từ khi bắt đầu đại dịch do chuyển đổi từ học tại lớp sang học
trực tuyến và học từ xa trong thời gian phong tỏa. Trong bối cảnh dịch Covid19 diễn biến phức tạp, việc học trực tuyến là giải pháp bắt buộc khi học sinh
không thể đến trường. Chưa bàn đến chất lượng mà chỉ xét trên phương diện
kinh tế, việc học trực tuyến đã làm tăng chi phí giáo dục lên rất nhiều. Ngồi
ra, sự xáo trộn do việc đóng cửa đột ngột các trường học và chuyển đổi nhanh
chóng sang giáo dục trực tuyến đã làm gián đoạn cuộc sống của sinh viên trên
tồn thế giới. Sinh viên từ những nhóm thiểu số bị ảnh hưởng đặc biệt nặng
nề, phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế, khó khăn về kết nối và suy
sụp tinh thần.
Trong năm 2020, hơn 20 triệu học sinh, sinh viên và gần 2 triệu nhà
giáo các cấp học chưa thể tiếp tục dạy học và học theo phương thức dạy học

trực tiếp. Nhiều cơ sở giáo dục và đào tạo phải đóng cửa kéo dài hoặc chuyển
sang dạy học trực tuyến trong điều kiện thiếu sự chuẩn bị và bị động về năng
lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật. Tình
trạng này bị gián đoạn và kéo dài qua bốn đợt bùng phát dịch COVID-19 đã
ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc bảo đảm chương trình, phương pháp, kế hoạch
tổ chức dạy và học, hoạt động của trường, lớp và đến sự phát triển của trẻ em,
học sinh, sinh viên cả nước. Đại dịch Covid – 19 đã và đang ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc học tập của học sinh, sinh viên. Tại một số khu vực
chịu tác động nghiêm trọng của dịch bệnh, việc học diễn ra càng khó khăn
hơn. Vậy, đối với học sinh trường THPT Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương – địa
phương đã và đang dùng nhiều biện pháp ứng phó với dịch bệnh, Covid – 19
4


có tác động như thế nào đến hành vi học tập của học sinh, học sinh có thay
đổi hành vi để thích ứng với mơi trường học tập trực tuyến do dịch bệnh gây
ra hay không, tác giả tiến hành thực hiện nghiên cứu “Ảnh hưởng của Covid
– 19 đến hành vi học tập của học sinh THPT hiện nay (nghiên cứu tại
trường THPT Cẩm Giàng, Hải Dương).”
3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu thực trạng học tập, hành vi học tập của học sinh THPT
trước và sau khi xuất hiện Covid - 19, đề tài nghiên cứu hướng tới làm rõ
những ảnh hưởng của dịch bệnh Covid -19 đến hành vi học tập của học sinh
THPT. Từ đó góp phần cung cấp những thơng tin để nhà trường nắm bắt
được tình trạng học tập của học sinh, đồng thời có những biện pháp nâng cao
chất lượng dạy và học.
4. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của Covid – 19 đến hành vi học tập của học sinh THPT
hiện nay (nghiên cứu tại trường THPT Cẩm Giàng, Hải Dương).
5. Khách thể nghiên cứu

Học sinh trường THPT Cẩm Giàng.
6. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Khuôn viên trường THPT Cẩm Giàng (theo tình hình thực
tế, do yếu tố dịch bệnh, trường hợp nghiên cứu trên nền tảng Google Form).
Thời gian: Nghiên cứu thực hiện từ ngày 22/11/2021 đến 5/01/2022
7. Tổng quan nghiên cứu
7.1 Các nghiên cứu về tác hại của dịch Covid 19
Dịch Covid 19 – luồng dịch bệnh nguy hiểm và làm tổn thất về cả vật
chất lẫn tinh thần, không chỉ khiến cho nền kinh tế nhiều quốc gia rơi vào
khó khăn, loại virus này cịn cướp đi tính mạng của hàng triệu người trên thế
5


giới, bao gia đình ly biệt. Tuy mới xâm nhập kể từ tháng 12 năm 2019,
dịch bệnh Covid – 19 cũng là một vấn đề được đề cập đến ở nhiều nguồn tư
liệu, về những gì chúng gây ra cho xã hội.
Trước những diễn biến phức tvàạp của dịch, ngành kinh tế chịu những
tổn thất nặng nề, để tìm hiểu quá trình điều chỉnh của doanh nghiệp do tác
động của Covid-19 và ảnh hưởng của các biện pháp điều chỉnh liên quan tới
lao động đối với việc làm, sức khỏe và cuộc sống của người lao động, trong
“Đánh giá nhanh tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp người
lao động trong một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả
năng phục hồi (Nghiên cứu đánh giá của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO)”
của tác giả Đỗ Quỳnh Chi thu thâp tại 22 tỉnh/ thành phố tại Việt Nam.
Nghiên cứu đã chỉ ra Covid 19 có tác động đặc biệt nghiêm trọng với NLĐ
nữ, nhất là những phụ nữ là người kiếm tiền chính hoặc duy nhất trong gia
đình. Ngồi ra, sự tàn phá của Covid 19 đã tác động mạnh đến tinh thần của
NLĐ, hầu hết họ có cảm giác lo lắng, bi quan, bất an và tâm trạng thay đổi
bất thường, NLĐ không những bị đe dọa về việc làm mà còn bị chia cắt
khỏi gia đình vì các biện pháp giãn cách xã hội. Khảo sát đã thu thập được

những thông tin khách quan về những ảnh hưởng của dịch Covid 19 đến
NLĐ. Tuy nhiên, những giải pháp mà nghiên cứu đề cập hướng tới chính
quyền và chính sách của doanh nghiệp, ít nói đến sự chủ động trong đối phó
của NLĐ trước thềm đại dịch Covid.
Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam theo yêu cầu và hỗ trợ tài chính bởi UNDP và UN WOMEN tại Việt
Nam đã thực hiện báo cáo “Đánh giá tác động kinh tế xã hội của đại dịch
Covid - 19 đối với hộ gia đình và doanh nghiệp dễ bị tổn thương ở Việt
Nam” với mục đích giúp cung cấp thêm thơng tin cho những quyết sách của
Chính phủ Việt Nam trước tác động và sẵn sàng với đại dịch COVID-19.
Từ việc chọn mẫu có chủ đích, khảo sát cho thấy việc thu nhập của các hộ
6


gia đình dễ bị tổn thương, đặc biệt các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu
số, người di cư và lao động phi chính thức giảm đáng kể. Nhiều gia đình rơi
vào hộ nghèo cùng với mức thu nhập ít ỏi, các đơn vị sản xuất kinh doanh rơi
vào tình trạng tương tự. Phía Chính phủ, gói trợ giúp bảo trợ xã hội chưa
được thực hiện đúng và đủ, còn gặp nhiều phức tạp trong khâu xác minh điều
kiện. Như vậy, báo cáo đã kịp thời cho thấy các mặt tổng thể của nền kinh tế
đối với các gia đình, doanh nghiệp, đóng ghóp vào việc cung cấp thơng tin để
điều chỉnh, sửa đổi bổ sung, hoàn thiện quyết sách của Chính Phủ Việt Nam.
Đại dịch Covid tác động trên diện rộng kể cả ngành du lịch nước ta,
nghiên cứu của tác gải Nguyễn Thị Mơ với “ Tác động của đại dịch Covid
19 đến ngành du lịch Việt Nam” cho thấy ngành du lịch là một trong những
ngành kinh tế chịu ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề do Đại dịch Covid-19. Bộ
phận nhân viên du lịch bị cắt giảm, nhiều hoạt động dịch vụ, du lịch ngừng
hoạt động, lao động hàng không tạm nghỉ việc gây tổn thất lớn đến ngành du
lịch nói riêng, kinh tế Việt Nam nói chung. Nghiên cứu thực hiện khảo sát
với khách thể lần lượt là các công ty du lịch, chất lượng sản phẩm du lịch,

lượng khách du lịch tại Việt Nam, điều này cho thấy độ chính xác khi đánh
giá về những tổn thất về ngành du lịch chưa cao.
Báo cáo “Tác động của COVID-19 đối với kinh tế tốt và chất lượng
cuộc sống của người Việt Nam trong thời kỳ quốc gia xã hội xa cách” với
mục đích tìm hiểu tác động của Covid 19 đối với thu nhập của hộ gia đình,
đến cơng việc của những người tham gia lao động và ảnh hưởng của nó đến
chất lượng cuộc sống của người dân trong thời kỳ giãn cách xã hội. Khảo sát
cho thấy nhiều NLĐ bị giảm giờ làm, mất việc , thu nhập của hộ gia đình bị
giảm so với thời kỳ trước dịch bệnh. Đại dịch không những tác động xấu đến
sức khẻ thể chất mà còn gây tổn hại đến sức khỏe tinh thần người dân.
Nghiên cứu thành công trong mô tả tỷ lệ mất thu nhập hộ gia đình cao cũng
như suy giảm chất lượng cuộc sống của một số lĩnh vực trong dân số nói
7


chung ở Việt Nam do tác động của COVID-19. Song, việc nghiên cứu với số
lượng mẫu nhỏ : 341 người tham gia trong khi số dân Việt Nam hiện tại
đang ở ~ 100 triệu người, tính đại diện khơng cao. Không chỉ vậy, nghiên
cứu chỉ ở trong khoảng thời gian nhất định (nghiên cứu trong thời gian
giãn cách năm 2020), chỉ mang tính chính xác tại thời điểm nghiên cứu.
Trẻ em cũng là một trong những đối tượng chịu nhiều tác động từ
đại dịch Covid 19, báo cáo của UNICEF “Đánh giá nhanh nhu cầu trợ
giúp xã hội của trẻ em và gia đình chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 tại
Việt Nam” nhằm thu thập các bằng chứng quan trọng, phát hiện các yếu tố
dễ bị tổn thương của gia đình và trẻ em do tác động kinh tế và xã hội của đại
dịch cũng như khoảng trống chính sách liên quan đến việc ứng phó của gia
đình và trung tâm bảo trợ xã hội với đại dịch. Những trẻ em thuộc gia đình
nghèo và cận nghèo, trẻ em khuyết tật và những trẻ em ở vùng sâu vùng xa
phải đối mặt với những thách thức đặc thù về chăm sóc sức khỏe, về phúc lợi
và giáo dục ngay cả trước đại dịch. Khảo sát chỉ ra nghị quyết 42 chủ yếu tập

trung vào các thành viên khác trong gia đình và khơng xem xét tồn diện
nhu cầu của trẻ em khiến nhiều em rơi vào tình trạng dễ bị tổn thương. Tuy
nhiên, thực hiện trong khoảng thời gian giãn cách xã hội, bằng chứng, tư liệu
có sẵn cịn khá hạn chế, do đó khảo sát chủ yếu dựa vào các báo cáo đánh
giá nhanh của các tỉnh và phỏng vấn sâu từ xa với số mẫu giới hạn. Vì vậy,
báo cáo chỉ đưa ra bức tranh chung về những tác động ban đầu của đại dịch
lên gia đình và trẻ em.
Những nghiên cứu trên đề cập tới các tác động của Covid 19 đến các
lĩnh vực khác nhau trong xã hội, khơng chỉ cho thấy tồn cảnh xã hội sau
khi có sự xâm nhập của đại dịch Covid 19, còn đặt ra nhiều thách thức,
thúc đẩy sự quan tâm nhanh chóng của Chính phủ về những ảnh hưởng đó.
Tóm lại, ở mỗi nghiên cứu lại có một điểm khác nhau, một lĩnh vực, phương

8


diện khác nhau, song đều góp phần bổ sung những thông tin về đại dịch, làm
phong phú thêm tư liệu về tác hại của đại dịch Covid 19 đến Việt Nam.
7.2 Nghiên cứu về việc học tập của học sinh
Kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế,…, đều phải chịu nhiều tổn thất trước đại
dịch Covid toàn cầu, ngành giáo dục cũng không ngoại lệ. Trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, giáo dục được xem là một yếu tố đặc biệt quan
trọng của một quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Đại dịch
Covid 19 đã có tác động khơng nhỏ tới ngành giáo dục nước ta. Từ các
trường Mầm non cho tới Đại học, quá trình giảng dạy và học tập đều có
nhiều thay đổi, biến chuyển so với mơ hình cũ. Ở nhiều địa phương, việc
dạy và học trên truyền hình, qua Internet chưa thực sự hiệu quả. Đã có khơng
ít nghiên cứu xoay quanh vấn đề học tập trong thời gian đại dịch Covid xuất
hiện:
Trong nghiên cứu “Thực trạng học tập trực tuyến của sinh viên trường

Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội trong đại dịch Covid-19” của
tác giả Phạm Lê Dương, Trần Thùy Linh, nghiên cứu tại Đại học Giáo Dục,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Phần lớn sinh viên nhận thấy học trực tuyến
làm cho người học thấy căng thẳng hơn bởi có quá nhiều deadline, khó tiếp
thu kiến thức khó tương tác trao đổi, giảng dạy không thu hút như trực tiếp.
Nghiên cứu chỉ ra so với phương pháp học tập truyền thống, học trực tuyến
được sinh viên đánh giá tiện lợi tương đương hoặc hiệu quả hơn, song tình
trạng Internet khơng ổn định ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả học tập của sinh
viên. Nghiên cứu thành công trong việc khai thác suy nghĩ của sinh viên về
đánh giá kết quả học tập, tuy nhiên lại chưa tìm hiểu sâu về những thuận
lợi, khó khăn của sinh viên trong quá trình học trực tuyến, do vậy những giải
pháp nghiên cứu đề ra cũng chưa thể đáp ứng, phù hợp với mong muốn hợp
lý của sinh viên, việc nâng cao hiệu quả dạy và học chưa được chú trọng.

9


Đại dịch Covid khiến sinh viên quen với việc tiếp thu kiến thức qua
nhiều phương tiện truyền thông, phải kể đến việc học tập, tìm kiếm thơng tin
qua mạng xã hội Facebook, nghiên cứu của tác giả Vũ Như Quỳnh với “
Nhu cầu sử dụng mạng xã hội Facebook trong học tập của sinh viên Học
viện Báo chí và tuyên truyền hiện nay”. Nghiên cứu chỉ ra hầu hết sinh viên
sử dụng MXH Facebook từ rất sớm, tham gia vào cá nhóm lớp mà đặc biệt là
cá nhóm khơng có giáo viên. Ngồi ra, sinh viên cịn tham gia thảo luận, làm
bài tập, thu thập các thông tin nhờ MXH Facebook. Facebook đã trở thành
một phương tiện không thể thiếu trong sinh viên. Tuy nhiên, nếu tác giả đưa
ra được một số biện pháp nhằm sử dụng MXH Facenook an toàn, hiệu quả,
nhất là sử dụng trong việc học và mơi trường học tập, nghiên cứu sẽ
khách quan và tồn diện hơn.
Việc học tập là trách nhiệm quan trọng nhất đối với học sinh, sinh

viên, nghiên cứu của tác giả Trần Thị Minh Ngọc với đề tài “ Nhu cầu, thái
độ học tập các mơn lý luận chính trị của sinh viên Việt Nam hiện nay” , tìm
hiểu thực trạng nhu cầu, cũng như thái độ học tập và các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng học tập. Nghiên cứu cho thấy nhu cầu, thái độ học
tập các môn lý luận chính trị của sinh viên gắn bó với hứng thú, động cơ,
chịu sự chi phối của các nhân tố chủ uqan và khách quan: Ngồi sức hấp dẫn
của mơn học, nội dung chương trình, chất lượng giảng dạy cịn phụ thuộc
vào động cơ, hứng thú học tập các môn lý luận chính trị của sinh viên.
Nghiên cứu thành cơng trong việc vừa khát quát nhiều vấn đề xoay quanh
việc học tập của sinh viên, vừa đưa ra nhiều giải pháp thiết thực về cả phía
nhà trường và bản thân sinh viên để nâng cao chất lượng dạy và học.
Nghiên cứu “Tìm hiểu tính tích cực học tập của sinh viên dân tộc thiểu
số trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ”, tác giả Phan Văn Cường,
tạp chí Giáo dục số 262, đã khẳng định trong bất kỳ hoạt động nào và đặc
biệt là hoạt động học tập của sinh viên thì sự tích cực, niềm say mê góp
10


phần to lớn so sự thành công trong học tập. Tác giả đã chỉ ra hai nhóm
nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến tính tích cực của sinh
viên dân tộc thiểu số, nguyên nhân quan trọng nhất ở nhóm nguyên nhân chủ
quan là do lười học, ỷ lại, ý chí học tập của sinh viên chưa cao. Với nhóm
ngun nhân khách quan, do khơng có sự quan tâm của gia đình, sự quản lý
của nhà trường, hợp tác giúp đỡ của bạn bè còn hạn chế tác động một phần
đến tính tích cực học tập ở sinh viên dân tộc thiểu số. Nghiên cứu khảo
sát đối tượng là sinh viên dân tộc thiểu số - nhóm sinh viên ít được quan tâm
trong các nghiên cứu về học tập, đóng góp, bổ sung và làm phong phú tài
liệu về sinh viên dân tộc thiểu số.
Cùng tìm hiểu về thái độ học tập, nghiên cứu “ Thái độ học tập môn
giáo dục công dân của học sinh Trung học phổ thơng tại Phan Thiết ( Bình

Thuận)” của hai tác giả Phan Thi Tố Oanh – Trần Thi Ngọc Anh, đã khẳng
địng q trình dạy học mơn Giáo dục cơng dân là quá trình khai thác tiềm
năng và phát triển tâm lực học sinh, phát triển tính tích cực hoạt động nhận
thức và năng lực tự hoàn thiện bản thân ở bậc trung học phổ thông, học tập
là một quá trình nhận thức đặc biệt , trong đó học sinh đóng vai trị chủ thể
của hoạt động này. Do vậy, thái độ của các em học sinh có vai trị quyết
định đến hiệu quả học tập. Các tác giả của nhóm cũng tìm hiểu và chỉ ra
những ngun nhân ảnh hưởng đến thái độ học tập môn giáo dục công dân
của học sinh, đó là: phương pháp và phương tiện giảng dạy của giáo viên,
khả năng nhận thức của các em cịn hạn chế.
Tóm lại
Các cơng trình nghiên là nguồn tài liệu quan trọng và quý báu để
tác giả tham khảo, kế thừa và định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình.
Các kết quả nghiên cứu cung cấp những số liệu tin cậy về thực trạng, nguyên
nhân, mặt tích cực, mặt tiêu cực, các yếu tố ảnh hưởng, phương hướng và giải
pháp cho việc học tập ,..., tất cả những khía cạnh này đều ít nhiều liên quan
11


trực tiếp hoặc gián tiếp đến luận văn. Các kết quả nghiên cứu là những bằng
chứng khoa học quan trọng để trên cơ sở đó, luận văn có thể chứng minh
được tính khoa học, tính chính xác của những luận điểm được đưa ra. Tuy
nhiên, trong các cơng trình khoa học đã được công bố, phần lớn đề cập đến
thực trạng học tập, thái độ học tập với đối tượng là sinh viên, ít có đề tài
nghiên cứu tập trung vào đối tượng là học sinh Trung học phổ thông … Rất
khó khăn để có thể tìm ra nghiên cứu nào nói về ảnh hưởng của dịch Covid
– 19 đến hành vi học tập trong học sinh Trung học phổ thông. Đây cũng là
điểm mới mà nghiên cứu mang đến. Để tìm hiểu chi tiết về những tác
động mạnh mẽ của dịch Covid – 19 đến ngành giáo dục, hay đi sâu hơn
chính là ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19 đến việc học tập của học sinh,

trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn lọc kết quả của các nghiên cứu trước,
tác giả tiến hành nghiên cứu: “Ảnh hưởng của Covid – 19 đến hành vi học
tập của học sinh THPT hiện nay (nghiên cứu tại trường THPT Cẩm
Giàng, Hải Dương)”
8. Giả thuyết nghiên cứu
Môi trường học tập thay đổi do dịch Covid 19 dẫn đến nhiều thay đổi
trong hành vi học tập của học sinh THPT Cẩm Giàng.
-

Học trực tuyến (online) thường xuyên làm cho đa số học sinh

không tập trung nghe giảng như những giờ học ở trên lớp.
-

Dịch Covid ngày một diễn biến phức tạp, việc học trực tuyến khiến

nhiều học sinh không có ý thức làm bài tập về nhà.
-

Những học sinh có gia đình ( bố, mẹ, anh, chị) kèm cặp thường tập

trung nghe giảng và hoàn thành bài tập được giao hơn những học sinh không
được sự quan tâm từ gia đình trong thời gian dịch bệnh.
-

Tương tác giữa gíao viên và học sinh giảm, học sinh ít hăng hái

phát biểu như được học ở trên lớp.
12



9.1 Lý thuyết xã hội hóa
Q trình nhận thức, hình thành ý thức trong cách ứng xử của con
người được gọi là q trình xã hội hóa. Hay, q trình xã hội hóa là q trình
mà trong đó chúng ta có thể tiếp nhận nền văn hóa của xã hội, có thể học
được cách suy nghĩ và ứng xử hợp với đặc trưng của xã hội. Trong quá trình
xã hội hóa, cá nhân thu thập kinh nghiệm xã hội và học các chuẩn mực,
khuôn mẫu một cách tự nhiên mà không chống đối lại được. Cá nhân tham
gia vào xã hội thường dưới dạng thành viên của nhóm (từ nhóm sinh viên,
đồng nghiệp, nhóm nghiên cứu, sáng tác,... đến thành viên của các hội đồn,
các tổ chức chính thống của xã hội). Lúc này, q trình xã hội hóa của cá
nhân được thể hiện thơng qua các chuẩn mực chính thức (của xã hội) hay
khơng chính thức (của nhóm).
Đây là một quá trình phức tạp và chồng chéo hơn nhiều so với hai giai
đoạn trước (gia đình và nhà trường), và thường là một quá trình liên tục và
kéo dài đến suốt đời. Khi đó, cá nhân thực hiện một lúc nhiều vai trị khác
nhau trong các nhóm xã hội và trong tồn xã hội (làm chồng, vợ, viên
chức…).
Thơng qua q trình xã hội hóa, mỗi cá nhân dần dần nhập tâm những
giá trị và chuẩn mực xã hội và dần dần biến chúng thành những giá trị chuẩn
mực của riêng mình. Sự cá nhân hóa các giá trị chân lý, xã hội và quy tắc
ứng xử để biến con người thành chủ thể xã hội này chính là quá trình hình
thành “cái tơi” của con người, hay nói cách khác, “cái tơi” chính là kết
quả của q trình xã hội hóa. Thơng qua q trình xã hội hóa, mỗi cá nhân
dần dần nhập tâm những giá trị và chuẩn mực xã hội và dần dần biến chúng
thành những giá trị chuẩn mực của riêng mình.
Sự cá nhân hóa các giá trị chân lý, xã hội và quy tắc ứng xử để
biến con người thành chủ thể xã hội này chính là q trình hình thành
“cái tơi” của con người, hay nói cách khác, “cái tơi” chính là kết quả
13



của q trình xã hội hóa. Người ta thường đề cập đến “cái tơi” nhằm nói
kinh nghiệm của các cá nhân trong q trình xã hội hóa cũng như những đặc
trưng nhân cách của cá nhân ấy trong quá trình tương tác xã hội.
Theo Talcott Parsons, ứng xử của con người thường dựa trên 4 cấp
độ: cấp hệ thống văn hóa, cấp hệ thống xã hội, cấp độ nhân cách, cấp độ hệ
thống hành vi. Bốn cấp độ này đều thuộc khía cạnh ứng xử của con người, và
qua quá trình xã hội hóa, con người sẽ khơng ngừng học tập, cải thiện mình
để lĩnh hội được những kỳ vọng đối với hành vi và giá trị mà xã hội đó
thừa nhận. Tuy nhiên, sự kiểm sốt của xã hội bằng các chế tài chỉ là từ bên
ngoài, các thành viên trong xã hội ln tự tìm cách điều chỉnh hành vi của
mình để phù hợp với những phản ứng đã được trù liệu trước.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, khi học sinh sống trong mơi trường
gia đình được quản lý chặt chẽ về việc học tập, được sự quan tâm của bố mẹ,
anh chị em cũng như nề nếp trong gia đình có tính tự giác trong học tập, học
sinh cũng sẽ bị ảnh hưởng và có hành động tương tự. Ngồi gia đình, nhà
trường và bạn bè cũng có phần tác động đến nhận thức và hành vi của học
sinh. Học sinh hình thành tính cách, cũng như hành vi học tập theo chuẩn
mực, ngay cả trong thời kỳ dịch bệnh Covid.
9.2 Lý thuyết cấu trúc – chức năng
Quan điểm cấu trúc - chức năng cho rằng, các xã hội có khuynh hướng
được xây dựng nội tại hướng tới sự hài hoà và tự điều chỉnh, tương tự
như những tổ chức hay cơ chế sinh học. Giống như cơ thể con người là
một thể thống nhất mà các bộ phận riêng phải phục vụ nhu cầu của cả hệ
thống, xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và tham gia
tạo nên sự bền vững của tổng thể. Xã hội hoá là quá trình phổ biến những
chuẩn mực, giá trị mà xã hội mong đợi ở mỗi cá nhân để từ đó các cá nhân
có thể duy trì một xã hội trật tự. Như vậy, xã hội hoá được xem như một quá


14


trình “khốc chiếc áo xã hội” lên mỗi cá nhân, hay q trình tái tạo văn
hóa ở các thế hệ.
Theo quan điểm cấu trúc – chức năng, quá trình xã hội hố như vậy là
cần thiết để duy trì sự ổn định xã hội, và xã hội hoá được xem như một chức
năng tồn tại của xã hội, quyết định sự cân bằng của cả hệ thống xã hội.
Mỗi cá thể với tư cách là một thành viên của xã hội cần phải được xã hội
hoá để hiểu một cách đầy đủ về vai trị của mình trong các nhóm xã hội
cụ thể. Yêu cầu cấu trúc của các nhóm xã hội được hiện thực hóa thơng qua
các cá nhân.
Từ quan điểm này, chúng ta cũng có thể thấy rằng trong q trình
xã hội hố, xã hội có vai trị quan trọng hơn và chi phối hành động của cá
nhân. Emile Durkheim cho rằng, xã hội là một thực thể tồn tại ngồi cá nhân
và trên cá nhân, nó ép buộc và hình thành nên chính cuộc sống của mỗi cá
nhân. Trong các tác phẩm của mình, Talcott Parsons nhấn mạnh đến ưu tiên
đối với vấn đề trật tự xã hội. ông cho rằng, trật tự xã hội phải được giữ vững
bằng xã hội hố và q trình kiểm sốt xã hội. Sự ràng buộc và chi phối của
xã hội ảnh hưởng đến cách mà mỗi cá nhân thực hiện q trình xã hội hố
của mình, chính vì lẽ đó, các cá nhân sinh ra trong các môi trường xã hội hoá
khác nhau sẽ chịu những chi phối khác nhau, địi hỏi đóng những vai trị, vị
trí xã hội khác nhau, và kết quả là, họ trải qua các quá trình xã hội hố khác
nhau để đảm bảo những vai trò xã hội tương ứng của họ trong một cấu trúc
xã hội tương ứng. Đó chính là sự tái tạo văn hóa để đảm bảo sự vận hành cấu
trúc xã hội. Hệ thống giáo dục được xem là hệ thống xã hội hoá quan trọng
để các cá nhân thực hiện được những mong đợi của xã hội, đáp ứng việc duy
trì trật tự xã hội hiện hành.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid ngày càng diễn biến phức tạp, những
ca nhiễm tại nhiều khu vực, các trường học phải điều phối, sắp xếp lịch giảng

dạy cho giáo viên cũng như lịch học cho học sinh. Tùy thuộc vào tình hình
15


dịch bệnh, nhà trường THPT Cẩm Giàng phải ứng phó và điều chỉnh. Nếu
dịch ở khu vực được kiểm soát, lãnh đạo Tỉnh Hải Dương cho phép trở lại
học trên lớp bình thường, học sinh sẽ trở lại nề nếp cũ, trường hợp dịch có
chiều hướng xấu, bắt buộc học sinh phải làm theo chỉ đạo thực hiện hình thức
học trực tuyến. Do vậy, ở đây dịch Covid-19 chính là yếu tố chi phối học
sinh ( chi phối hành động cá nhân), có ảnh hưởng lớn đến hành vi học tập
của học sinh.
11.Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo tính khách quan và thu thập đầy đủ thông tin như mục
nghiên cứu đã đề ra, nghiên cứu được thực hiện giữa phương pháp nghiên cứu
định lượng, định tính và phân tích tài liệu:
11.1 Phương pháp định lượng: Sử dụng phương pháp Anket (điều tra
bằng bảng hỏi) nhằm mô tả và làm rõ kết quả khảo sát ảnh hưởng của dịch
Covid 19 đến hành vi học tập của học sinh THPT Cẩm Gìang.
11.2 Phương pháp định tính: Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối
với học sinh. Với phương pháp này kết quả nghiên cứu sẽ được minh chứng
sâu sắc hơn và bổ sung dữ liệu cho phương pháp Anket.
11.3 Phương pháp phân tích tài liệu:
-

Sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, lý thuyết được đăng

tải, công bố trên các phương tiện truyền thơng đại chúng có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu.
-


Việc phân tích tài liệu giúp nhóm nghiên cứu hiểu sâu hơn về vấn

đề nghiên cứu, cụ thể là ảnh hưởng của dịch Covid 19 đến hành vi học tập của
học sinh THPT. Ngồi ra, q trình này cịn giúp nhóm nghiên cứu so sánh
những kết quả phát hiện từ khảo sát với các kết quả được tìm thấy trong tài
liệu.

16


-

Q trình phân tích tài liệu giúp cho nhóm nghiên cứu đưa ra được

kết luận một cách khách quan và có hệ thống những đặc trưng của tài liệu với
mục đích nghiên cứu của đề tài.
10.4 Phương pháp xử lý dữ liệu định lượng
Số liệu thu thập được sau khảo sát được xử lý bằng phần mềm SPSS
20.0
* Chọn mẫu:
a. Phương pháp chọn mẫu định lượng (Bảng hỏi Anket):
- Sử dụng phương pháp chọn mẫu phân cụm/theo chùm:
+ Bước 1: Lập danh sách các lớp chia theo 3 chùm là lớp 10, lớp 11 và
lớp 12.
+ Bước 2: Từ danh sách các lớp mỗi chùm, chọn ngẫu nhiên hệ thống 3
lớp theo bước nhảy k.


Mỗi khối có 30 lớp, lần lượt từng khối: chọn ngẫu nhiên hệ


thống 5 lớp theo bước nhảy k=2. Cứ 2 lớp, chọn lấy một lớp vào mẫu. Chọn
lớp đầu tiên trong khoảng từ 1 – 10 theo danh sách quay vòng.
+ Bước 3: Chọn ngẫu nhiên đơn giản 15 học sinh mỗi lớp. Tổng số
bảng hỏi phát ra là 225 bảng hỏi.
Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực thế, sử dụng bảng hỏi Google
Form để thu thâp thông tin.
b. Phương pháp PVS
10 phỏng vấn sâu, trong đó
+ 6 sinh viên: mỗi khối 02 sinh viên, 1 nam, 1 nữ, đang học tập tại
trường THPT Cẩm Giàng.

17


+ 4 cán bộ CVVC: đang làm việc tại trường THPT Cẩm Giàng. (01
Giáo viên chủ nhiệm, 01 giáo viên bộ mơn, 01 Hiệu trưởng, 01 Bí thư BCH
Đồn trường). Có kinh nghiệm giảng dạy trên 2 năm (Trước và sau khi xuất
hiện Covid – 19)

18


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “ Xã hội học y tế”, Dương Thu Hương, Học viện Báo chí
và tuyên truyền
2. “Đánh giá nhanh tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh
nghiệp người lao động trong một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều
chỉnh và khả năng phục hồi (Nghiên cứu đánh giá của Tổ chức Lao động
Quốc tế ILO)”, Đỗ Quỳnh Chi
3. Báo cáo “Đánh giá tác động kinh tế xã hội của đại dịch Covid - 19

đối với hộ gia đình và doanh nghiệp dễ bị tổn thương ở Việt Nam”, Trung
tâm Phân tích và Dự báo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
4. Luận văn “ Tác động của đại dịch Covid 19 đến ngành du lịch Việt
Nam”, Nguyễn Thị Mơ, Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Báo cáo “Tác động của COVID-19 đối với kinh tế tốt và chất lượng
cuộc sống của người Việt Nam trong thời kỳ quốc gia xã hội xa cách”, tạp chí
Frontiers in Psychology.
6. Báo cáo “Đánh giá nhanh nhu cầu trợ giúp xã hội của trẻ em và
gia đình chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 tại Việt Nam”, UNICEF.
7. Luận văn “Thực trạng học tập trực tuyến của sinh viên trường Đại
học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội trong đại dịch Covid-19”, Phạm Lê
Dương, Trần Thùy Linh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Luận văn “ Nhu cầu sử dụng mạng xã hội Facebook trong học tập
của sinh viên Học viện Báo chí và tuyên truyền hiện nay”, Vũ Như Quỳnh,
Học viện Báo chí và tuyên truyền.
9. Đề tài khoa học “ Nhu cầu, thái độ học tập các mơn lý luận chính
trị của sinh viên Việt Nam hiện nay, Trần Thị Minh Ngọc, Học viện Báo chí
và tuyên truyền.
19


10. Nghiên cứu “ Tìm hiểu tính tích cực học tập của sinh viên dân tộc
thiểu số trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ”, Phan Văn Cường,
tạp chí Giáo dục số 262.
11. Luận văn “ Thái độ học tập môn giáo dục công dân của học sinh
Trung học phổ thơng tại Phan Thiết ( Bình Thuận)”, Phan Thi Tố Oanh –
Trần Thi Ngọc Anh, Đại học quốc gia Hà Nội.
12. Giáo trình “Các lý thuyết xã hội học” (Tr.43, tr.159), Vũ Hào
Quang, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
13.“COVID-19 tác động tiêu cực như thế nào đến giáo dục Việt Nam”,

thông tấn xã Việt Nam.
14. “Bộ giáo dục đào tạo chỉ đạo cấp bách phòng, chống Covid – 19
trong trường học”, Tổng cục thống kê.
15. Báo cáo "Thanh niên và COVID-19: Tác động đến việc làm, giáo
dục, quyền và sức khỏe tinh thần", ILO

20



×