Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

(Skkn 2023) rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 8, 9 thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.37 KB, 20 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BA VÌ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
CHO HỌC SINH LỚP 8, 9 THCS

Môn: Ngữ Văn
Cấp học: THCS
Tên tác giả: Quách Thị Thanh Nhàn
Đơn vị công tác: Trường THCS TTNC BỊ & Đồng cỏ Ba Vì
Chức vụ: Tổ phó tổ KHXH

Năm học: 2020- 2021
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

1


1. Lí do chọn đề tài.
Ngữ văn là một bộ mơn quan trọng đối với cấp THCS nói riêng và mỗi
người học sinh nói chung. Nhưng làm thế nào để học môn Ngữ văn thật tốt, viết
một bài văn hay đó lại là một câu hỏi cần được giải đáp. Văn chương khơi gợi
những tình cảm cao đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con người. Thật đáng buồn nếu con
người Việt Nam hiện đại giỏi về kiến thức tự nhiên, xã hội mà lại thiếu một trái tim
biết yêu cái đẹp và giàu lịng u thương.
Trong mơn Ngữ văn ở trường THCS thì phân mơn Tập làm văn đóng một vai
trò quan trọng. Những năm trước đây, số tiết viết bài lấy điểm hệ số 2 nhiều hơn so
với phân môn Văn bản và Tiếng Việt. Đơn cử trong chương trình Ngữ văn lớp 9 sẽ
có tới 6 bài làm văn trong hai học kì, Ngữ văn 8 là 5 bài, chưa kể bài kiểm tra cuối
kì. Và số điểm trong bài kiểm tra học kì đối với phân mơn Tập làm văn tương đối
cao (chiếm khoảng 50 – 60% số điểm tồn bài). Khơng chỉ quan tâm đến mảng


nghị luận văn học, trong những năm gần đây kiểu văn nghị luận xã hội đã được
chú trọng trong các nhà trường trung học. Bởi văn nghị luận đã trở thành tiêu chí
đánh giá đối với học sinh khơng chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh giỏi, thi
vào lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp THPT rồi đến kì thi Đại học. Sự chuyển biến
này là cơ hội và cũng là thách thức đối với học sinh. Một thời gian khá dài, làm
văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh cảm
thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Rèn luyện văn nghị luận xã hội giúp học
sinh không chỉ hồn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà cịn cung cấp
tri thức vơ cùng phong phú về những vấn đề xã hội.
Thế nhưng thách thức đặt ra đối với học sinh và giáo viên cũng không phải là
nhỏ. Học sinh quá quen với tư duy văn học, kiến thức về xã hội còn hạn chế, tài
liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều, kĩ năng làm bài chưa thuần thục,
dung lượng một bài không được quá dài, chỉ được viết trong một thời gian ngắn về
một vấn đề trong cuộc sống chứ không phải cố định ở một văn bản trong sách giáo
khoa...Tất cả những điều đó tạo nên áp lực, gây khó khăn cho học sinh . Trong q
trình giảng dạy mơn Ngữ văn lớp 8,9, tuy giáo viên đã giúp học sinh nắm các yêu
cầu khi viết đoạn văn, cách làm đoạn văn nghị luận theo từng dạng nhưng việc
nắm được khái niệm đoạn văn, từ ngữ chủ đề, câu chủ đề của đoạn văn và một số
cách trình bày nội dung và kĩ năng viết đoạn của học sinh nói chung, của trường
2


THCS TTNC Bị & ĐC Ba Vì nói riêng cịn nhiều hạn chế. Thực trạng ấy làm cho
nhiều giáo viên phải trăn trở, suy nghĩ.
Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài nghị luận ở
trường THCS hiện nay, để tạo tiền đề cho việc học và làm văn của các em ở các
bậc học tiếp theo, tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn kĩ năng viết đoạn
văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 8, 9 THCS”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp
một vài kinh nghiệm, một số phương pháp viết đoạn văn nghị luận xã hội theo từng
dạng cụ thể qua đó giúp cho học sinh lớp 8, 9 củng cố kiến thức, kĩ năng, nắm

vững hơn phương pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài
thi, bài kiểm tra và đặc biệt thi vào lớp 10 THPT và thi học sinh giỏi môn Ngữ văn.
2. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
2.1. Thời gian nghiên cứu:
Trong 2 năm: Năm học 2019- 2020 và năm học 2020- 2021.
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
“Rèn phương pháp viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 8, 9”
2.3. Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh khối 8,9 trường THCS TTNC Bị & ĐC Ba Vì, cụ thể là:
-

Học sinh lớp 9B năm học 2019-2020

Học sinh lớp 8A,B năm học 2020-2021

3. Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như
sau: Vào đầu năm học 2019-2020 và 2020- 2021

Lớp

9B


số

44

Số HS không
Số HS biết cách Số HS làm bài tốt
biết cách làm bài làm bài ở mức

(8-9 điểm)
trung bình-khá
(1->4điểm)
(5->7điểm)
SL

%

SL

%

SL

%

11

25

29

65,9

4

9,1

3



8A,
B

77

18

23,3

50

65

9

11,7

Kết quả trên đây cho thấy nguyên nhân mấu chốt là học sinh phần nhiều chưa
biết làm bài văn nghị luận tốt.Vậy nên việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học
sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội là rất cần thiết.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Cở sở lí luận.
Như chúng ta đã biết trong cấu trúc đề thi cấp huyện, cấp tỉnh, hay thi vào 10
THPT mơn Ngữ văn những năm gần đây ngồi kiến thức về văn học thì đều có câu
hỏi, u cầu học sinh vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết đoạn văn nghị
luận ngắn khoảng 300 từ (hoặc một trang giấy thi). Dạng nghị luận về vấn đề xã
hội, có hai dạng bài cụ thể là:
+ Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
+ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.

Học sinh phải biết bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi
cho hiệu quả. Nếu ở đoạn văn nghị luận văn học, tùy theo yêu cầu của để mà học
sinh trình bày được hiểu biết của mình về tác giả, hồn cảnh ra đời của tác phẩm, ý
nghĩa nhan đề, giá trị nội dung và nghệ thuật…của tác phẩm thì ở kiểu bài nghị
luận xã hội, học sinh thơng qua những trải nghiệm thực tế, trình bày những hiểu
biết, ý kiến, quan niệm, cách đánh giá, thái độ...của mình về các vấn đề xã hội, từ
đó rút ra được bài học (nhận thức và hành động) cho bản thân. Để làm tốt khâu
này, học sinh không chỉ biết vận dụng những thao tác cơ bản của bài văn nghị luận
(như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ...) mà cịn phải
biết trang bị cho mình kiến thức về đời sống xã hội .
2. Thực trạng vấn đề.
Trong thực tế, việc viết đoạn văn của học sinh còn chưa tốt, nhất là văn nghị luận
xã hội. Sở dĩ chất lượng còn chưa đạt yêu cầu như vậy, nguyên nhân do đâu?
2.1. Về học sinh.
4


Trong những năm gần đây học sinh không hứng thú học mơn Ngữ văn. Có
lẽ ngồi ngun nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn khó, lại
mất nhiều thời gian, “cơng thức” làm văn cho các em lại khơng hình thành cụ thể.
Các em khơng phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Kĩ năng
tạo lập văn bản của học sinh ở trường THCS TTNC Bò & Đồng Cỏ còn yếu nhiều
và rất hiếm có những bài nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập
luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm, luận cứ... Bài viết của
các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với
nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ đề yêu cầu nghị luận về tư tưởng đạo lí lại
làm sang nghị luận về hiện tượng sự việc đời sống. Mặt khác đối với bài nghị luận
xã hội dung lượng quy định (chỉ khoảng 200 từ hoặc một trang giấy thi) nhiều học
sinh vẫn chưa căn được, cứ thế phóng bút viết thậm chí hết nhiều thời gian mà bài
lại khơng cơ đọng, súc tích. Một điều nữa mà ta dễ dàng nhận thấy khi dạy kiểu bài

này các em đều quan niệm là bài văn “khô khan” nên bài viết chưa có sức hút,
chưa lay động được tâm hồn người đọc. Ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp
hẫn là ở chất lượng. Mà chất lượng một bài văn phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức
và các yếu tố có tính kĩ thuật như: cách lập luận, dùng từ, câu...mà ở đây các em
còn chưa có kĩ năng vận dụng( Như kết quả khảo sát đã nói ở trên).
2.2. Về giáo viên:
Mặc dù hầu hết giáo viên đã nắm chắc được cấu trúc của các đề thi học sinh
giỏi và thi vào lớp 10, một phần không thể thiếu là câu hỏi liên quan đến kiểu bài
nghị luận xã hội, thế nhưng một số giáo viên vẫn cho rằng câu hỏi chỉ chiếm tỉ lệ
điểm trong bài khoảng 30% số điểm nên chưa tập trung nhiều để hướng dẫn học
sinh, khiến kiến thức cơ bản học sinh còn mơ hồ. Tư tưởng học sinh làm bài lại chỉ
chăm chú đến phần nghị luận văn học mà không nghĩ rằng đây là phần dễ đạt điểm
tối đa. Hơn nữa lâu nay có khá nhiều học sinh và ngay cả thầy cô cứ nghĩ rằng văn
hay là câu chữ phải “bay bỗng”, phải “lung linh”, nghĩa là dùng cho nhiều phép tu
từ, nhiều từ “sang”, nhiều thuật ngữ mà quên rằng văn hay là sự chân thực, sự giản
dị, tức là nói những điều mình nghĩ và nói bằng ngơn ngữ bình thường, khơng cao
giọng.
Vậy nên việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học sinh kĩ năng làm bài văn
nghị luận xã hội là rất cần thiết.
3. Giải pháp và biện pháp thực hiện
5


Để học sinh có kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội tốt, tôi thực hiện các bước
sau:
3.1. Củng cố kiến thức về đoạn văn.
3.1.1 Khái niệm:
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu
dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối
hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.

– Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ
được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần nhằm duy trì đối tượng biểu
đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành
phần chính và đúng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm
vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn.
3.1.2 Các mô hình kết cấu đoạn văn
Có rất nhiều cách trình bày đoạn văn, tuy nhiên với học sinh lớp 8,9, giáo
viên chỉ cần cho học sinh nắm vững các cách trình bày đoạn văn sau đây:
– Đoạn văn diễn dịch là đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái
quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể ý của câu chủ đề, bổ sung,
làm rõ cho câu chủ đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải
thích, chứng minh, phân tích, bình luận, có thể kèm theo nhận xét, đánh giá và bộc
lộ cảm nhận của người viết.
– Đoạn văn qui nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý
chi tiết đến ý khái quát, từ ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm. Theo cách
trình bày này, câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn. Ở vị trí này, câu chủ đề khơng
làm nhiệm vụ định hướng nội dung triển khai cho toàn đoạn mà lại làm nhiệm vụ
khép lại nội dung cho đoạn ấy. Các câu trên được trình bày bằng các thao tác lập
luận, minh họa, cảm nhận và rút ra nhận xét đánh giá chung.
– Đoạn văn tổng – phân – hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với qui nạp. Câu mở
đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển khai cụ thể ý khái quát.
Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu
triển khai ý được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích,
bình luận, nhận xét, đánh giá hoặc nêu suy nghĩ… để từ đó đề xuất nhận định đối
với chủ đề, tổng hợp, khẳng định, nâng cao vấn đề.

6


– Đoạn văn song hành là đoạn văn có các câu triển khai nội dung song song nhau,

không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn nêu một
khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đoạn văn.
– Đoạn văn móc xích là đoạn văn mà các ý gối đầu, đan xen nhau và thể hiện cụ
thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ đã có ở câu trước vào câu sau. Đoạn móc xích
có thể có hoặc khơng có câu chủ đề.
– Đoạn văn so sánh: có sự đối chiếu để thấy cái giống nhau hoặc khác nhau giữa
các đối tượng, các vấn đề…để từ đó thấy được chân lí của luận điểm hoặc làm nổi
bật luận điểm trong đoạn văn. Có hai kiểu so sánh khi viết đoạn văn là: so sánh
tương đồng và so sánh tương phản.
+ So sánh tương đồng: đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng.
+ So sánh tương phản: đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung, ý
tưởng.
– Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy, bắc cầu là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định,
dẫn một câu chuyện hoặc một đoạn thơ văn, những dẫn chứng gần giống hoặc trái
với ý tưởng tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra.
3.1.3 Liên kết đoạn văn:
Các câu trong đoạn văn cũng như các đoạn trong bài phải có sự liên kết chặt
chẽ với nhau về nội dung cũng như hình thức.
– Về nội dung:
+ Các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục vụ chủ
đề chung của đoạn văn( Liên kết chủ đề).
+ Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo trình tự hợp lí( Liên kết lơgic).
– Về hình thức: Các câu, các đoạn văn phải được liên kết với nhau bằng một số
biện pháp chính như:
+ Phép lặp: Lặp lại ở đầu câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước.
+ Phép thế: Sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu
trước.
7



+ Phép nối: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước.
+ Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ
đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã cho ở câu trước.
3.2. Định hướng cho học sinh
Trước hết giáo viên cần phải dập tắt trong các em quan niệm: Văn nghị luận là
loại văn “khơ khan” là chưa hợp lí, vì ở bất cứ thể văn nào, khơ khan hay hấp dẫn
là ở chất lượng. Chất lượng một bài văn nghị luận phụ thuộc vào cảm hứng, kiến
thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: cách lập luận, dùng từ, câu....Cảm hứng là
yếu tố đầu tiên.
Sau là phải có kiến thức: Việc hiểu biết về vấn đề cần bàn càng phong phú thì
càng dễ cho mình “tung hồnh” trong bài viết. Kiến thức phong phú cũng có nghĩa
là mình nắm được lẽ phải, giúp cho mình đưa ra những luận điểm chắc chắn, giàu
sức thuyết phục, không thể bác bỏ như cố nhân đã tổng kết: “Nói phải củ cải cũng
nghe”. Trái lại nếu kiến thức nghèo nàn hay sáo rỗng thì bài văn nhạt nhẽo, nặng
nề, hơ khẩu hiệu. Cần nhớ rằng văn nghị luận là làm sao để người khác “Tâm phục
khẩu phục” chứ không phải áp đặt cách hiểu của mình cho người khác.
Khi kiến thức đã phong phú thì các yếu tố kĩ thuật của văn bản, về cơ bản sẽ
biết sử dụng một cách tự nhiên. Bởi vì một triết gia đã nói “Cái gì được quan niệm
rõ ràng thì diễn đạt sẽ mạch lạc”. Việc trau dồi và cẩn trọng trong công tác kĩ thuật
thì khơng bao giờ thừa. Ln ln phải cân nhắc, sắp xếp cái nào trước, cái nào
sau, chọn đi chọn lại từ nào cho chuẩn xác, sinh động.
3.3 Củng cố , khắc sâu kiến thức lí thuyết và hướng dẫn cách viết đoạn văn
nghị luận xã hội .
3.3.1 Các dạng đoạn văn nghị luận xã hội
Về kiểu bài nghị luận xã hội, Bộ giáo dục và Đào tạo đã quy định trong cấu trúc
đề thi năm 2010. Theo đó, học sinh phải vận dụng kiến thức xã hội và đời sống viết
đoạn văn nghị luận xã hội (khoảng 200 từ). Vì vậy muốn làm tốt kiểu bài này trước
hết giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm chắc phần lí thuyết thì mới
vận dụng tốt trong khi làm bài. Kiểu bài này có hai dạng bài cụ thể là:
+ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.

8


+ Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí.
Học sinh cần bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài cho hiệu
quả.
3.3.2 Các bước viết đoạn văn nghị luận xã hội
Bước 1: Xác định dạng đề trong cách viết đoạn văn nghị luận xã hội
Trước khi làm bài, học sinh phải đọc kĩ đề để biết đề yêu cầu bàn về vấn đề
gì? Nhất là xác định vấn đề thuộc tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống?
-Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí: thường đưa ra những yêu cầu bàn luận về:
câu nói, quan điểm sống hay phẩm chất, đức tính của con người.Ví dụ :
+ Ra đề thơng qua một câu nói: Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kì quan,
nhưng kì quan đẹp nhất là trái tim người mẹ”. Ý kiến của anh/chị về câu nói trên.
+ Đề văn về phẩm chất, đức tính: Suy nghĩ của anh/chị về đức tính trung thực.
-Dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống là những vấn đề, sự việc, hiện tượng có
đã xảy ra và đang xảy ra trong cuộc sống của con người.
Một số đề ví dụ về hiện tượng đời sống như:
+ Trình bày suy nghĩ về vấn đề sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện
nay.
+Anh/chị có suy nghĩ gì về trách nhiệm của tuổi trẻ học đường để góp phần
giảm thiểu tai nạn giao thơng?
Mỗi một vấn đề được đưa ra có thể là đạo lí, hiện tượng tích cực, nhưng cũng
có thể là hiện tượng tiêu cực, tư tưởng phản nhân văn. Trước mỗi vấn đề người viết
cũng cần xác định đúng tính chất, đặc điểm của nó để có thể thể hiện quan điểm
đồng tình hay khơng đồng tình một cách rõ ràng. Ví dụ một số vấn đề tích cực hay
tiêu cực có thể được đưa ra như:
- Tư tưởng, đạo lí:
+ Đạo lí, tư tưởng tích cực: lịng dũng cảm, khoan dung, ý chí, nghị lực.
+ Tư tưởng phản nhân văn: thù hận, ích kỷ, đố kỵ, dối trá.

+ Tư tưởng có tính hai mặt: sự chờ đợi.
9


- Hiện tượng đời sống:
+ Tích cực: tiếp sức mùa thi, hiến máu nhân đạo.
+ Tiêu cực: bạo lực học đường, ơ nhiễm mơi trường, tai nạn giao thơng.
+ Có cả tích cực và tiêu cực: sử dụng mạng xã hội, thiết bị điện tử.
Bước 2: Xác định yêu cầu trọng tâm của đề để viết đoạn văn nghị luận
Như đã đề cập trong phần trên, khi đưa ra yêu cầu viết đoạn văn thì đề được
ra sẽ khơng làm khó người viết trình bày hết những nội dung cần viết như một bài
văn nghị luận. Mỗi đề thi thường sẽ có một yêu cầu cụ thể về việc người viết cần
tập trung vào phần viết nào của vấn đề nghị luận. Chẳng hạn, trong đề thi Ngữ văn
trong kì thi THCS của SGD Hà Nội năm 2019 có yêu cầu câu viết đoạn văn như
sau: Từ nội dung đoạn trích trên, em hãy trình bày suy nghĩ ( khoảng 2/3 trang
giấy thi) về ý kiến: Phải chăng hoàn cảnh khó khăn cũng là cơ hội để mỗi người
khám phá khả năng của chính mình?
Như vậy, trong đề văn trên, yêu cầu trọng tâm là hiểu vai trò, ý nghĩa của hồn
cảnh khó khăn đối với việc khám phá khả năng của bản thân mỗi người, tức là
trong bài viết, người viết cần xoáy sâu vào việc bày tỏ quan điểm cá nhân ( đồng ý/
không đồng ý) tác dụng, giá trị mà đức tính ấy mang lại cho cuộc sống con người.
Như vậy, với bất kì một đề thi nào được ra, để xác định đúng yêu cầu đề, người
viết cần tìm được từ chìa khóa xuất hiện trong đề. Chẳng hạn như:
+ Giải thích, nêu nguyên nhân : tại sao, do đâu, trình bày nguyên nhân, trình bày
cách hiểu, giải thích…
+ Nêu ý kiến cá nhân: đồng tình hay khơng đồng tình, nêu suy nghĩ cá nhân, trình
bày ý kiến bản thân…
+ Bàn nội dung: nêu ý nghĩa, nêu giá trị…
+ Đưa giải pháp: làm thế nào, làm sao, điều cần làm…
Mỗi từ chìa khóa sẽ là một gợi ý để học sinh có định hướng đúng và viết tốt phần

đoạn văn.
Bước 3: Tìm ý cho đoạn văn trong cách viết đoạn văn nghị luận xã hội
Sau khi xác định được trọng tâm cần viết trong đoạn, chúng ta có thể lên ý
tưởng về những điều cần viết xoay quanh vấn đề cần viết. Bước này cần được thực
10


hiện trên giấy nháp để khi người viết không bị quên và bỏ sót những điều đã suy
nghĩ trong đầu. Đồng thời, khi xác định những ý cần viết, người viết cũng nên
dành chút thời gian để suy nghĩ về những dẫn chứng để minh họa cho phần lí lẽ
của mình. Cách đơn giản để có thể tìm được ý cho phần viết là thử tự đặt và trả lời
các câu hỏi, chẳng hạn như:
+ Vấn đề đặt ra được hiểu như thế nào?.
+ Tại sao lại cần có/ khơng nên có có vấn đề đó trong cuộc sống?.
+ Vấn đề đặt ra cần được đồng tình/ phản đối hay có chỗ đồng tình, có chỗ phản
đối?.
+ Vấn đề có những biểu hiện như thế nào trong cuộc sống?.
+Cần phải làm những gì để ngăn chặn/ phát huy vấn đề trên?.
Bước 4: Viết các phần cụ thể của đoạn văn nghị luận xã hội
- Tạo mở đoạn trong cách viết đoạn văn nghị luận
Với phần mở đoạn, ta nên trực tiếp đi vào vấn đề thay vì dẫn dắt dài dòng, lan
man. Học sinh nên mở đoạn trong phạm vi 1 câu vì giới hạn viết chỉ là một đoạn
văn ngắn. Người viết có thể trích dẫn câu nói trong đề rồi dẫn dắt ngắn gọn và đi
thẳng vào vấn đề nghị luận.
- Tạo thân đoạn trong cách viết đoạn văn nghị luận
Trong phần này, học sinh cần xác định đúng u cầu đề thơng qua các từ
khóa. Từ việc xác định đúng từ khóa, người viết chọn phần viết phù hợp để triển
khai cụ thể yêu cầu đó. Đó có thể là phần giải thích, nêu ngun nhân, cũng có thể
là phần viết về ý nghĩa hay trình bày những giải pháp.
Trong khi triển khai, để làm rõ các ý trình bày trong bài viết cần phải có cơ

sở để giúp người đọc, người nghe thuyết phục. Lúc này, học sinh cần đưa ra các
dẫn chứng từ thực tế. Tránh trường hợp kể dẫn chứng quá dài dòng, học sinh nên
nêu ngắn gọn theo hình thức tóm tắt dẫn chứng. Nên chọn ít nhất 1 – 2 dẫn chứng
để minh chứng cho điều đã viết. Khi đưa ra dẫn chứng là người viết đang thể hiện
được việc “nói có sách, mách có chứng”, có như vậy mới có thể tạo được lòng tin
cho người đọc về phần viết của mình.
Sau đây là những gợi ý cần trình bày cho từng dạng đề:
Dạng đề giải thích, nêu nguyên nhân:
+ Giải thích ngắn gọn vấn đề được yêu cầu nghị luận.
+ Nêu nguyên nhân trên hai cơ sở: Khách quan và chủ quan.
11


+ Nêu 1 – 2 dẫn chứng chứng minh.
Dạng đề nêu biểu hiện, thực trạng:
+ Trình bày biểu hiện của vấn đề trên phương diện từ nhỏ đến lớn (cá nhân, tập
thể, cộng đồng)
+ Nêu 1 – 2 dẫn chứng về biểu hiện đó trong cuộc sống.
Dạng nêu ý kiến cá nhân:
+ Trả lời rõ ràng: đồng tình hay khơng đồng tình, đồng tình một phần hay phản
đối.
+ Lí giải vì sao đưa ra ý kiến trên. Ý kiến cá nhân được khuyến khích trình bày
nhưng phải dựa trên cơ sở của chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
+ Nêu 1 – 2 dẫn chứng để làm sáng tỏ ý kiến.
Dạng đề nêu ý nghĩa, giá trị vấn đề:
+ Nêu những ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân, tập thể, xã hội.
+ Nêu ý nghĩa của vấn đề theo trục thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
+ Nêu 1 – 2 dẫn chứng để tăng tính thuyết phục.
Dạng đề nêu giải pháp:
+ Đề xuất giải pháp: với cộng đồng, xã hội và mỗi cá nhân.

+ Nêu 1 – 2 dẫn chứng.
- Tạo kết đoạn trong cách viết đoạn văn nghị luận
Viết trong một câu văn và trong câu văn nên chuyển tải thông điệp để tạo
điểm nhấn. Câu kết đoạn cũng có thể trích lại một lời phát biểu, một câu nói của
người nổi tiếng để mang lại ấn tượng và hiệu quả.
* Cấu trúc một số dạng đề cụ thể:

12


13


* Ví dụ về các bước làm một đề cụ thể:
Ví dụ 1:
“Ta đi trọn kiếp con người
Cũng khơng đi hết mấy lời mẹ ru”
(Nguyễn Duy).
Từ ý thơ trên, hãy viết một đoạn văn nghị luận xã hội (khoảng 200 từ) trình bày
suy nghĩ của em về tấm lịng người mẹ.
Với đề này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập dàn ý theo gợi ý sau:
- Giải thích ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Duy : “Lời mẹ ru” biểu tượng cho tình
u thương vơ bờ mà mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “khơng đi
hết”. Khẳng định tình mẹ là vơ cùng thiêng liêng cao cả và bất tử, là bao la vô tận
không sao có thể đền đáp được...Từ đó khẳng định: Tấm lòng của mẹ thật bao la,
lớn lao.
- Biểu hiện, bàn về tấm lòng của mẹ:

14



+ Ban cho con hình hài, muốn con khơn lớn, khoẻ mạnh về vóc dáng, bằng
sự chăm sóc ân cần, chu đáo.
+ Là người dạy con từ những kĩ năng sống đến đạo lí làm người.
+ Là vị quan tồ đầy lương tâm, trách nhiệm, chỉ bảo phân tích xác đáng
những sai trái, lỗi lầm.
+ Là bến đỗ bình yên đón đợi con sau những dơng bão cuộc đời.
+ Là bệ phóng xây dựng niềm tin, khát vọng...để con bay cao, bay xa (lấy
dẫn chứng).
-Ý nghĩa :Tình yêu và đức hy sinh của mẹ là sức mạnh để giúp con vượt lên khó
khăn trong cuộc sống, giúp con sống tốt hơn.
- Tuy nhiên trong thực tế, có những người mẹ thể hiện tình thương con khơng
đúng cách (nng chiều, giấu đi cái xấu, lỗi lầm...), hay có những người mẹ vô
trách nhiệm (bỏ rơi, đánh đập con...), những người mẹ ấy đáng bị phê phán.
- Bài học về nhận thức và hành động :
Liên hệ bản thân, cảm nhận sâu sắc tấm lịng người mẹ với con cái, tình cảm của
con với cha mẹ.
Ví dụ 2: “Giữa một vùng sỏi đá khơ cằn, có những lồi cây vẫn mọc lên và nở
những chùm hoa thật đẹp”. Viết một đoạn văn nghị luận (Khoảng 2/3 trang giấy
thi) nêu suy nghĩ của em được gợi ra từ hiện tượng trên.
Với dạng bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập theo ý.
- Giải thích hiện tượng: là hiện tượng có thể bắt gặp trong thiên nhiên, gợi tả sức
chịu đựng, sức sống kì diệu của những lồi cây “vẫn mọc lên và nở những chùm
hoa thật đẹp” ngay trong “một vùng sỏi đá khơ cằn” (có thể đi từ việc giải thích từ
ngữ: Vùng sỏi đá khơ cằn, chỉ sự khắc nghiệt của mơi trường sống; lồi cây vẫn
mọc lên và nở những chùm thật đẹp; sự thích nghi, sức chịu đựng, sức sống, vẻ
đẹp).
- Trình bày suy nghĩ:
Hiện tượng thiên nhiên nói trên gợi suy nghĩ về vẻ đẹp của con người trong bất
cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào vẫn thể hiện nghị lực phi thường, sức chịu đựng và

sức sống kì diệu nhất. Đối với họ nhiều khi sự gian khổ, khắc nghiệt của hồn cảnh
lại chính là môi trường để tôi luyện, giúp họ vững vàng hơn trong cuộc sống.
“Những chùm hoa thật đẹp” “Những chùm hoa trên đá” (Thơ: Chế Lan Viên).
15


Thành cơng đạt dược thật có giá trị vì nó là kết quả của những cố gắng phi thường,
sự vươn lên không mệt mỏi. Vẻ đẹp của những cống hiến, những thành công mà họ
dâng hiến cho cuộc đời lại càng có ý nghĩa hơn, càng “rực rỡ” hơn...
- Liên hệ thực tế : Khơng có ai ở Việt Nam khơng biết đến thầy Nguyễn Ngọc Kí
đã bị liệt cả hai tay, nhưng anh đã kiên trì luyện tập biến đơi bàn chân thành đơi
bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ...
- Nêu tác dụng, ảnh hưởng, bài học rút ra từ hiện tượng :
Những con người với vẻ đẹp của ý chí, nghị lực ln là niềm tự hào, ngưỡng mộ
của chúng ta, động viên và thậm chí cảnh tỉnh những ai chưa biết chấp nhận khó
khăn, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống.
3.4. Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội.
Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị
luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người
thật, việc thật. Đây là một cơng việc khá khó khăn đối với học sinh. Để giúp các
em biết cách tìm dẫn chứng một cách tốt nhất, xin chia sẻ một số kinh nghiệm
trong việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề văn nghị luận xã hội.
- Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại
chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác về
một sự việc nào đó.
- Sau một thời gian tích luỹ cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất
cho một số dẫn chứng tiêu biểu.
- Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau. Quan trọng
là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ hay BillGates
vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của con người, hoặc

vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay về niềm đam mê, bài
học về sự thành cơng, tấm gương về một lịng nhân ái...).
3.5 Giáo viên nên có những đoạn văn mẫu để đọc cho học sinh tham khảo.
Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên đọc
một số bài văn mẫu từ đó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức, cách
viết để vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu được
chọn phải thực sự xúc động để lay động được tâm hồn đồng thời khơi gợi được
chất văn trong các em.
16


4. Kết quả, ứng dụng
Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học 20192020, năm học 2020-2021 để hướng dẫn cho học sinh làm bài Nghị luận xã hội.
Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài văn nghị luận
xã hội của học sinh mà lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt. Giờ đây các
em đã làm bài đúng hướng, bám sát vào thực tế đời sống cũng biết rút ra những bài
học cho bản thân mình. Các em đã hiểu bản chất của kiểu văn này, khơng thấy khó
và viết văn không bị khô khan như trước nữa. Biết lấy dẫn chứng từ thực tế cuộc
sống đời thường để đưa vào bài ; nhiều bài đã có sức hút và lay động được người
đọc. Đặc biệt các em đã biết phân biệt hai kiểu bài nghị luận xã hội: nghị luận về
một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. So với các
bài khảo sát trước, chất lượng bài khảo sát sau đã có bước chuyển biến đáng kể, cụ
thể giảm tối đa học sinh yếu kém.

Lớp


số

Điểm

TB- Khá

Điểm
dưới TB

Điểm giỏi
9-10

SL

%

SL

%

SL

%

9B

44

2

4,5

28


63,6

14

31,9

8A,B

77

7

9,1

45

58,4

25

32,5

Tỉ lệ trên TB HSG
thi vào 10
huyện

84,4 %

1 KK
1 Ba


Tuy kết quả như vậy chưa phải là cao nhưng đó cũng là một sự thay đổi chất
lượng bài làm của các em học sinh lớp 8( học kì II), và học sinh lớp 9.
C. KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Để rèn luyện học sinh làm bài nghị luận xã hội tốt, tôi đã mạnh dạn đưa ra
những phương pháp cụ thể như trên, với mong muốn giúp các em có một cái nhìn
và cách sống tồn diện hơn. Khơng chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà
các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc
làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương, yêu con người, yêu cuộc sống; biết
vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn; có tinh thần tự học để thành cơng trong cuộc
sống và biết cách bảo vệ môi trường sống xung quanh... Phù hợp chung với xu thế
17


xã hội và cũng là mục tiêu mà Đảng đã đề cập ở Nghị Quyết TW8 khoá XI : “Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi,
cấp thiết từ quan điểm tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ
chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực hiện...đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành
học...” Trong đó phải thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa
học để làm cho văn học không xa rời thực tiễn cuộc sống. Theo xu hướng đổi mới
chung của giáo dục để áp dụng vào từng môn học cụ thể, bản thân tôi nhận thấy
kiểu bài nghị luận xã hội trong môn Ngữ văn là một vấn đề đáng được quan tâm.
Vì nghị luận xã hội là một dạng văn cịn mới và khó với học sinh THCS. Mặc dù
tiết dạy cũng như số điểm trong bài thi không nhiều nhưng cũng là phần quan
trọng, giúp học sinh có những hiểu biết về đời sống để vận dụng thi vào THPT rồi
sau này thi tốt nghiệp, thi vào Đại học đều có kiểu nghị luận này. Theo tơi đó là
cách tốt nhất để đánh giá lực học của học sinh, buộc các em phải có cái nhìn khác
về văn, về cuộc sống. Ngoài kiến thức về văn học, cách làm bài nghị luận văn học
còn phải biết quan tâm, đến đời sống xung quanh, biết nhìn nhận sự việc, hiện

tượng đời sống đến những đạo lí làm người.
Kinh nghiệm mà tơi đã trình bày là rút ra từ thực tế hướng dẫn học sinh qua
nhiều năm giảng dạy và thu được kết quả khả quan trong các kì thi. Hy vọng nó sẽ
gỡ bí cho một số học sinh hiện nay và gợi thêm một cách dạy cho giáo viên.
2. Những kiến nghị
- Số lượng sách tham khảo cịn ít, thư viện các nhà trường chủ yếu là sách giáo
khoa. Nên chăng để tạo thói quen đọc sách cho học sinh thì mối nhà trường cần
trang bị tài liệu phong phú hơn.
- Nên tổ chức các buổi nói chuyện ngoại khóa theo chủ đề, đặc biệt là chủ đề liên
quan đến các vấn đề nóng của xã hội để học sinh vừa có kiến thức thực tế vận dụng
vào bài viết lại vừa thơng qua đó giáo dục kĩ năng sống cho các em.
Trên đây là những kinh nghiệm tơi đã rút ra được trong q trình thực hiện
đề tài. Mong các đồng nghiệp nhận xét, góp ý để đề tài thực sự có hiệu quả trong
hoạt động dạy và học bộ môn Ngữ văn và tôi sẽ vững vàng hơn trong sự nghiệp
giáo dục.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vân Hòa ngày 20 tháng 05 năm 2021
18


Tác giả

Quách Thị Thanh Nhàn

19


MỤC LỤC.
Số thứ tự
A.


Nội Dung
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
2. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên
cứu
3. Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề
tài.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

B.

1. Cơ sở lí luận:
2. Thực trạng vấn đề:
2.1.Về học sinh
2.2 Về giáo viên
3. Giải pháp và biện pháp thực hiện
3.1.1 Củng cố kiến thức đoạn văn
3.1.2 các mơ hình kết cấu đoạn văn
3.2. Định hướng học sinh
3.3.Củng cố, khắc sâu kiến thức và hướng
dẫn cách viết đoạn văn nghị luận xã hội.
3.4. Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng.
3.5. GV nên có những đoạn văn mẫu cho học
sinh thám khảo
4. Kết quả, ứng dụng

C.

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ


20

Trang



×