Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Khóa luận tốt nghiệp yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 184 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ TỐN

U CẦU PHẢN TỐ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

KHÓA LUẬ N CHUYÊN NGÀNH LUẬ T DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬ N TỐT NGHIỆ P CỬ NHÂN LUẬT

YÊU CẦU PHẢN TỐ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ THỊ TỐN
Khóa: 91-DS43.4

MSSV: 1853801012258

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. PHẠM THỊ THUÝ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là món quà, một dấu mốc đánh dấu sự trưởng thành của


bản thân em sau quá trình học tập tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Điều này khiến bản thân em vơ cùng vinh dự và cảm thấy ý nghĩa. Khóa luận tốt
nghiệp của em được hồn thành khơng chỉ dựa vào q trình nghiên cứu của bản thân
mà cịn có sự đóng góp rất lớn của mọi người xung quanh.
Đầu tiên, em xinh gửi lời cảm ơn chân thành đến Giảng viên hướng dẫn, Thạc
sĩ Phạm Thị Thúy – Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh. Bằng kiến thức và kinh nghiệm tích lũy trong q trình giảng dạy, Cơ
đã tận tình hướng dẫn, đóng góp ý kiến để em hồn thiện nội dung một cách tốt nhất.
Bên cạnh đó, em xin bày tỏ lịng biết ơn đến q Thầy, Cơ đã giảng dạy em
trong suốt chặng đường bốn năm đại học qua. Các Thầy, Cô đã chia sẻ cho chúng em
rất nhiều về kiến thức chuyên môn, kỹ năng sống và làm việc để chúng em có thể
bước vào đời một cách tự tin nhất.
Cuối cùng, em kính chúc q Thầy, Cơ thật nhiều sức khỏe, gặt hái được
nhiều thành công trong sự nghiệp giảng dạy của mình.


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Phạm Thị Thúy đảm bảo tính trung thực
và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn
tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28/6/2022
Sinh viên thực hiện

Lê Thị Toán


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS


Bộ luật Tố tụng dân sự

BLDS

Bộ luật Dân sự

NCQLNVLQ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn
Nghị quyết số
thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải
05/2012/NQquyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng
HĐTP
dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

Tố tụng dân sự

VADS

Vụ án dân sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ YÊU CẦU PHẢN TỐ .........................................7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa yêu cầu phản tố .........................................7

1.1.1.

Khái niệm yêu cầu phản tố .....................................................................7

1.1.2.

Đặc điểm yêu cầu phản tố.......................................................................9

1.1.3.

Ý nghĩa của yêu cầu phản tố .................................................................13

1.2.

Quy định pháp luật về yêu cầu phản tố ...................................................15

1.2.1.

Chủ thể thực hiện yêu cầu phản tố và chủ thể bị phản tố .....................15

1.2.2.

Điều kiện thực hiện quyền đưa ra yêu cầu phản tố ..............................17

1.2.3.


Thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố ........................................................28

1.3.

Phân biệt yêu cầu phản tố với ý kiến phản bác, yêu cầu độc lập ..........31

1.3.1.

Phân biệt yêu cầu phản tố với ý kiến phản bác của bị đơn ..................31

1.3.2.

Phân biệt yêu cầu phản tố với yêu cầu độc lập ....................................32

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................34
CHƯƠNG 2. BẤP CẬP TRONG THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHẢN
TỐ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM ......35
2.1.

Xác định yêu cầu phản tố ..........................................................................35

2.2.

Thời điểm thực hiện, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu phản tố ................42

2.2.1.

Thời điểm thực hiện ..............................................................................42


2.2.2.

Thời điểm thay đổi, bổ sung..................................................................45

2.2.3.

Thời điểm rút yêu cầu phản tố ..............................................................48

2.3.

Thẩm quyền thụ lý yêu cầu phản tố.........................................................50

2.4.

Trình tự, thủ tục thực hiện yêu cầu phản tố ...........................................57

2.4.1.

Hình thức ..............................................................................................57

2.4.2.

Nội dung ................................................................................................58

2.5.

Thời hiệu đối với yêu cầu phản tố ............................................................59


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................64

KẾT LUẬN ..............................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một văn kiện chính
trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, là nhân tố bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội và
chủ quyền của quốc gia, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ.
Là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà nước, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất
trong hệ thống pháp luật. Cụ thể, tại Điều 14 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 thì “1. Ở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
cơng nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật, 2. Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khỏe của cộng đồng”. Từ những quy định trên cho thấy, công dân được Hiến
pháp và pháp luật cho phép xử sự theo những cách thức nhất định. Những cách thức
xử sự, yêu cầu đó phải đảm bảo không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức
xã hội.
Để bảo hộ cho các quyền dân sự của các chủ thể, Nhà nước quy định nhiều
biện pháp, cách thức bảo vệ khác trong việc bảo vệ quyền dân sự, một trong những
quyền đó là quyền phản tố của bị đơn. Quy định về yêu cầu phản tố của bị đơn tạo cơ
sở pháp lý để bảo đảm quyền tố tụng của bị đơn, bảo đảm quyền tự định đoạt của
đương sự, tạo điều kiện cho việc giải quyết nhanh, toàn diện các yêu cầu của đương
sự trong q trình giải quyết các tranh chấp dân sự.
Có thể thấy, trước khi thực hiện quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình, ngun đơn thông thường đã chủ động chuẩn bị đầy đủ về mặt
chứng cứ, tâm lý, tài chính,… Trong khi đó, đa phần về phía bị đơn thường chưa biết
mình bị ngun đơn khởi kiện cho đến khi có thơng báo về việc thụ lý vụ án của Tòa
án nhân dân đối với bị đơn. Do đó, yêu cầu phản tố của bị đơn là nội dung quan trọng
trong tố tụng dân sự nhằm tạo điều kiện cho bị đơn chủ động trong việc bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của mình. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày
25 tháng 11 năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 thay thế
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã bổ sung các quy
định nhằm hoàn thiện các quy định về yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân


2

sự. Trong đó, quy định về yêu cầu phản tố của bị đơn được thể hiện cụ thể tại Điều
70, Điều 72, Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25
tháng 11 năm 2015. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cơ sở pháp luật cùng với kết hợp thực
tiễn thì tác giả nhận thấy có những bất cập, hạn chế cần phải bổ sung, hoàn thiện.
Một, vấn đề xác định yêu cầu phản tố của bị đơn quy định tại Điều 72, khoản
2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11
năm 2015 chưa cụ thể dẫn đến việc cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
nhận thức và áp dụng khác nhau khi xét xử các vụ án dân sự có bị đơn đưa ra yêu cầu
phản tố.
Hai, thời điểm đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn được quy định tại khoản 3
Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm
2015 còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa có sự thống nhất trong quy định của pháp
luật.
Ba, vấn đề về thẩm quyền thụ lý cũng cịn nhiều bất cập trên thực tế, cần phải
có những quy định pháp luật chặt chẽ để tạo sự thống nhất trong thực tiễn.
Ngồi ra, trình tự thủ tục, thời hiệu cũng là những vấn đề cần được xem xét
chi tiết để có sự thống nhất trên cơ sở pháp luật và thực tiễn áp dụng.

Xuất phát từ các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Yêu cầu phản tố của bị
đơn trong tố tụng dân sự”. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả hy vọng với
những phân tích, đánh giá, kiến nghị có căn cứ là cơ sở đề nghị hoàn thiện các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự có các cơng trình
nghiên cứu như sau:
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong công trình này, các tác giả nghiên cứu tồn
bộ các quy định của luật tố tụng dân sự trong đó có quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
ở góc độ là quyền của đương sự và mang tính lý luận. Với định hướng là cơng trình
lý luận nên thực tiễn về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự cơng
trình khơng đề cập.


3

- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Sách tình huống Luật tố tụng
dân sự (Bình luận bản án), Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong cơng trình này, các tác
giả đã phân tích quy định của pháp luật về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn tại Chủ
đề 23 trang 432. Với các bản án cụ thể và phân tích của các tác giả, đây là cơ sở để
tác giả phát triển cơng trình của mình về lý luận và thực tiễn.
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Bình luận những điểm mới
trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, (Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên), Nhà
xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam xuất bản năm 2016. Với cơng trình
nghiên cứu này, các tác giả đã nêu, phân tích những điểm mới của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm
2011, trong đó có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự. Đây là nguồn tài liệu
tham khảo để tác giả triển khai đề tài.
- Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh (2021), Đặng Thanh Hoa (chủ biên),

Tài liệu học tập Luật Tố tụng dân sự Việt Nam (Tái bản lần thứ 4), NXB Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam. Cơng trình chủ yếu đưa ra cơ sở lý luận chung chung, chưa
đi sâu cụ thể thực tiễn yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự.
- Đặng Thanh Hoa (chủ biên), Pháp luật tố tụng dân sự (Phần thủ tục giải quyết
vụ án dân sự), Tình huống và phân tích, NXB. Hồng Đức. Cơng trình phân tích cả về
mặt lý luận và thực tiễn xét xử, quan điểm của tác giả về thực tiễn xét xử. Đây là
nguồn tài liệu tham khảo của tác giả trong việc tìm ra những quan điểm trái chiều trên
thực tế.
- Đặng Thanh Hoa (chủ biên), Lưu Tiến Dũng (2020), Lý giải một số vấn đề của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ thực tiễn xét xử, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong
cơng trình này, các nội dung nghiên cứu liên quan đến đề tài của tác giả tại Vấn đề 1,
Vấn đề 4, Vấn đề 5. Với sự bình luận về các vấn đề và lý giải trong cơng trình, tác
giả có thêm nguồn tài liệu để triển khai các vấn đề trong khóa luận.
- Trần Anh Tuấn (chủ biên), (2017), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nhà xuất bản Tư pháp.
Cơng trình mang tính lý luận, bình luận những điểm mới cũng như những ưu điểm
và hạn chế của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên) (2017), Bình luận khoa học về những
điểm mới trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh. Đây là những cơng trình nghiên cứu mang tính chất bình luận
những quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cơ sở lý luận cũng như mối liên hệ với


4

thực tiễn, là nguồn nhận thức quan trọng để tác giả định hướng cho việc nghiên cứu
đề tài của mình.
- Ngô Thế Anh (2021), Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Luận văn Thạc sĩ luật học – Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh. Luận thể hiện cả khía cạnh lý luận và thực tiễn. Luận văn là nguồn tài liệu quan
trọng trong khóa luận của tác giả.

- Nguyễn Ngọc Sơn (2020), Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học – Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Luận văn thể hiện khía cạnh lý luận và thực tiễn. Đưa ra những quy định của pháp
luật Việt Nam và nước ngoài. Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo trong q trình
nghiên cứu khóa luận của tác giả.
- Trần Thị Diệu Linh (2017), Quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Đại học Luật Hà Nội. Trong đề tài này, tác giả tập trung làm rõ các khái niệm
quyền tố tụng của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phân tích thực trạng
của quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, đề xuất kiến nghị hoàn thiện những
quy định pháp luật về quyền của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy
nhiên, do đề tài này nghiên cứu rộng bao gồm hai chủ thể là bị đơn và người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan và cũng chưa nghiên cứu sâu những quyền đặc thù của bị đơn.
- Hoàng Thị Tuyết (2015), Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành,
Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đề tài này
tác giả cũng tập trung nghiên cứu sâu một số khía cạnh về các điều kiện năng lực, tư
cách của đương sự, đồng thời cũng kiến nghị hoàn thiện một số quy định chung về
đương sự, quyền, nghĩa vụ của đương sự. Tuy nhiên, đề tài này cũng nghiên cứu Bộ
luật Tố tụng Dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, do vậy tính ứng dụng của
đề tài này cũng khơng cao trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm Thị Thúy (2017), Quyền của bị đơn trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc
sĩ luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả phân tích về quyền của bị đơn
trong tố tụng dân sự Việt Nam với hai nội dung: Quyền yêu cầu phản tố và quyền yêu
cầu độc lập. Đối với quyền yêu cầu phản tố, tác giả đã có những phân tích quy định
pháp luật hiện hành, so sánh pháp luật nước ngoài và thực tiễn xảy ra. Luận văn là
nguồn tài liệu quan trọng trong quá trình thực hiện khóa luận của tác giả.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài


5


Nghiên cứu “Yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự” tác giả mong muốn
làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành liên quan. Trên cơ sở đối chiếu với
các quy định trước đó, các quy định của pháp luật nước ngoài, cũng như đối chiếu
với thực tiễn áp dụng để tìm ra những điểm tiến bộ, hạn chế của các quy định liên
quan đến yêu cầu phản tố của bị đơn. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp để pháp
luật được thực thi trên thực tế một cách thống nhất, hiệu quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định liên quan đến yêu cầu phản tố
của bị đơn theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành. Cụ thể như: khái niệm, đặc
điểm, thời điểm thực hiện/thay đổi/bổ sung/rút yêu cầu phản tố, thủ tục thực hiện
quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, thời hiệu đối với yêu cầu phản tố.
Tác giả cũng tiến hành phân biệt, so sánh những quy định của hệ thống pháp luật
hiện hành đối với yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự với những quy định
cùng với vấn đề tương ứng của một số quốc gia trên thế giới; so sánh quy định về
quyền yêu cầu phản tố của hệ thống pháp luật hiện hành với những quy định pháp
luật của Việt Nam trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 có
hiệu lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Yêu cầu phản tố là một đề tài có nội hàm rộng. Tuy nhiên, trong khn khổ nội
dung khóa luận, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu khái quát lý luận về yêu cầu phản tố
và phân tích, luận giải một số vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn xét xử như: vấn đề
xác định yêu cầu phản tố; thời điểm thực hiện yêu cầu phản tố; thời điểm thay đổi/bổ
sung, rút yêu cầu phản tố; thủ tục thực hiện yêu cầu phản tố và thụ lý yêu cầu phản
tố; thời hiệu đối với yêu cầu phản tố.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành khóa luận, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa
học cụ thể sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích: tác giả sử dụng phương pháp này để làm rõ

những quy định của pháp luật về yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự Việt
Nam. Phương pháp này được sử dụng trong hai chương của khóa luận để phân tích
về quy định, thực tiễn áp dụng của Tịa án nhân dân khi giải quyết yêu cầu phản tố
của bị đơn.


6

Thứ hai, phương pháp lịch sử: tác giả đã sử dụng phương pháp này để phân tích
sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật về yêu cầu phản tố của bị đơn trong
tố tụng dân sự qua các giai đoạn. Phương pháp này chủ yếu tác giả sử dụng ở Chương
1 của khóa luận.
Thứ ba, phương pháp so sánh: tác giả đã so sánh các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về yêu cầu phản tố của bị đơn với quy định tương đương của một số
nước trên thế giới như Liên bang Nga, Liên bang Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp,… Phương
pháp này được tác giả sử dụng cho cả Chương 1 và Chương 2.
Thứ tư, phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng cho tồn bộ nội
dung khóa luận để tổng hợp kết quả nghiên cứu, chỉ ra bất cập, hạn chế từ đó đề xuất
một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về yêu cầu phản tố của bị đơn trong tố
tụng dân sự.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Khái quát về yêu cầu phản tố
Chương 2. Bất cập trong thực tiễn giải quyết yêu cầu phản tố và một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật Việt Nam


7


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ YÊU CẦU PHẢN TỐ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa yêu cầu phản tố
1.1.1. Khái niệm yêu cầu phản tố
Yêu cầu phản tố không phải là một thuật ngữ xa lạ đối với những nhà nghiên
cứu luật. Tuy nhiên, đây không phải là một thuật ngữ dễ hiểu và hiện tại cũng chưa
có một định nghĩa rõ ràng. Cụ thể, yêu cầu phản tố hiện tại không được định nghĩa
trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015
(sau đây viết tắt là BLTTDS 2015). Và trên thực tế, nhiều bị đơn đã bỏ qua quyền
đưa ra yêu cầu phản tố của mình do khơng biết hoặc khơng hiểu rõ những quyền của
mình trong tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là TTDS).
Tuy đến thời điểm hiện nay, yêu cầu phản tố vẫn chưa có một định nghĩa cụ
thể nhưng nhìn vào lịch sử phát triển, cải tiến lập pháp thì có thể nhận thấy quy định
về yêu cầu phản tố lần đầu quy định từ Sắc lệnh 51 được Chủ tịch Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành ngày 17 tháng 04 năm 1946. Cụ thể, Sắc lệnh 51
đã nêu lên rằng: “Khi nào ông Thẩm phán sơ cấp thụ lý một việc kiện, nếu chiếu theo
giá ngạch trong đơn trình, có quyền chung thẩm, mà lúc xét xử, lại nhận được đơn
phản tố hay đơn xin đối khẩu, thì tùy giá ngạch đơn này có q số chung thẩm. Ơng
thẩm sơ cấp đối với tất cả việc kiện cũng có quyền chung thẩm”.
Tiếp nối Sắc lệnh này, Thông tư số 1-UB được TANDTC ban hành ngày
03/3/1969 về việc hướng dẫn viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm hình sự và dân sự,
khi quy định về nguyên tắc viết bản án phải xác định rõ ràng đối tượng của việc xét
xử: “Về dân sự, bản án chỉ giải quyết đúng và đầy đủ những yêu cầu cụ thể của
nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu của người thứ ba có liên
quan nếu có (thường gọi là dự sự). Đó là những yêu cầu được đề ra trong đơn kiện
hoặc đơn phản tố được đương sự xác nhận, sửa đổi hoặc bổ sung ở phiên tòa, trước
khi nghị án”.
Trên thực tế, có rất nhiều khái niệm liên quan đến cụm từ này.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “yêu cầu” có nghĩa là “nêu ra điều gì với người nào
đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc

quyền, khả năng của người ấy”1.
Từ điển Luật học cũng giải thích về thuật ngữ “yêu cầu của đương sự” là:
“Những điều mà đương sự đưa ra trong q trình tố tụng, muốn Tịa án xem xét, giải
1

Viện ngôn ngữ học Việt Nam (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr1169.


8

quyết. Yêu cầu của đương sự là sự thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS. Yêu cầu của đương sự bao gồm yêu cầu về nội dung (yêu cầu trả nợ, yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại về tài sản, yêu cầu chia thừa kế… ) và yêu cầu về tố tụng (yêu
cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
yêu cầu điều tra…)2.
“Phản tố” là một thuật ngữ pháp lý có gốc từ tiếng Hán nên thường gây khó
hiểu cho người mới tiếp cận. Trong các văn bản pháp luật TTDS của Việt Nam, thuật
ngữ “phản tố” lần đầu xuất hiện trong BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm
2011. Theo điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011,
bị đơn có quyền “đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến
yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu”.
Theo từ điển Hán Việt thì “phản” có nghĩa là “trái, ngược”, “tố” có nghĩa là
“nói chống lại”, “phản tố” có nghĩa là “người bị kiện kiện ngược trở lại nguyên cáo”3.
Bên cạnh đó, theo Từ điển pháp luật Anh – Việt, “phản tố” (counterclaim) là “lời
phản hồi do bị cáo trong vụ kiện dân sự đưa ra, nhằm xác nhận một quyền độc lập
chứ không phải lời biện hộ cho lời tố cáo của nguyên đơn”. Dictionary of Law định
nghĩa “counterclaim” (phản tố) là: “1. n. Bị đơn đưa ra yêu cầu tại Tòa án để chống
lại người đã khởi kiện mình (Yêu cầu phản tố bao gồm thủ tục tương tự và tuyên bố
như đơn khởi kiện). v. Yêu cầu bồi thường thiệt hại được đưa ra để đáp lại yêu cầu
khởi kiện trước đó: Jones yêu cầu bồi thường thiệt hại 25.000 bảng Anh đối với Smith

và Smith đã đưa ra yêu cầu phản tố 50.000 bảng Anh cho việc mất văn phòng”4. Theo
Black’s Law Dictionary thì khái niệm “counterclaim” hay phản tố được hiểu là: “Một
yêu cầu đưa ra đối với bên có quyền lợi đối lập sau khi bên có quyền lợi đối lập đưa
ra yêu cầu với mình; tiêu biểu là yêu cầu của bị đơn đưa ra đối với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn”5.

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb. Tư pháp,
tr.648.
3
Bửu Kế (1999), Từ điển Hán Việt từ nguyên, Nxb. Thuận Hóa, tr1370.
4
P.H Collin (2000), Dictionary of Law (3nd edition), Peter Collin Puhlishing, page 90-91: “(1) n. Claim in the
court by a defendant against the claimant who is bringing a claim against him (the counterclaim is included
in the same proceeding and statement of case as the claim). V. claim for damage made in reply to a previous
claim: Jones claimed for $25,000 in damage against Smith and Smith entered a counterclaim of $50,000 for
lost office”.
5
Bryan A. Garner (Edition in Chief) (2001), Black’s Dictionary second pocket edition, West group A Thomson
company, page 153: “A claim for relief asserted against an opposing party after an original claim has been
made; esp., a defendant’s claim in opposition to or as a set off against the plantiff’s claim-counter”.
2


9

Có thể hiểu, “phản tố” là quyền của bị đơn trong vụ án dân sự (sau đây viết tắt
là VADS), thực chất việc phản tố của bị đơn là việc bị đơn khởi kiện ngược lại người
đã kiện mình nhưng được xem xét, giải quyết cùng với đơn khởi kiện của nguyên đơn
trong vụ án vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau.
Nếu yêu cầu của bị đơn là một việc hoàn tồn khơng liên quan đến đơn khởi kiện của

ngun đơn thì bị đơn phải khởi kiện thành một VADS mới.
Theo định nghĩa Wikipedia thì: “yêu cầu của một bên là yêu cầu phản tố nếu
một bên khẳng định yêu cầu của họ đáp lại yêu cầu của người khác. Nói cách khác,
nếu một nguyên đơn khởi kiện và một bị đơn trả lời vụ kiện bằng những yêu cầu của
chính họ chống lại nguyên đơn, thì những yêu cầu của bị đơn là yêu cầu phản tố”.
Qua những phân tích nêu trên, tác giả nhận thấy những định nghĩa trên cũng
khá tương đồng, bổ sung ý cho nhau. Do đó, có thể hiểu đơn giản: yêu cầu phản tố là
việc bị đơn trong vụ án dân sự kiện ngược lại nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Và yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ phát sinh khi liên
quan đến yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
1.1.2. Đặc điểm yêu cầu phản tố
Yêu cầu phản tố của bị đơn được quy định tại khoản 1 Điều 200 BLTTDS
2015 như sau: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối
với u cầu của ngun đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập của Tịa án, bị đơn có
quyền đưa ra u cầu phản tố đối với nguyên đơn hoặc đối với người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.”6. Nghĩa là sau khi nhận được thông báo về
việc thụ lý vụ án của Tòa án hoặc sau khi nhận được thông báo về việc thụ lý đơn u
cầu độc lập của Tịa án, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn
hoặc đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (sau đây viết tắt là NCQLNVLQ)
có yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay vẫn cịn có sự nhầm lẫn giữa
yêu cầu phản tố của bị đơn với ý kiến của bị đơn dẫn đến trường hợp Tịa án khơng
xem xét u cầu phản tố của bị đơn hoặc chỉ là ý kiến của bị đơn nhưng Tòa án lại
xem xét giải quyết như yêu cầu phản tố của bị đơn. Những sai sót như vậy, dẫn đến

6

Khoản 1 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.



10

việc áp dụng pháp luật không đúng làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án hoặc là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Thứ nhất, yêu cầu phản tố chỉ có thể thực hiện khi vụ án dân sự được thụ lý.
Với bản chất yêu cầu phản tố là bị đơn kiện ngược lại nguyên đơn,
NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập cho nên yêu cầu được coi là yêu cầu phản tố của bị
đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, NCQLNVLQ có u cầu độc lập nếu u cầu
đó khơng cùng với yêu cầu mà nguyên đơn, NCQLNVLQ yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do đó, nếu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tịa án chấp nhận và giải quyết
thì q trình tố tụng diễn ra, khi đó bị đơn mới có thể thực hiện được u cầu phản tố
của mình.
Đồng thời, yêu cầu độc lập của NCQLNVLQ cũng chỉ phát sinh sau khi Tòa
án thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố đối với NCQLNVLQ
được thực hiện khi chủ thể này đã đưa ra yêu cầu độc lập với bị đơn. Như vậy, yêu
cầu phản tố của bị đơn “phát sinh” từ các quyền của đương sự. Việc Tòa án thụ lý
yêu cầu khởi kiện được xem là tiền đề để các đương sự thực hiện quyền tố tụng của
mình.
Thứ hai, yêu cầu phản tố chỉ dành cho bị đơn.
Bị đơn trong VADS là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VADS khi cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. Bị đơn trong VADS là
một trong các bên đương sự cho nên họ cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ chung
của đương sự. Bên cạnh đó, pháp luật TTDS cũng dành riêng cho bị đơn những quyền,
nghĩa vụ đặc trưng mà chỉ họ mới có trong VADS. Đó là quyền đưa ra yêu cầu phản
tố đối với nguyên đơn, NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập và quyền chấp nhận hoặc
bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Khác với nguyên đơn, tham
gia quá trình tố tụng một cách chủ động thì bị đơn tham gia vào quá trình này một

cách bị động. Nếu như nguyên đơn cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm, họ có quyền quyết định việc khởi kiện hoặc khơng khởi kiện để u cầu
Tịa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho mình, khơi phục lại các quan hệ xã hội bị
xâm hại thì bị đơn trong VADS họ cũng có quyền tự định đoạt thơng qua việc tự mình
quyết định có hoặc khơng đưa ra yêu cầu phản tố khi bản thân họ nhận thấy trong
quan hệ tranh chấp với nguyên đơn họ cũng có lợi ích bị xâm hại.
u cầu phản tố của bị đơn là quyền của bị đơn cũng là một trong các quyền
tố tụng, chỉ có trong VADS mà khơng có trong việc dân sự. Khác hồn tồn với


11

VADS, việc dân sự với bản chất là những vấn đề khơng có tranh chấp về quyền lợi
giữa các chủ thể nên thành phần đương sự chỉ có người yêu cầu và người liên quan.
Theo đó, các chủ thể là các cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân
sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác. Với đặc điểm không chứa đựng yếu tố kiện tụng, tranh chấp
và cũng không tạo ra hai bên đối kháng về lợi ích như VADS nên việc dân sự khơng
có ngun đơn, bị đơn, khơng có u cầu khởi kiện và càng khơng thể có trường hợp
“kiện ngược lại” của bị đơn. Có thể nói, quyền phản tố chỉ xuất hiện trong VADS và
quyền này được dành cho riêng bị đơn.
Thứ ba, địa vị tố tụng của bị đơn sẽ thay đổi khi nguyên đơn rút yêu cầu khởi
kiện.
Tác giả cho rằng để xác định yêu cầu của bị đơn trong TTDS có phải là yêu
cầu phản tố hay khơng thì ngồi việc nhận biết qua một trong ba trường hợp được
quy định tại khoản 2 Điều 200 BLTTDS 2015 thì cần thêm một điều kiện chung. Đó
là trong trường hợp nguyên đơn rút lại yêu cầu khởi kiện thì với u cầu của bị đơn
như vậy, Tịa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án hay Tịa án phải thay đổi địa vị tố tụng,
nguyên đơn thành bị đơn và bị đơn thành nguyên đơn để tiếp tục giải quyết vụ án.

Nếu Tòa án thay đổi địa vị tố tụng tiếp tục xem xét giải quyết yêu cầu của bị đơn thì
yêu cầu của bị đơn là yêu cầu phản tố.
Quy định thay đổi địa vị tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các đương
sự nói chung và bị đơn có yêu cầu phản tố nói riêng. Việc thay đổi địa vị tố tụng làm
thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp, quyền và nghĩa vụ của đương sự cũng thay
đổi. Mặc khác, thay đổi địa vị tố tụng tránh việc Tòa án quyết định đình chỉ xét xử,
sau đó nếu bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập thì Tịa
án lại phải thụ lý và tiến hành các cơng việc chuẩn bị xét xử, trong khi đó quan hệ đã
được Tòa án thụ lý, đương sự thu thập chứng cứ7.
Về nguyên tắc, khi nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện thì vụ án được đình chỉ
giải quyết nếu trong vụ án đó chỉ có yêu cầu khởi kiện của ngun đơn mà bị đơn
hoặc NCQLNVLQ khơng có yêu cầu khác để giải quyết trong cùng vụ án. Trường

Bùi Thị Huyền (2007), “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9, tr.25.
7


12

hợp vụ án xuất hiện yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của NCQLNVLQ
thì hệ quả pháp lý đặt ra sẽ khác khi nguyên đơn rút tồn bộ u cầu khởi kiện.
Tại phiên tịa, ngun đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ
nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở
thành bị đơn. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn
bộ yêu cầu phản tố, nhưng NCQLNVLQ vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình
thì NCQLNVLQ trở thành nguyên đơn, người bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở
thành bị đơn8.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện
hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt khơng có lý do chính đáng,

khơng đề nghị xét xử vắng mặt và trong vụ án đó có bị đơn yêu cầu phản tố,
NCQLNVLQ có u cầu độc lập thì giải quyết như sau: Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu
phản tố, NCQLNVLQ rút tồn bộ u cầu độc lập thì Tịa án ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án; Bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tịa án
ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn
trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn; Bị đơn rút tồn bộ u cầu phản
tố, NCQLNVLQ khơng rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu độc lập thì Tịa án ra quyết
định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố
của bị đơn; NCQLNVLQ trở thành nguyên đơn, người nào bị khởi kiện theo yêu cầu
độc lập trở thành bị đơn9
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015, trường hợp nguyên
đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần u
cầu phản tố thì Tịa án ra quyết định đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn và trong quyết định đó phải thể hiện rõ việc thay đổi địa vị tố tụng: bị đơn trở
thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn. Trường hợp ngun đơn rút một
phần u cầu thì Tịa án khơng ra quyết định đình chỉ riêng mà phải nhận xét trong
phần nhận định của Tòa án trong bản án và quyết định đình chỉ một phần yêu cầu
trong phần Quyết định của bản án10.
Bên cạnh đó, việc thay đổi địa vị tố tụng sẽ phát sinh thêm một vấn đề liên
quan đến thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án. Khi Tòa án thay đổi tư cách tham

Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.
Khoản 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.
10
Tòa án nhân dân tối cao (2017), Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày
07/04/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ.
8
9



13

gia tố tụng của đương sự thì thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án được xác định như
thế nào khi địa chỉ cư trú, địa chỉ nơi có trụ sở của bị đơn, NCQLNVLQ không thuộc
lãnh thổ mà Tịa án địa phương đó đang thụ lý vụ án.
Theo tác giả, Tòa án nhân dân tối cao (sau đây viết tắt là TANDTC) cần ban
hành văn bản hướng dẫn đối với nội dung này theo hướng áp dụng thủ tục chung của
BLTTDS 2015.
1.1.3. Ý nghĩa của yêu cầu phản tố
Thứ nhất, thể hiện tính bình đẳng trong pháp luật TTDS, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị đơn.
Ngun đơn chính là người khởi động q trình TTDS. Khi nguyên đơn khởi
động quá trình TTDS thì chắc chắn rằng về phía họ đã chuẩn bị đầy đủ tồn bộ về
chứng cứ, tâm lý và tài chính để khởi kiện bị đơn. Đối với NCQLNVLQ có yêu cầu
độc lập thì họ có quyền đưa ra u cầu độc lập đối với nguyên đơn, bị đơn hoặc đối
với cả hai. Để tạo thế cân bằng, đối trọng với hai đối tượng trên, pháp luật đã dành
cho bị đơn quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, NCQLNVLQ có yêu cầu độc
lập. Điều này thể hiện tính chất bình đẳng của pháp luật về quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các đương sự.
Trong một VADS nếu khơng có u cầu phản tố thì bị đơn là người có nghĩa
vụ ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của
NCQLNVLQ. Tuy nhiên, nếu bị đơn thực hiện quyền yêu cầu phản tố thì bị đơn là
người đưa yêu cầu đối với nguyên đơn, NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập. Chính vì
vậy, sau khi thực hiện phản tố thì bị đơn sẽ chủ động trong việc chứng minh yêu cầu
phản tố của mình để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho chính mình.
Xét ở khía cạnh của nguyên đơn và NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập, họ sẽ
cân nhắc việc đưa ra yêu cầu khởi kiện và yêu cầu độc lập của mình đối với bị đơn vì
có thể bị đơn sẽ đưa ra u cầu phản tố đối với họ.
Thứ hai, góp phần giúp vụ án được giải quyết tồn diện, chính xác và khách
quan.

Tại điểm c khoản 2 Điều 200 BLTTDS 2015 có ghi nhận yêu cầu phản tố của
bị đơn đối với nguyên đơn, NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi:
“Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập


14

có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho
việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn”11.
Để đảm bảo cho q trình giải quyết một VADS được tồn diện, khách quan,
chính xác thì cần phải cân bằng lợi ích của các bên tham gia quan hệ tố tụng đó. Cũng
như đảm bảo quyền lợi của bị đơn được đối trọng với quyền lợi của nguyên đơn,
NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập thì pháp luật đã ghi nhận quyền yêu cầu phản tố của
bị đơn.
Trong quá trình giải quyết một VADS nếu bị đơn khơng có quyền u cầu
phản tố, Tòa án chỉ xem xét đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập
của NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập, khi đó VADS chỉ được giải quyết dựa trên yêu
cầu của nguyên đơn, NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập và bị đơn sẽ không thỏa mãn
với kết quả giải quyết vụ án vì cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm nhưng khơng được Tịa án bảo vệ. Vì thế, bị đơn sẽ tiếp tục khởi kiện bằng một
vụ án khác. Vụ án mới do bị đơn khởi kiện hồn tịan có thể được giải quyết cùng với
vụ án trước đó nhằm đảm bảo cân bằng quyền lợi ích của các bên.
Thứ ba, tiết kiệm chi phí tố tụng cho các đương sự và Tòa án.
Quy định về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn,
NCQLNVLQ có yêu cầu độc lập sẽ góp phần giải quyết vụ án chính xác, dứt điểm
và nhanh chóng. Bên cạnh đó, cịn tiết kiệm chi phí cho người tham gia tố tụng và cơ
quan tiến hành tố tụng nếu yêu cầu phản tố của bị đơn được giải quyết trong cùng
một vụ án do nguyên đơn khởi kiện.
Thứ tư, quyền phản tố là một quyền tố tụng của bị đơn, do đó, việc thực hiện
quyền này trực tiếp giúp bị đơn bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thực tế giải quyết vụ án tại Tòa án, bị đơn sử dụng quyền phản tố rất phổ biến.
Điều này cũng phần nào cho thấy ý nghĩa tích cực mà quyền phản tố mang lại cho bị
đơn. Bởi vì quan hệ dân sự thông thường là quan hệ song vụ, nhiều trường hợp các
bên cùng có nghĩa vụ với nhau. Với nội dung ngược lại nguyên đơn, NCQLNVLQ
có yêu cầu độc lập, có thể xem đây như một cách thức để bị đơn bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Nguyên đơn, NCQLNVLQ khi đưa ra yêu cầu với bị đơn bên cạnh phải chuẩn
bị các tình huống nếu như bị đơn có ý kiến phản bác, cịn phải xét đến trường hợp bị

11

Điểm c, Khoản 2, Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.


15

đơn “kiện ngược lại” mình. Ở một khía cạnh nào đó, điều này sẽ khiến nguyên đơn,
NCQLNVLQ phải thận trọng, cân nhắc hơn khi đưa ra yêu cầu với bị đơn.
Việc giải quyết yêu cầu phản tố trong cùng một vụ án với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của NCQLNVLQ cũng giúp bị đơn tiết kiệm thời
gian, công sức để khởi kiện giải quyết trong vụ án khác.
1.2. Quy định pháp luật về yêu cầu phản tố
1.2.1. Chủ thể thực hiện yêu cầu phản tố và chủ thể bị phản tố
Về chủ thể thực hiện quyền yêu cầu phản tố. Theo quy định tại điểm c khoản
1 Điều 200 BLTTDS 2015, bị đơn được “đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn
nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị bù trừ với nghĩa vụ mà
nguyên đơn yêu cầu”. Theo quy định này thì yêu cầu phản tố được thực hiện khi bị
đơn có yêu cầu đối với nguyên đơn. Trong trường người đại diện theo ủy quyền của
bị đơn tham gia tố tụng trong vụ án có yêu cầu phản tố đối với ngun đơn thì Tịa
án giải quyết như thế nào. Giả sử khi nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, bị

đơn được xác định có yêu cầu phản tố đã ủy quyền cho người khác theo đúng thủ tục
để tham gia tố tụng tại Tịa án và có tồn quyền thay mặt bị đơn quyết định các vấn
đề có liên quan trong vụ án. Trong trường hợp này đã có rất nhiều Tịa án chấp nhận
yêu cầu phản tố của người đại diện theo ủy quyền nhưng cũng có những Tịa án khơng
chấp nhận vì cho rằng để thực hiện yêu cầu phản tố bị đơn phải là người trực tiếp yêu
cầu. Người đại diện theo ủy quyền khơng có quyền u cầu phản tố vì họ khơng phải
là bị đơn mà chỉ là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn.
Theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành, cá nhân có đầy đủ năng lực
hành vi TTDS khơng có quyền ủy quyền cho người khác khởi kiện thay mình12. Do
đó, có ý kiến cho rằng, tương tự, bị đơn cũng khơng có quyền ủy quyền cho chủ thể
khác thực hiện quyền phản tố.
Theo tác giả, ý kiến này không hợp lý. Vì quyền phản tố là một trong các
quyền tố tụng, việc thực hiện các quyền này cũng phải dựa trên các nguyên tắc chung
của pháp luật TTDS. BLTTDS cho phép đương sự được quyền ủy quyền cho người
khác thay mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Do đó, nếu bị đơn ủy quyền
cho chủ thể khác thực hiện quyền phản tố thay mình và việc ủy quyền này đúng quy
định của pháp luật thì người đại diện theo ủy quyền của bị đơn được thực hiện quyền
phản tố thay cho bị đơn.
12

Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.


16

Tác giả cho rằng, không thể đặt quy định tại Điều 200 BLTTDS 2015 độc lập
mà phải đặt trong mối liên hệ với các quy định khác của BLTTDS 2015 và chế định
ủy quyền được quy định trong Bộ luật Dân sự số 91/2015/ QH13 ngày 24 tháng 11
năm 2015 (sau đây viết tắt là BLDS 2015).
Khi tham gia tố tụng, đương sự được quyền ủy quyền cho người khác đại diện

thay mình. Điều 86 BLTTDS 2015 xác định: “1. Người đại diện theo pháp luật trong
tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình
là đại diện. 2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự theo nội dung văn
bản ủy quyền”13. Như vậy, cần căn cứ vào văn bản ủy quyền để xác định quyền được
thực hiện yêu cầu phản tố của chủ thể là người đại diện theo ủy quyền.
Trên thế giới, một số quốc gia cũng thừa nhận quyền phản tố của bị đơn với
chủ thể khác không phải nguyên đơn, chẳng hạn như pháp luật TTDS Vương quốc
Anh14.
Ngồi ra, có thể tham khảo quy định pháp luật TTDS của một số quốc gia trên
thế giới khác, chẳng hạn như Liên bang Nga. BLTTDS Liên bang Nga quy định:
“Người đại diện có quyền nhân danh người được đại diện thực hiện mọi hành vi tố
tụng. Tuy nhiên, quyền ký đơn khởi kiện, quyền đưa đơn ra Tòa, quyền yêu cầu chuyển
tranh chấp cho Tịa án có thẩm quyền, quyền phản tố, quyền rút một phần hoặc toàn
bộ đơn khởi kiện, giảm mức yêu cầu, thừa nhận việc kiện, thay đổi căn cứ hoặc đối
tượng tranh chấp, quyền hòa giải, ủy quyền lại cho người khác, quyền kháng cáo,
đưa ra yêu cầu buộc thi hành án, nhận lại tài sản hoặc tiền bị xử phạt phải được ghi
rõ trong văn bản ủy quyền”15.
Như vậy, BLTTDS Liên bang Nga cho phép ủy quyền phản tố với điều kiện
việc ủy quyền này phải được ghi rõ trong văn bản ủy quyền.
BLTTDS Nhật Bản cũng cho phép người đại diện theo ủy quyền được thực
hiện phản tố thay cho bị đơn. Cụ thể, Điều 55 BLTTDS Nhật Bản quy định, một luật

Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.
BLTTDS Vương quốc Anh có quy định: Quyền phản tố được đưa ra bởi bên bị đơn chống lại nguyên đơn
hoặc chống lại nguyên đơn và những người khác (Part 20.1 of the Civil Procedure Rules of England: “A
counterclaim by a defendant against the claimant or against the claimant and some other person”)
(truy cập ngày 6/6/2022).
15
Điều 54 BLTTDS Liên bang Nga (Nguyễn Ngọc Khánh, Trần Văn Trung (2005), Bộ luật Tố tụng dân sự
Liên bang Nga, NXB Tư pháp).

13
14


17

sư có thể được ủy quyền để thực hiện các hành vi tố tụng liên quan đến yêu cầu phản
tố, trong đó bao gồm cả việc nộp yêu cầu phản tố16.
Tác giả cho rằng, cần có sự hướng dẫn thống nhất của Tòa án về việc thừa
nhận cho bị đơn quyền ủy quyền phản tố và cách thức ủy quyền để người đại diện
theo ủy quyền có thể thực hiện quyền phản tố thay cho bị đơn. Về vấn đề này, có thể
học hỏi quy định của pháp luật TTDS Liên bang Nga, Nhật Bản để có cách áp dụng
thống thất pháp luật trên thực tiễn áp dụng.
1.2.2. Điều kiện thực hiện quyền đưa ra yêu cầu phản tố
Như tác giả đã phân tích ở trên, yêu cầu phản tố chỉ được chấp nhận khi thuộc
một trong những trường hợp quy định tại Điều 200 BLTTDS 2015:
“a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần
hoặc tồn bộ u cầu của ngun đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh
hơn”17.
Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể hơn về điều khoản này,
nhưng trước hết yêu cầu phản tố phải là yêu cầu không cùng với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Việc xác định thế nào là u cầu khơng cùng với u cầu của ngun
đơn thì thoạt nhiên nghe có vẻ trừu tượng nhưng ở đây tác giả đưa ra một ví dụ minh
chứng để dễ hình dung hơn.

Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu về việc trả tiền theo hợp đồng mua bán, bị
đơn đưa ra ý kiến là chỉ chi trả một phần hoặc không chấp nhận trả tiền phát sinh từ
hợp đồng mua bán đó cho ngun đơn thì đó khơng phải là yêu cầu phản tố mà chỉ
được coi là ý kiến của bị đơn với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi yêu cầu của

16

Article 55 of Civil Procedure Rules of Japan: (1) A counsel, with regard to a case entrusted there to, may
perform procedural acts concerning a counterclaim, intervention, compulsory execution, provisional seizure
and provissional disposition, and may receice payment.
17
Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.


18

bị đơn cũng về nghĩa vụ trả tiền phát sinh từ một hợp đồng như của nguyên đơn.
Nhưng nếu như yêu cầu của bị đơn là yêu cầu nguyên đơn trả tiền cho mình phát sinh
từ hợp đồng mua bán khác thì có thể được coi là u cầu phản tố vì tuy là cùng một
nghĩa vụ trả tiền nhưng nó lại phát sinh từ hợp đồng mua bán khác – có nghĩa là tính
chất đã khác với u cầu của nguyên đơn.
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn
thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây viết tắt Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP) đã đưa ra ví dụ sau: “Chị M khởi kiện yêu cầu anh N phải trợ
cấp nuôi con là P mỗi tháng 300.000 đồng. Anh N có yêu cầu phản tố u cầu Tồ án
xác định P khơng phải là con ruột của mình”. Trường hợp này, yêu cầu của anh N
không bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của chị M, cũng không làm triệt tiêu yêu cầu của
chị M – Yêu cầu của chị M vẫn chính đáng nếu như là con của anh N, tuy nhiên, việc

giải quyết yêu cầu này sẽ dẫn tới kết luận cuối cùng về việc giải quyết yêu cầu của
chị M. Trên thực tế, các yêu cầu của nguyên đơn có thể phức tạp hơn và việc đưa ra
yêu cầu phản tố của bị đơn cũng có thể trên nhiều phương diện, có thể thuộc đồng
thời ba trường hợp trên hoặc chỉ thuộc một trường hợp và việc chấp nhận yêu cầu
phản tố một phần cũng dựa trên quan điểm của Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ
việc.
Bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu yêu cầu đó có liên quan
đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu.
Cho nên khi bị đơn có yêu cầu cùng với yêu cầu của nguyên đơn, NCQLNVLQ có
yêu cầu độc lập thì đây chỉ được coi là ý kiến của bị đơn mà không phải là yêu cầu
phản tố như yêu cầu Tịa án khơng chấp nhận u cầu của ngun đơn hoặc chỉ chấp
nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn18.
Ví dụ: Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, người để lại di sản có 02 khối
tài sản bao gồm 02 ngơi nhà trên thửa đất X có diện tích 1063m2 và thửa đất Y diện
tích 502m2. Nguyên đơn A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế khối tài sản thứ nhất (nhà
và đất). Khi Tòa án thụ lý vụ án và thơng báo thụ lý thì bị đơn B có yêu cầu chia thừa
kế cả khối tài sản thứ 02 (thửa đất Y). Yêu cầu chia thừa kế khối tài sản thứ 02 của
Khoản 2 Điều 12 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ
thẩm” của BLTTDS.
18


×