Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh australia đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 113 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI








KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA KINH DOANH AUSTRALIA
ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HÓA VIỆT NAM




Họ và tên sinh viên : Vũ Việt Dũng
Lớp : A16 – K42D
Khoá : 42
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Hoàng Ánh




Hà Nội, tháng 10/2007




MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
1
Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa kinh doanh và năng lực cạnh tranh
của hàng hóa.
4

1.1. Tổng quan về văn hoá kinh doanh.
4
1.1.1. Khái niệm
4
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh
10
1.2. Năng lực cạnh tranh
14
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
14
1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh
17
1.3. ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh đến năng lực cạnh tranh của
hàng hóa
20
1.3.1. Chất lượng
20
1.3.2. Chính sách giá cả

22
1.3.3. Chính sách phân phối
24
Kết luận Chương 1
25
Chương 2: ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh đến năng lực cạnh tranh
của hàng Việt Nam trên thị trường Australia
27
2.1. Tổng quan về văn hóa kinh doanh Australia
27
2.1.1. Giới thiệu chung về Australia
27
2.1.2. Văn hóa Australia
30
2.1.3. Văn hóa kinh doanh của Australia
35
2.2. Vài nét về quan hệ Việt Nam – Australia
45
2.2.1. Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Australia
45
2.2.2. Quan hệ thương mại Việt Nam - Australia
46
2.3. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường Australia
50


2.3.1. Chất lượng sản phẩm
52
2.3.2. Giá thành sản phẩm
53

2.3.3. Phương pháp phân phối
54
2.3.4. Hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh
55
2.4. ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực cạnh
tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường này
56
2.4.1. Chất lượng sản phẩm
56
2.4.2. Chính sách giá cả
58
2.4.3. Chính sách phân phối
59
2.4.4. Chính sách hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh
60
Kết luận Chương 2
61
Chương 3: Giải pháp về văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia
62
3.1. Phân tích SWOT của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia
62
3.1.1. Điểm mạnh
62
3.1.2. Điểm yếu
63
3.1.3. Cơ hội
65
3.1.4. Thách thức
70

3.2. Đánh giá ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
76
3.2.1. Những thành công của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Australia
76
3.2.2. Những khó khăn tồn tại của hàng hóa Việt Nam trên thị trường
Australia
77
3.3. Giải pháp văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt
Nam trên thị trường Australia
79
3.3.1. Giải pháp vĩ mô
80
3.3.2. Giải pháp vi mô
84
Kết luận Chương 3
87
KẾT LUẬN
88


Tài liệu tham khảo
89
Phụ lục 1: Bản đồ Australia
89
Phụ lục 2: Tiếng lóng trong ngôn ngữ Anh – Australia
90
Phụ lục 3: Hiệp định Thương mại và hợp tác kinh tế giữa Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Australia
101




1
LỜI NÓI ĐẦU
I. Lời mở đầu:
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, thế giới phát triển với tốc độ nhanh
chóng hơn hẳn những giai đoạn trước cả về kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật và xã
hội. Sự phát triển của mạng thông tin toàn cầu Internet đã làm các khái niệm về biên
giới và khoảng cách trở nên lỏng lẻo. Việc kinh doanh buôn bán không thể bó hẹp
trong mỗi địa phương, mỗi quốc gia thậm chí mỗi khu vực. Vấn đề toàn cầu hóa trong
kinh doanh đã và đang trở thành hiện thực trên khắp trái đất mà gắn liền với nó là ảnh
hưởng qua lại giữa các nền văn hóa của các quốc gia.
Trong xu thế đó, Việt Nam đã chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, biểu
hiện tích cực và gần đây nhất là việc Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức thương mại thế giới WTO. Bên cạnh những cơ hội về thị trường, vốn và công
nghệ mở ra trước mắt, chúng ta cũng đang đối mặt với những thách thức về kinh
nghiệm, cạnh tranh của các thị trường khác ngày càng gay gắt. Muốn cạnh tranh được
trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế mà trước hết là các
yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá cả, thương hiệu Hiện nay, chất lượng hàng hóa
Việt Nam trên thị trường thế giới đã nhận được những phản hồi tích cực từ phía những
thị trường khó tính nhất như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản Tuy nhiên để tạo được cá biệt
hóa so với hàng hóa từ các nước đang phát triển khác, các doanh nghiệp Việt Nam cần
phải thỏa mãn được những nhu cầu về sản phẩm của từng thị trường. Nghiên cứu thị
hiếu, sở thích, thói quen và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của khách hàng
là một cách làm không quá tốn kém nhưng mang lại hiệu quả và là một chiến lược có
thể áp dụng lâu dài. Do đó, việc nghiên cứu văn hóa kinh doanh của các thị trường xuất
khẩu lớn của Việt Nam là một điều cần thiết trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa kinh doanh còn khá mới mẻ, những hiểu biết
của doanh nghiệp về vấn đề này còn ít. Điều này không chỉ gây ra những hạn chế cho


2
doanh nghiệp của Việt Nam trong buôn bán quốc tế mà đôi khi còn tạo ra những sai
lầm nghiêm trọng do những sản phẩm gây xung đột văn hóa hay những hành xử là điều
cấm kị đối với bạn hàng quốc tế. Trong kinh doanh, văn hóa được thể hiện vô cùng
phong phú dưới nhiều hình thức và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc quyết
định thành công hay thất bại của quan hệ thương mại giữa các doanh nghiệp cũng như
quốc gia.
Australia, một quốc gia phát triển rất gần Việt Nam và cùng nằm trong khu vực
kinh tế năng động Châu Á-Thái Bình Dương, đã trở thành một thị trường quan trọng
đối với các doanh nghiệp Việt Nam Điều này đã được chứng minh trong 30 năm qua
và đặc biệt những năm gần đây, các hoạt động đầu tư, thương mại cả hai chiều đạt
tăng trưởng cao. Các hoạt động đó được củng cố vững chắc thông qua hàng loạt những
chương trình hỗ trợ, hợp tác về giáo dục, môi trường Tuy nhiên kim ngạch xuất nhập
khẩu giữa hai quốc gia vẫn chưa xứng với tiềm năng dồi dào, trong đó một phần cũng
do việc chưa thống nhất về văn hóa kinh doanh của nhau.
Vì vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu văn hóa kinh doanh của Australia và ảnh
hưởng của nó đến năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam, từ đó đưa ra những giải
pháp văn hóa nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam củng cố và phát triển năng lực
cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường tiềm năng này.
II. Mục đích và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích của khóa luận gồm có điểm chủ yếu: (a) tìm hiểu lý luận về văn hóa
kinh doanh và năng lực cạnh tranh cùng tác động của văn hóa kinh doanh đến năng lực
cạnh tranh của hàng hóa, (b) đưa ra cái nhìn toàn cảnh về thị trường Australia và đánh
giá toàn cảnh năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường này và (c)
đưa ra những giải pháp văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam trên thị trường Australia.

Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào năng lực cạnh tranh của hàng hóa chứ không
phải năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, hay của quốc gia trên thị trường thế giới.


3
Về văn hóa kinh doanh, tác giả giới hạn trong những lý luận chung về văn hóa kinh
doanh và văn hóa kinh doanh của thị trường Australia.

III. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, trong quá trình thực hiện, nhóm tác giả đã
sử dụng một cách tổng hợp nhiều phương pháp, bao gồm các phương pháp chủ yếu
sau:
- Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
IV. Kết cấu bài viết.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và một số phụ lục, nội dung
của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa kinh doanh và năng lực cạnh tranh của hàng hóa.
Chương 2: ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh đến năng lực cạnh tranh của hàng
Việt Nam trên thị trường Australia.
Chương 3: Giải pháp về văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam trên thị trường Australia.
Tác giả xin chân thành cảm ơn cô giáo, TS. Nguyễn Hoàng ánh, người đã trực tiếp gợi
ý và hướng dẫn người viết hoàn thành đề tài này. Do thời gian và trình độ còn hạn chế,
công trình này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự
góp ý, phê bình của các thầy cô giáo và người đọc để công trình được hoàn thiện hơn.







4





Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA HÀNG HÓA
1.1. Tổng quan về văn hoá kinh doanh.
1.1.1. Khái niệm.
1.1.1.1. Khái niệm văn hoá.
Văn hoá kinh doanh là một bộ phận quan trọng trong giao dịch thương mại
quốc tế, đặc biệt trong thời đại hiện nay bởi phân công lao động quốc tế khiến các quốc
gia ngày càng tiến hành nhiều hoạt động thương mại với nhau. Để tìm hiểu về văn hoá
kinh doanh, trước hết phải xem xét văn hoá kinh doanh với tư cách là một bộ phận của
văn hoá.
Từ khi loài người biết sử dụng công cụ lao động, sử dụng ngôn ngữ và tồn tại như
những sinh vật xã hội, những tiền đề của văn hoá đã bắt đầu hình thành từ chính cuộc
sống của loài người như tên gọi, tục thờ cúng các vị thần. Mỗi nhóm người lại có
những đặc điểm riêng, có thể bắt nguồn từ hoàn cảnh sống, vị trí địa lý, khí hậu mà
dần hình thành những khác biệt đáng kể so với những nhóm người khác, theo thời gian
những nhóm người này phát triển thành một dân tộc, gắn liền với mỗi dân tộc là văn
hoá của họ. Cho đến năm 1952, Kroeber và Kluekholn, hai nhà nghiên cứu người Đức,
trong bài viết ―Văn hóa, nhìn lại các quan điểm và định nghĩa‖ đã thống kê được 164
định nghĩa văn hóa có thể chia làm sáu loại chính như sau:
1/ Các định nghĩa mang tính miêu tả: liệt kê tất cả những gì mà khái niệm văn

hóa bao hàm


5
2/ Các định nghĩa lịch sử, nhấn mạnh các quà trình kế thừa xã hội, truyền thống.
3/ Các định nghĩa chuẩn mực: hướng vào quan niệm về lý tưởng và giá trị.
4/ Các định nghĩa tâm lý: nhấn mạnh tới lối ứng xử của con người.
5/ Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng tới tổ chức và cấu trúc của văn hóa.
6/ Các định nghĩa biến sinh đi từ góc độ nguồn gốc văn hóa
Tuy nhiên, theo L.G. Ionin, các định nghĩa về văn hóa đều có ba điểm chung sau:
 Văn hóa là cái phân biệt giữa con người và động vật.
 Văn hóa là đặc trưng của xã hộ loài người và không được kế thừa về mặt
sinh học mà phải có sự học tập, thâu hóa.
 Văn hóa gắn liền với những tư tưởng tồn tại và được chuyển tải dưới hình
thức biểu trưng qua ngôn ngữ.
Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của mình, tác giả xin nêu một số định nghĩa tiêu
biểu về văn hóa. Heriot có một định nghĩa nổi tiếng về văn hóa: ―cái gì còn lại khi tất
cả những cái khác bị quên lãng đi – đó là văn hóa”. Theo đó, văn hoá mang tính chất
động, là một quá trình có sự tích luỹ, làm giàu cho trí tuệ nhưng không tránh khỏi quá
trình quên - đó cũng là quá trình chọn lọc tự nhiên về tri thức - và những điều còn lại
trong trí tuệ, trong tư duy, trong phong cách sống.
Từ điển Bách khoa toàn thư của Nga (nhà xuất bản Bách Khoa Xô Viết – 1988) định
nghĩa: Văn hóa là một cấp độ phát triển nhất định có tính chất lịch sử trong xã hội của
những sức mạnh sáng tạo và khả năng của con người, cấp độ này được thể hiện dưới
dạng các tổ chức đời sống và hoạt động của con người, và cũng là những giá trị tinh
thần và vật chất do con người sáng tạo ra. Văn hoá là chuẩn mực về chân, thiện mỹ
trong hoạt động của con người. Nó được xác định bởi tính chất của nền kinh tế xã hội
và nó có thể thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
Những nhà Marketing quốc tế thì phát biểu về văn hoá như sau: “Văn hoá tạo
cho con người ta cảm nhận được họ là ai, họ thuộc về cộng đồng nào, họ cần phải ứng

xử ra sao, và họ cần phải làm gì?”. Theo định nghĩa này, văn hoá của một quốc gia


6
quy định tập hợp những biểu tượng, quy tắc và giá trị có quan hệ qua lại với nhau, có
thể chia sẻ và học tập giữa các thành viên, có tác động chi phối và biện hộ cho những
hành vi ứng xử của những người trong quốc gia hay trong cộng đồng đó.
Tuy nhiên định nghĩa về văn hóa được biết đến rộng rãi hơn cả là của Federico Mayor
Laragoza, nguyên tổng giám đốc UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt
động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó
đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.

Tựu chung lại, với những định nghĩa trên đây, văn hóa được nhìn nhận trên những
thuộc tính và nội dung cơ bản sau:
- Văn hóa là cái thuộc tính bản chất của con người, chỉ có ở loài người và do
con người sinh ra.
- Đối với một cộng đồng, một dân tộc, văn hóa luôn có tính đặc thù, nó được thể
hiện ra như một kiểu sống (lối sống, kiểu ứng xử và hành động ) riêng biệt và ổn định
của họ trong lịch sử; nó có tính di tồn qua nhiều thế hệ.
- Cốt lõi của văn hóa và nhân tố qui định tính đặc thù của kiểu sống khác nhau
trong xã hội là bảng giá trị của họ.
Vậy do đâu mà có nhiều quan niệm về văn hóa? Đó là vì tính phức tạp vô cùng của văn
hóa trong thực tiễn của nó khiến về mặt nguyên tắc, không thể có một định nghĩa nào
nói lên được đầy đủ bản chất của văn hóa. Sở dĩ nói văn hóa phức tạp là vì: cả xã hội
và từng con người, cho dù nhìn vào một khía cạnh cụ thể, cũng vẫn hết sức đa dạng về
tiềm năng, về sự thực hiện, về hành động, về mối quan hệ nội tại, và về cấu trúc vận
hành. Văn hóa là một hiện tượng trừu tượng, là cả một khối gồm rất nhiều khái niệm,
hầu như không thể bản thể hóa chúng được. Do tính phức tạp như vậy, chúng ta có thể



7
coi văn hóa là một hệ thống. Đó là hệ thống những khái niệm văn hóa, hoặc những
thành tố văn hóa được tách riêng và hệ thống hóa.
1

Các định nghĩa khác nhau về văn hóa ra đời với tính chất là hậu quả tất yếu của tính
phức tạp nói trên, trong khi tìm cách định nghĩa văn hóa trong một hoàn cảnh nhận
thức mới xuất hiện, khi người ta cần phải giải quyết vấn đề cụ thể nào đó. ở đây, do
mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả muốn sử dụng định nghĩa của
Czinkota, theo đó: "Văn hoá là một hệ thống những cách cư xử đặc trưng cho các
thành viên của bất kỳ một xã hội nào. Hệ thống này bao gồm mọi vấn đề, từ cách nghĩ,
nói, làm, thói quen, ngôn ngữ, sản phẩm vật chất và những tình cảm - quan điểm chung
của các thành viên đó.
Như vậy chúng ta thấy rằng khái niệm ―văn hoá‖ tồn tại trong mọi lĩnh vực xã hội:
trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày, trong quan hệ ngoại giao, trong đời sống chính trị
xã hội, văn học nghệ thuật v.v Và tất nhiên việc kinh doanh cũng không thể nằm
ngoài cuộc sống xã hội đa dạng nói trên. Song hành cùng những điều kiện tối cần thiết
của kinh doanh như nguồn vốn, hàng hoá, nguồn nhân lực, nhu cầu giữa các bên v.v ,
văn hoá kinh doanh góp một phần không nhỏ trong sự thành bại của sự nghiệp kinh
doanh.
1.1.1.2. Khái niệm văn hoá kinh doanh.
Vai trò của văn hóa đối với cá nhân và xã hội đã được khẳng định từ lâu, song ảnh
hưởng của nó tới kinh tế và kinh doanh như thế nào thì gần đây mới được các nhà khoa
học nghiên cứu xem xét. Người ta đã tìm thấy dấu ấn đặc biệt của văn hóa trong sự
phát triển kinh tế của các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Thực tế này không chỉ
buộc các nhà kinh tế học thừa nhận tác động của các yếu tố văn hóa vào quá trình phát
triển kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trò của văn hóa cũng như tầm quan trọng của

1

A.A.Radugin – Từ điển bách khoa văn hóa học



8
việc đưa các yếu tố văn hóa vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sự xuất hiện thuật
ngữ ―văn hóa kinh tế‖, ―văn hóa kinh doanh‖ bao hàm sự thay đổi sâu sắc này.
Trong kinh doanh, mối quan hệ giữa văn hóa và kinh doanh cũng đặt ra vấn đề tương
tự cả cho các nhà nghiên cứu lẫn những người hoạt động kinh doanh trực tiếp. Khi mà
bản chất của hoạt động kinh doanh là kiếm được nhiều lợi nhuận cho chủ thể - đó là
động cơ quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất – thì yếu tố văn hóa phải chăng chỉ xếp hàng
thứ yếu hoặc có khi bị loại bỏ nếu gây cản trở cho mục tiêu lợi nhuận? Câu trả lời lại
phụ thuộc vào các chủ thể kinh doanh cụ thể. Nhưng không phải mọi cuộc kinh doanh
đều bị thúc đẩy, dẫn dắt chỉ bằng mục tiêu lợi nhuận. Bởi động cơ của các nhà kinh
doanh không chỉ là sự giàu có (nhằm thỏa mãn những nhu cầu sinh lý, bản năng trong
tháp nhu cầu của Maslow) mà còn là nhu cầu có tính văn hóa (như mong muốn được
xã hội tôn trọng, mong muốn được tự thể hiện, sáng tạo). Bên cạnh đó, lợi nhuận
không phải là vật chuẩn và lực lượng hướng dẫn duy nhất đối với hoạt động kinh
doanh, cùng với nó còn có pháp luật và văn hóa.
Văn hóa kinh doanh cũng giống như văn hóa vậy, khó có định nghĩa chính xác về nó.
Tuy nhiên, mới đây, TS. Đỗ Minh Cương trong cuốn ―Văn hóa kinh doanh và triết lý
kinh doanh‖ đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa kinh doanh nói lên khá đầy đủ bản
chất như sau: Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt
động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong
quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ.
Khái niệm này có ưu điểm là đã chỉ ra được sư khác biệt giữa văn hóa kinh doanh và
văn hóa trong kinh doanh (là những yếu tố của văn hóa dân tộc trong kinh doanh).
Định nghĩa này đã nêu lên hai phương diện (thành tố hay vi hệ) chính của văn hóa kinh
doanh. Một là: Các nhân tố văn hóa được vận dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra
các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn

hóa. Nói tóm lại, đây là kiểu kinh doanh có văn hóa, lối kinh doanh phù hợp với văn
hóa dân tộc. Hai là: Các giá trị, sản phẩm văn hóa như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng,
nghệ thuật mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của họ,


9
có tác dụng cổ vũ, biểu dương đối với kiểu kinh doanh có văn hóa mà họ đang theo
đuổi. Nói gọn lại, đây là lối sống có văn hóa của các chủ thể kinh doanh. Mối quan hệ
giữa hai phương diện này là mối quan hệ biện chứng và hữu cơ với nhau.
Phương diện thứ hai của định nghĩa này là thành tố mang màu sắc quản trị hay nói
chính xác, nó là văn hóa doanh nghiệp. Vì không nằm trong mục đích nghiên cứu của
đề tài , xin không đề cập nhiều đến phần này mà chúng tôi chỉ nêu ra với mục đích
phân biệt giữa văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp do có sự nhầm lẫn nhất
định giữa hai khái niệm này.
Trong hội thảo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương về chủ đề văn hóa và kinh doanh
(1996), GS. Phạm Xuân Nam đã đưa ra khái niệm về văn hóa kinh doanh. ―Văn hóa
kinh doanh là phương pháp kinh doanh bằng cách nắm bắt thông tin, ra sức cải tiến kỹ
thuật công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, quan tâm thích đáng tới đời sống vật
chất tinh thần của người lao động, bồi thường và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ
trong việc tạo ra những hàng hóa và dịch vụ có chất lượng tốt, hình thức đẹp, giá cả
hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, giữ được chữ tín với người tiêu dùng
trong và ngoài nước”.
Khái niệm này đã khắc phục được những nhược điểm trong quan điểm về văn hóa kinh
doanh của TS. Đỗ Minh Cương, tuy nhiên vẫn có đôi chỗ còn hạn chế về đối tượng
nghiên cứu. Trong cách hiểu khái niệm về văn hóa kinh doanh, nếu thiên về hướng
hiểu là kinh doanh có văn hóa và phi văn hóa thì sẽ hạn chế một số đối tượng nghiên
cứu bởi bản thân văn hóa là thói quen được chấp nhận chung và là một phạm trù lịch
sử, bởi thế không thể mang văn hóa của một nơi, một dân tộc để làm mốc trong khi
nghiên cứu các nền văn hóa khác. Trong tiếng Việt, chúng ta có xu hướng coi văn hóa
là thể hiện ―trình độ cao trong sinh hoạt văn hóa xã hội, biểu hiện của văn minh (ví dụ:

gia đình văn hóa), nên thường gán cho văn hóa kinh doanh ý nghĩa giáo dục, tức là làm
mất đi tính khách quan của văn hóa. Không thể lấy những tiêu chí để đánh giá văn hóa
của một dân tộc, một quốc gia để nhận xét, đánh giá văn hóa của dân tộc, quốc gia


10
khác. Chẳng hạn, văn hóa Việt Nam coi mại dâm là một hành động xấu, không được xã
hội chấp nhận và kinh doanh mại dâm là phạm pháp. Tuy nhiên ở Hà Lan hay Thái Lan
thì mại dâm là một ngành nghề kinh doanh được sự cho phép của chính phủ như những
ngành kinh doanh khác, nên nếu xếp kinh doanh mại dâm vào kinh doanh phi văn hóa
là không chính xác.
Có một các hiểu về văn hóa kinh doanh được chấp nhận phổ biến hơn và rộng rãi hơn
của các nhà nghiên cứu trong Viện Kinh doanh Nhật Bản – Hoa Kỳ (Japan American
Business Academy – JABA) đưa ra trong cuộc hội thảo mang tên ―Mở khóa vào tư duy
kinh doanh của người Nhật‖ (Unlocking te Japanese Business Mind), tổ chức vào
tháng 4 năm 1997: ―Văn hóa kinh doanh có thể được định nghĩa như ảnh hưởng của
những mô hình văn hóa của một xã hội đến những thiết chế và thông lệ kinh doanh của
xã hội đó”.
Như vậy, tổng hợp lại, có thể có một cách hiểu toàn diện, bao quát, rõ ràng và gần gũi
với các định nghĩa về văn hóa kinh doanh nêu trên:
Văn hóa kinh doanh là sự thể hiện phong cách kinh doanh của một dân tộc. Nó bao
gồm các nhân tố rút ra từ văn hóa dân tộc, được các thành viên trong xã hội vận dụng
vào hoạt động kinh doanh của mình và cả những giá trị, triết lý…mà các thành viên
này tạo ra trong quá trình kinh doanh”
1
.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến văn hoá kinh doanh.
Văn hoá kinh doanh có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi tiêu dùng của khách hàng
trên một khu vực thị trường hay phân đoạn thị trường xác định, bởi vậy việc nghiên
cứu văn hoá kinh doanh là rất quan trọng đối với các nhà sản xuất. Văn hoá kinh doanh

là một bộ phận của văn hoá nói chung như đã đề cập, bởi vậy để nghiên cứu và có
những giải pháp thích hợp, chúng ta cần nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa
kinh doanh.

1
Nguyễn Hoàng Ánh - Luận án Tiến sĩ ―Vai trò của Văn hóa kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hóa
kinh doanh ở Việt Nam‖,


11
1.1.2.1. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ với vai trò là công cụ lưu trữ và truyền đạt thông tin đã là nguồn gốc
của mọi nền văn hóa. Ngôn ngữ cấu thành phần chủ yếu của văn hoá kinh doanh và khi
tham gia vào thương mại quốc tế, các doanh nhân phải tìm cách vượt qua nó. Tuy tiếng
Anh đã trở thành ngôn ngữ thương mại quốc tế, việc am hiểu ngôn ngữ địa phương của
thị trường mà sản phẩm chiến lược được dự tính sẽ thâm nhập. Người dân địa phương
luôn hoan nghênh và có thiện cảm khi người nước ngoài nói và hiểu được ngôn ngữ
bản xứ nên ngôn ngữ có thể coi là ―chìa khoá‖ mở cánh cửa ban đầu vào một thị
trường. Mỗi ngôn ngữ đều có những đặc trưng riêng, chẳng hạn như cùng sử dụng
tiếng Anh tuy nhiên lại có sự khác biệt giữa tiếng Anh được sử dụng tại Anh, Mỹ,
Australia, Canada, New Zealand hay Singapore, và rất khác các nước sử dụng tiếng
Anh như ngôn ngữ thứ 2 từ âm điệu, cách dùng từ và văn phong. Người Mỹ ưa sử dụng
tiếng Anh tự do và sinh động, trong khi người Anh ưa chuộng khuôn mẫu và mô phạm,
người Australia lại có một âm điệu rất riêng. Tiếng Anh đựơc sử dụng tại châu á
thường có xu hướng pha trộn với ngôn ngữ bản xứ, người Pháp và người Đức mang
ảnh hưởng rất mạnh của ngôn ngữ mẹ đẻ của họ nhưng họ rất tự hào và không coi việc
hoàn thiện ngữ âm là việc cần thiết.
1.1.2.2. Tôn giáo:
Tôn giáo là một yếu tố quan trọng của văn hóa, ảnh hưởng đến nhiều đức tin và thái độ
trong cách cư xử của con người. Nó được định nghĩa như là một hệ thống các tín

ngưỡng và nghi thức liên quan tới yếu tố tinh thần của con người. Bởi vậy nó như một
quy ước những điều được làm và không được làm trong một xã hội, tôn giáo ảnh
hưởng tới văn hoá kinh doanh thông qua sự chấp thuận của tôn giáo đó đối với một loại
sản phẩm nhất định. Hiểu tôn giáo có ảnh hưởng thế nào đến tập quán kinh doanh là
đặc biệt quan trọng. Những quan niệm, động cơ trong công việc của các tín đồ chịu tác
động đầu tiên. Có thể thấy người châu Âu và người Mỹ, ở nơi mà đạo Tin lành phổ
biến, thường xem công việc là một phẩm chất đạo đức, rất coi khinh kẻ biếng nhác. Họ
coi sống là để làm việc và tìm được niềm vui trong công việc. Còn những người Hồi


12
giáo lại phải nhịn ăn từ sáng tới chiều trong suốt tháng Ramadan, cầu nguyện 5 lần /
ngày khiến cho năng suất lao động giảm. Loại hàng hóa và dịch vụ được chấp nhận
cũng chịu ảnh hưởng của tôn giáo. Đạo Hồi cấm tiêu dùng thịt lợn và rượu, trong khi
Hinđu giáo cấm dùng thịt bò.
1.1.2.3. Các giá trị và thái độ
Các giá trị là những gì thuộc về quan niệm, niềm tin và tập quán gắn với tình cảm con
người. Các giá trị là quan trọng đối với kinh doanh vì nó ảnh hưởng tới ước muốn vật
chất và đạo đức nghề nghiệp của con người. Chẳng hạn ở Mỹ giá trị là tự do cá nhân,
còn ở Nhật đó là sự đồng lòng tin cậy trong tập thể. Giá trị là thứ ăn sâu trong mỗi nền
văn hóa, có ảnh hưởng mạnh tới hầu hết các phương diện của văn hóa.
Các thái độ là những đánh giá, tình cảm và khuynh hướng tích cực hay tiêu cực của
con người đối với một khái niệm hay một đối tượng nào đó. Giống như giá trị, thái độ
được hình thành do học tập từ các khuôn mẫu xã hội. Tuy nhiên, các giá trị là khá cứng
nhắc trong khi thái độ lại linh hoạt hơn, cùng một giá trị có thể có những thái độ khác
nhau ở từng nền văn hóa.
1.1.2.4. Phong tục tập quán
Phong tục tập quán là cách cư xử, ăn mặc, nói năng hay chung chung hơn là thói quen
được truyền bá qua nhiều thế hệ và nó trở thành quy ước trong xã hội. Tuy không bắt
buộc nhưng nhiều khi hiểu biết các phong tục tập quán của một dân tộc có thể mang về

cho các doanh nhân những lợi ích to lớn. Tặng quà nhân ngày lễ, sinh nhật, cưới hỏi
và cho các đối tác kinh doanh là một phong tục có ở nhiều quốc gia, tuy nhiên nó khác
nhau ở mức độ giá trị và từng món quà, cũng như cách người ta nhận quà. ở Nhật, quà
phải được gói một cách cẩn thận và tinh tế (đòi hỏi người gói quà phải được đào tạo về
công việc này) để biểu lộ lòng tôn kính.
1.1.2.5.Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất là những công cụ, kỹ thuật sản xuất, các loại công nghệ và mức tiến
bộ của chúng, những thuộc tính vật chất của xã hội. Văn hoá vật chất quyết định đến


13
thói quen của người dân, do đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi mua sắm của họ.
Chẳng hạn sự ra đời của chiếc máy nghe nhạc số Ipod đã làm giới trẻ toàn cầu thay đổi
văn hoá nghe nhạc của họ, thay vì nhạc trên đài hoặc đĩa CD trong một không gian mở
với một vài thành viên khác trong gia đình hoặc bạn bè thì giờ đây, chiếc máy nghe
nhạc cá nhân đã tạo cho người sử dụng một thế giới riêng với những âm thanh mà chỉ
mình họ nghe được. Tất nhiên chưa thể đánh giá tác động này của chiếc máy nghe nhạc
Ipod tới giới trẻ là tốt hay không tốt (nó mang lại cho người ta nhiều tự do cá nhân hơn
nhưng cũng làm cho giao tiếp xã hội giảm sút) nhưng rõ ràng nó đã thay đổi thói quen
cũng như hoàn cảnh nghe nhạc của người sử dụng.
1.1.2.6. Thẩm mỹ
Thẩm mỹ là những gì mà một nền văn hóa cho là đẹp khi xem xét đến các khía cạnh
như nghệ thuật (bao gồm hội hoạ, kiến trúc, âm nhạc, nhảy múa, kịch nói ); hình ảnh
thể hiện gợi cảm qua các biểu hiện; và sự tượng trưng của các màu sắc. Màu sắc, hình
tượng, âm nhạc, kiến trúc là những yếu tố thẩm mỹ có thể gây xung đột giữa các nền
văn hóa khác nhau. Một hãng khi có ý định kinh doanh ở một nền văn hóa khác không
thể không chú ý tới vấn đề này. Quan niệm về cá đẹp của các nền văn hóa khác nhau
hoàn toàn không giống nhau, nếu như một cô gái châu á có nước da bánh mật tiêu tốn
nhiều tiền vào việc mua kem làm trắng da hay băn khoăn trước gương hàng giờ suy
nghĩ xem mình có ――đen‖ quá không‖ thì những cô gái Châu Âu và Mỹ lại tiêu tốn

không ít tiền đến các trung tâm thẩm mỹ để tắm nắng nhân tạo hoặc bôi kem làm nâu
da để có làn da rám nắng. Đó là do quan niệm về cái đẹp khác nhau của các nền văn
hóa Âu và Á.
1.1.2.7. Giáo dục
Giáo dục là nhân tố quan trọng của văn hóa. Giáo dục là cách thức chính dạy con người
biết được tri thức và góp phần lớn hình thành nên tính cách của mỗi cá nhân. Giáo dục
chính là cầu nối giữa các thế hệ của một nền văn hóa, nó dạy lại cho các thế hệ sau
những thành quả tri thức của cha ông.


14
Văn hoá kinh doanh của một quốc gia được cấu thành từ chính những con người mà
bản thân họ trưởng thành từ nền giáo dục của quốc gia đó, thông qua trường lớp và gia
đình. Do đó với các nước phương Đông với hệ thống giáo dục mang nặng tính kỷ luật,
cách tiếp cận thị trường sẽ khác với các nước phương Tây với một nền giáo dục dân
chủ.
1.1.2.8. Cấu trúc xã hội
Cấu trúc xã hội thể hiện cấu tạo nền tảng của một nền văn hóa, bao gồm các nhóm xã
hội, các thể chế, hệ thống địa vị xã hội, mối quan hệ giữa các địa vị này và quá trình
qua đó các nguồn lực được phân bổ. Các yếu tố quan trọng của cấu trúc văn hóa dùng
để phân biệt các nền văn hóa khác nhau là: Các nhóm xã hội, địa vị xã hội và tính linh
hoạt của xã hội. ở các nước phương Tây, thứ bậc trong xã hội không rõ nét như ở
phương Đông (có thể thấy ngay từ đại từ nhân xưng ở các nước châu á, ngôi thứ của
người tham gia vào đối thoại được phân biệt rõ giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội và quan
hệ giữa những người nói với nhau). Khi vận dụng văn hoá kinh doanh để tiếp cận thị
trường, việc nhắm tới chính xác đối tượng là khách hàng tiềm năng phụ thuộc vào việc
định vị đối tượng trong cấu trúc xã hội.
1.2. Năng lực cạnh tranh.
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh.
Cạnh tranh, nói chung, là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng

đầu trong một lĩnh vực hoạt đồng nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao
nhất.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có cạnh tranh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không
tồn tại và phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài.
Trong kinh tế, cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm (hàng
hóa và dịch vụ) bằng các phương pháp và biện pháp khác nhau như kỹ thuật, kinh tế,
chính trị, quân sự, tâm lý xã hội. Biện pháp kỹ thuật là áp dụng công nghệ hiện đại,
máy móc, thiết bị tiên tiến công nhân có trình độ lành nghề cao; biện pháp kinh tế như


15
trợ cấp tài chính bảo hộ, cho vay ưu đãi, bán phá giá, v.v biện pháp chính trị - kinh tế
là dùng áp lực chính trị để buộc đối phương phải nhượng bộ một hoặc một số điều kiện
thương mại nào đó có lợi cho mình, biện pháp quân sự như gây chiến tranh cục bộ,
hoặc chiến tranh thế giới để gây ảnh hưởng và chiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong cạnh tranh nảy sinh có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh tranh
yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh tranh
yếu. Khả năng cạnh tranh đó được gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, xuất phát từ ―tự do kinh tế‖ mà adam
smith đã phát hiện. Nhờ cạnh tranh mà xã hội loài người ngày càng phát triển về mọi
mặt. Cạnh tranh kích thích lòng tự hào, ý chí vươn lên ham muốn làm giàu, ham muốn
khám phá cái mới, nhờ đó mà thúc đẩy khoa học – kỹ thuật phát triển, làm mọi ngành
kinh tế, mọi doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà
phát triển ra phạm vi toàn cầu (mà người ta gọi là công ty đa quốc gia).
Nhiều người đã từng đặt câu hỏi tại sao các doanh nghiệp sản xuất vẫn có thể bán
được hàng hóa khi trên thị trường đã có rất nhiều nhà sản xuất với các mặt hàng tương
tự, thậm chí các doanh nghiệp thành đạt thường tập trung ở một số thành phố, khu vực
nhất định. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, rất nhiều nhà kinh doanh bất động sản thành công đều
tập trung ở Dallas, Texas, các nhà cung cấp nhiên liệu và khí đốt ở Houston, các hệ

thống quản trị bệnh viện cao cấp mọc lên như nấm ở Nashville, Tennessee, các nhà sản
xuất thảm ở Dalton, Georgia, các ông chủ sản xuất giầy ở Oregon, các nhà cung cấp
các sản phẩm điện thoại cố định kéo dài ở Elkhart, Indiana và các công ty sản xuất máy
tính xách tay ở Boston. Đó chính là môi trường cạnh tranh tạo ra sức cạnh tranh giữa
các nhà sản xuất với nhau, đạt được tiêu chuẩn của cộng đồng các nhà sản xuất trong
khu vực đó đồng nghĩa với việc hòa nhập được một cộng đồng mà sản phẩm của nó có
năng lực cạnh tranh hơn hẳn các khu vực sản xuất khác.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, ít có những tranh luận và nghiên cứu về hiệu
quả kinh tế trong mối quan hệ với hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại mà
lại không đề cập đến thuật ngữ năng lực cạnh - competitiveness. Thuật ngữ này được


16
nhắc nhiều ở Việt Nam, nhất là khi Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế như:
mở cửa và cải cách hệ thống thương mại, cam kết thực hiện CEPT/AFTA với tư cách
là thành viên của ASEAN, trở thành thanh viên chính thức của APEC (11/1998), ký
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (7/2000) và đang nỗ lực đàm phán gia nhập WTO.
Năng lực cạnh tranh là một khái niệm để chỉ khả năng tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế hay doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Theo báo cáo
của Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum) có chỉ rõ:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia (national competitiveness): là khả năng của nền kinh
tế nhằm đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế
bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác.
- Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp (competitiveness of company, products and
services): đó là năng lực tồn tại, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị
trường cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp và tổ chức của một quốc gia có năng lực cạnh tranh thì quốc gia
đó sẽ có năng lực cạnh tranh. Hiện nay chưa có một định nghĩa nào về năng lực cạnh
tranh cụ thể (năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh quốc gia) được
mọi người công nhận. Theo Michael Porter – người từng làm việc trong Hội đồng cố

vấn bên cạnh Tổng thống Mỹ: không có định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh được
thừa nhận một cách phổ biến. Đối với các lãnh đạo doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh
có nghĩa là sức cạnh tranh trên thị trường thế giới nhờ áp dụng chiến lược toàn cầu mà
có được. Đối với nhiều nghị sĩ quốc hội sức cạnh tranh là xuất siêu trong ngoại thương.
Đối với một số nhà kinh tế học, sức cạnh tranh là giá thành thấp của đơn vị sức lao
động dựa vào điều chỉnh hối suất. Cuộc tranh luận về sức cạnh tranh cho tới những
năm 90 của thế kỷ XX vẫn diễn ra sôi nổi và có phần gay gắt. Trên cơ sở đó, OECD
đưa ra định nghĩa sau: ―Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao
trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các


17
ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế‖
1
.

Hội đồng về sức cạnh tranh của Mỹ đề nghị định nghĩa năng lực cạnh tranh là năng
lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua thử thách trên
thị trường thế giới trong khi sức sống của dân chúng có thể được nâng cao một cách
vững chắc, lâu dài.
Trong từ điển thuật ngữ chính sách thương mại, ―năng lực cạnh tranh là năng lực của
một doanh nghiệp hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành
khác đánh bại về năng lực kinh tế”
2
Hiện nay chưa có một khái niệm được thống nhất
rộng rãi về năng lực cạnh tranh của sản phẩm, nhưng qua các định nghĩa trên, có thể
hiểu năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng một sản phẩm được tiêu thụ trên thị
trường nơi có sự tham gia của nhiều sản phẩm tương tự khác.



1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh.
Muốn nói đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm, cần phải hiểu các yếu tố tạo ra năng
lực cạnh tranh của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản
phẩm đó bán được nhiều và nhanh chóng khi trên thị trường có nhiều người cùng bán
loại sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố:
chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, thời gian cung cấp, dịch vụ đi kèm, điều kiện
mua – bán, danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp, thương hiệu, v v
1.2.2.1. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là mức độ của một tập hợp các đặc tính của sản phẩm làm thỏa
mãn nhu cầu.

1
Bạch Thụ Cường, Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, H, 2002, tr.323
2
Dictionary of Trade Policy, University of Adelaide, 1997



18
Một số sản phẩm có nhiều đặc tính, nhiều chỉ tiêu chất lượng. Nếu tập hợp các đặc tính
đó làm thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng thì sản phẩm mới được gọi là có chất
lượng. Trong các chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm có những chỉ tiêu đặc biệt quan
trọng như chỉ tiêu an toàn vệ sinh, có những chỉ tiêu quan trọng như chỉ tiêu về công
dụng, thẩm mỹ, kinh tế, có những chỉ tiêu ít quan trọng. Mặc dù vậy, nếu có một chỉ
tiêu nào đó không đảm bảo yêu cầu (dù đó là chỉ tiêu ít quan trọng) thì sản phẩm không
có chất lượng, ở đây không có quy luật bù trừ. Nói chung về chất lượng sản phẩm hữu
hình biểu hiện ở hai mặt là trình độ kỹ thuật của sản phẩm và mặt kinh tế. Trình độ kỹ
thuật của sản phẩm thể hiện qua các chỉ tiêu an toàn, vệ sinh, thẩm mỹ, công dụng, tiện
dụng. Mặt kinh tế thể hiện ở chi phí sản xuất, chi phí đảm bảo chất lượng, chi phí sử

dụng và chi phí môi trường.
Đối với dịch vụ thì chất lượng thể hiện ở:
- sự đảm bảo của dịch vụ, tức là dịch vụ phải luôn luôn đảm bảo chất lượng,
an toàn, mang lại lòng tin cho khách hàng, đảm bảo tính chính xác của dịch
vụ.
- trách nhiệm cao của nhân viên, mọi nhiên viên phải nhận thức đầy đủ trách
nhiệm của mình trong việc phục khách hàng, sẵn sàng giúp đỡ khách hàng
của mình ngay cả những việc ngoài trách nhiệm của mình, vui vẻ, hòa nhã
tận tình với khách hàng.
- trang thiết bị, kỹ thuật để tiến hành dịch vụ phải mang tính hiện đại, tạo
cho dịch vụ tính văn mình đồng thời phục vụ với năng suất cao. Đây là một
tiêu chí khá quan trọng. Khách hàng luôn quan sát sự biểu hiện bên ngoài
của dịch vụ để đánh giá. Đó là cảnh quan môi trường trong và ngoài nơi
cung cấp dịch vụ, trang phục của nhân viên, nếp văn hóa của doanh nghiệp
dịch vụ.
- Giá cả hợp lý.
- Tạo sự khác biệt so với các dịch vụ cùng loại. Ví dụ như tạo không gian
thư giãn (đọc sách, xem tranh, ca nhạc) quà tặng, v v


19
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng lớn vào quá trình nghiên cứu, thiết kế, tạo sản
phẩm, phân phối và các yếu tố bên trong, bên ngoài các của doanh nghiệp. Ngoài ra,
chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào yếu tố con người, công nghệ, máy móc – thiết
bị, nguyên vật liệu và môi trường.
1.2.2.2. Yếu tố giá cả.
Giá cả là yếu tố quan trọng thứ hai của năng lực cạnh tranh của sản phẩm sau yếu tố
chất lượng.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển với trình độ cao, chất lượng sản phẩm của
các công ty gần như tương đối giống nhau thì giá cả là yếu tố trở nên hấp dẫn. Nói

―chất lượng là yếu tố hàng đầu‖, đó là xu thế chung. Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn có
nhiều nước đang phát triển, nơi mà giá cả là yếu tố thu hút đối với họ. Ngay cả tại Mỹ,
một thị trường với số lượng người tiêu dùng giàu có thì giá cả vẫn có thể làm khuynh
đảo một số công ty, và để tồn tại được, họ đã kiện hàng hóa nước ngoài bán phá giá sản
phẩm vào thị trường nội địa.
Để có giá cả thấp, doanh nghiệp phải tìm mọi cách giảm chi phí, hạn chế tối đa phế
phẩm hoặc tỷ lệ phế phẩm để không tốn chi phí cho sửa chữa, kiếm tra, bồi thường khi
khách hàng khiếu nại về phẩm chất; đồng thời cũng phải sử dụng hiệu quả các nguồn
lực và áp dụng những phương pháp quản lý hiện đại. Giảm chi phí là điều kiện rất quan
trọng để sản phẩm có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh so với các hàng hóa có
chất lượng tương đương của các đối thủ cạnh tranh.
1.2.2.3. Thời gian và địa điểm cung cấp hàng hóa.
Nếu như hai yếu tố chất lượng và giá cả là hai yếu tố hữu hình và nội tại của sản phẩm
thì thời gian và địa điểm cung cấp hàng hóa phụ thuộc nhiều vào chính sách phân phối.
Một sản phẩm có được năng lực cạnh tranh tối đa ở hai yếu tố trên nhưng được phân
phối vào thị trường không đúng lúc, đúng chỗ thì cũng không thu được lợi nhuận bởi
khi đó, thị trường đã không cần sản phẩm này nữa, hoặc xu hướng tiêu dùng đã thay
đổi. Cung cấp hàng hóa kịp thời làm cho đối tác không lỡ kế hoạch, không mất thời cơ,


20
là yếu tố thu hút các đơn đặt hàng nhờ đó doanh thu của doanh nghiệp có thể tăng lên
tới 15- 2-% so với nhịp độ bình thường.
Để cung cấp hàng hóa đúng lúc đúng chỗ, cần phải đảm bảo rằng các yếu tố sản xuất
có độ tin cậy cao, không xảy ra trục trặc trong quá trình sử dụng. Muốn vậy cần phải
kiểm soát và phòng ngừa tốt, bảo dưỡng tốt, sử dụng công nghệ hiện đại, lập kế hoạch
mua sắm, sản xuất cùng ứng cụ thể, sử dụng các phương pháp hiện đại trong quản lý
(jit – just In time), phương pháp TQM (total quality management).
Cung cấp hàng hóa dịch vụ đúng chỗ đòi hỏi phải nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng đồng
thời phải nhanh nhậy và đưa ra những quyết định táo báo, không cứng nhắc rập khuôn.

Tổ chức tốt mạng lưới phân phối cũng là yếu tố góp phần làm việc cung cấp hàng hóa
vào đúng thời gian và địa điểm, giúp sản phẩm có được sức cạnh tranh tốt.
1.2.2.4. Các dịch vụ hỗ trợ.
Các dịch vụ hỗ trợ tuy không phải là một phần của sản phẩm nhưng lại tác động mạnh
mẽ đến hành vi mua hàng của khách hàng. Chẳng hạn như thái độ niềm nở, lễ phép,
đúng mực của nhân viên, sự nhiệt tình hướng dẫn khách hàng về tính năng, đặc điểm,
cách sử dụng sản phẩm. Sau khi bán hàng, việc hậu mãi tốt sẽ giúp duy trì những khách
hàng trung thành. Dịch vụ đi kèm là hoạt động rất cần thiết để thu hút khách hàng đến
với sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp.




1.3. Ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Văn hóa được truyền bá
giữa các quốc gia thông qua nhiều con đường khác nhau trong đó chủ yếu là buôn bán
kinh tế, giao lưu hợp tác văn hóa. Cũng vì thế tác động của văn hóa kinh doanh đến
thương mại thế giới ngày càng lớn, trong đó có năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Các
yếu tố của văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa kinh doanh như đã trình bày ở


21
trên như ngôn ngữ, tôn giáo, giá trị và thái độ, phong tục tập quán, văn hóa vật chất,
thẩm mỹ giáo dục và cấu trúc xã hội tuy trực tiếp ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh,
nhưng để phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, tác giả xin phân
tích theo quan điểm của marketing hiện đại.
1.3.1. Chất lƣợng sản phẩm.
Chất lượng là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Chất lượng hàng hóa chính là sự thỏa mãn nhu cầu về hàng hóa này của
người mua, bởi vậy cho dù các yếu tố khác có tốt đến đâu nhưng hàng hóa không đảm

bảo về mặt chất lượng là người tiêu dùng sẽ từ chối sử dụng hàng hóa đó. Ngược lại,
nếu chất lượng của sản phẩm có tính vượt trội thì sản phẩm đó được coi là cá biệt hóa,
doanh nghiệp có thể quyết định được giá bán của sản phẩm. Chẳng hạn, Brazil đã từng
tiêu hủy một lượng hạt cà phê Arabica khi cà phê nước này năm đó quá được mùa.
Nguyên nhân là do nếu quá nhiều cà phê Arabica được bán ra thì không được giá nên
việc tiêu hủy trên nhằm để tạo sự khan hiếm. Tuy nhiên, việc này không thể áp dụng
được ở các nước khác do tính đặc biệt của cà phê Arabica Brazil vì chất lượng tốt và
đặc biệt hơn hẳn.
Một ví dụ khác về chất lượng sản phẩm là ví dụ chất lượng không đảm bảo của hàng
hóa khiến hàng hóa không còn năng lực cạnh tranh dù giá cả, phân phối có tốt đến đâu.
Đó là trường hợp của đồ chơi trẻ em có xuất xứ từ Trung Quốc sau khi bị Hiệp hội bảo
vệ người tiêu dùng Hoa Kỳ phát hiện có chứa hàm lượng chì quá cao trong sơn vỏ
ngoài. Một làn sóng phản đối hàng hóa Trung Quốc dâng lên ở các nước Châu Âu, Bắc
Mỹ, Australia và New Zealand. Thậm chí ở các chuỗi siêu thị ở Adelaide, Australia
còn có những tấm biển quảng cáo ―China Free‖ (Không có đồ Trung Quốc) nhằm đảm
bảo chất lượng hàng hóa với khách hàng. Nếu chất lượng hàng hóa không được đảm
bảo, hậu quả nó mang lại cho ngoại thương của một quốc gia hết sức trầm trọng.
Một yếu tố cũng ảnh hướng đến chất lượng sản phẩm là quy luật lợi lích cận biên giảm
dần (marginal ulitity). Quy luật này chỉ ra rằng người tiêu dùng sẽ cảm thấy ít được
thỏa mãn hơn khi tiêu dùng hàng hóa hay dịch vụ sau càng nhiều lần sử dụng.

×