Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Đẩy mạnh công tác xây dựng đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.02 KB, 31 trang )

1
Đẩy mạnh công tác xây dựng đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng trong quân đội hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo, là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng là người định ra
đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, là người tổ chức,
động viên quần chúng tiến hành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng
mà Đảng đề ra.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội là nguyên tắc căn bản nhất trong xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng. Có Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam mới có mục
tiêu chiến đấu đúng đắn, có lập trường cách mạng vững vàng, mới trở thành
lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Có Đảng lãnh đạo quân đội ta mới thực sự là một quân đội
cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn
sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao
cho.
Trong suốt quá trình tổ chức và lãnh đạo quân đội, để thực hiện sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội, Đảng đã thiết lập và
không ngừng củng cố hệ thống tổ chức đảng trong quân đội, làm hạt nhân
lãnh đạo ở từng đơn vị. Nhìn lại chặng đường đã qua, đặc biệt là ở những
bước ngoặt của cách mạng, nhiệm vụ chính trị, quân sự có sự phát triển mới,
u cầu cao hơn, địi hỏi từng đảng viên và tổ chức đảng phải nỗ lực phấn đấu
vươn lên, vượt qua thử thách mới để giành thắng lợi. Đảng bộ quân đội đã
lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng giao cho,
xây dựng đảng bộ trưởng thành vững mạnh về mọi mặt, năng lực lãnh đạo,


2


sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng không ngừng nâng lên, xứng đáng
là lực lượng tiên phong, hạt nhân đoàn kết lãnh đạo ở đơn vị cơ sở.
Những năm qua, việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương về
đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tồn
Đảng nói chung, các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội nói riêng, đã tích cực
triển khai, qn triệt, tổ chức thực hiện và đã đạt được những kết quả bước
đầu. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chức năng lãnh
đạo của các tổ chức đảng trong quân đội cũng còn bộc lộ những yếu kém,
khuyết điểm, ảnh hưởng tiêu cực đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh những thuận lợi do thành tựu của sự
nghiệp đổi mới đem lại, những khó khăn và nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn
tiếp tục tồn tại, diễn biến đan xen phức tạp. Các thế lực thù địch ráo riết thực
hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhiệm vụ của quân đội có những
yêu cầu mới và ngày càng nặng nề, trong bối cảnh đó, để hồn thành nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội là một yêu cầu cơ
bản và bức thiết trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
* Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là một phạm
trù của công tác xây dựng Đảng, nó phản ánh phẩm chất, năng lực, phương
pháp, tác phong công tác của tổ chức cơ sở đảng, được thể hiện ở trên tất cả
các khâu, các bước trong chu trình lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và phải
được kết tinh ở kết quả lãnh đạo đơn vị hồn thành thắng lợi nhiệm vụ chính
trị đặt ra.



3
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là kết quả tổng hợp phẩm
chất, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn, phong cách công tác của đội ngũ
cán bộ, đảng viên và hiệu quả chấp hành hệ thống các nguyên tắc tổ chức,
lãnh đạo, sinh hoạt Đảng của tổ chức đảng, đảm bảo cho hoạt động lãnh đạo
đó kịp thời, nhanh chóng, chính xác và đạt kết quả cao.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là sự thống nhất về ý chí và hành
động; là trình độ giác ngộ năng lực trí tuệ và kinh nghiệm kết hợp lại với nhau
thành bản lĩnh vững vàng trước mọi biến động chính trị, xã hội; là khả năng
huy động sức mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, góp phần tạo nên sức
mạnh tổng hợp, bền vững, sức đề kháng và ý chí vươn lên vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, hồn thành mọi nhiệm vụ trong mọi điều kiện hoàn cảnh,
đồng thời kiên quyết đấu tranh làm trong sạch nội bộ Đảng, ngăn chặn có hiệu
quả sự chống phá của kẻ thù và sự tác động của những quan điểm sai trái,
những biểu hiện tiêu cực từ bên ngoài vào tổ chức cơ sở đảng và đơn vị.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là hai nội
dung thống nhất biện chứng tác động qua lại lẫn nhau hợp thành một chỉnh
thể thống nhất, trong sức mạnh tổng hợp của mỗi tổ chức cơ sở đảng. Năng
lực lãnh đạo càng cao thì sức chiến đấu càng được tăng cường và ngược lại.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng luôn đi liền không
tách rời nhau. Muốn có năng lực lãnh đạo tốt, phải thường xuyên nâng cao
sức chiến đấu và muốn có sức chiến đấu phải không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo. Sự quan hệ chặt chẽ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng càng làm cho tổ chức cơ sở đảng ngày càng vững mạnh, có
chất lượng tổng hợp ngày càng cao. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu lại có tính độc lập tương đối, có những biểu hiện đặc trưng riêng và
tính nổi trội; tính biểu hiện nổi trội ở từng nội dung tuỳ từng nơi, từng lúc
cũng khác nhau, cho nên, trong mỗi nội dung cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà
nhấn mạnh năng lực lãnh đạo hay sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.



4
Biểu hiện của năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
ở năng lực quán triệt, cụ thể hố đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên phù hợp với tình hình thực tiễn
của đơn vị mình, trên cơ sở đó để quyết định các chủ trương, biện pháp lãnh
đạo sát đúng; năng lực tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, biện pháp
đã được quyết định thành hiện thực trên thực tế; năng lực tổ chức kiểm tra,
kiểm sốt q trình tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp đã được
quyết định của đội ngũ cán bộ, đảng viên, năng lực sơ, tổng kết để bổ sung,
sửa đổi và phát triển hoàn thiện các chủ trương, biện pháp đã được quyết
định, nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực của tổ chức cơ sở
đảng, đảm bảo chu trình sau lãnh đạo đạt kết quả cao hơn, tốt hơn. Sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng được biểu hiện thông qua khả năng huy động sức
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tạo nên sức mạnh bền vững vượt
qua mọi trở ngại, khó khăn, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu
tranh làm trong sạch nội bộ Đảng và chống lại mọi quan điểm, tư tưởng sai
trái thù địch.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là sản phẩm
của trí tuệ và khả năng thực tế của tập thể được tạo nên nhờ phát huy đầy đủ
phẩm chất chính trị, đạo đức, phương pháp tác phong công tác, năng lực tổng
hợp của mọi cán bộ, đảng viên trên cơ sở chấp hành các nguyên tắc, nề nếp,
chế độ sinh hoạt Đảng trong hoạt động lãnh đạo và các mặt công tác của tổ
chức cơ sở đảng. Do đó, tuỳ thuộc vào chất lượng đội ngũ của tổ chức Đảng
cao hay thấp, việc chấp hành các nguyên tắc, nề nếp, chế độ sinh hoạt có
nghiêm túc, chặt chẽ hay khơng mà năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
được tăng lên hay giảm đi. Tuy nhiên, do vị trí, vai trị của mình nên cấp uỷ,
cán bộ lãnh đạo, chủ trì có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Bởi vì, đây là lực
lượng với chức năng, quyền hạn có tác động trực tiếp về mọi mặt đối với đội

ngũ cán bộ, đảng viên, trực tiếp duy trì và thực hiện các nguyên tắc, nề nếp,


5
chế độ quy định trong sinh hoạt và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy,
tuỳ thuộc vào phẩm chất, năng lực, tư cách của đội ngũ cấp uỷ viên, cán bộ
chủ trì mà đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tổ chức cơ sở đảng thực sự đoàn
kết, thống nhất, phát huy hết tài năng, trách nhiệm của mình trong sinh hoạt
Đảng, trong thực hiện chức trách hoặc bị chia rẽ, cơ lập, giảm sút nhiệt tình
trách nhiệm.
* Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng và sự nghiệp xây dựng, chiến đấu của quân đội
Trong hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức cơ sở
đảng có tầm quan trọng đặc biệt. Khơng chỉ trong cách mạng dân tộc dân chủ
mà hiện nay khi toàn Đảng, toàn dân đang tiến hành chuyển đổi cơ chế mới;
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của đơn vị cơ sở, mở rộng dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thì tổ chức cơ sở đảng lại càng có tầm quan trọng hơn lúc nào hết.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thơng qua tại Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ X quy định: “ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã,
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các
đơn vị cơ sở khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên lập tổ chức cơ sở
đảng”1.
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam là đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tổ chức của Đảng được thể
hiện ở chỗ được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hệ thống
tổ chức đó, tổ chức cơ sở đảng lập thành nền tảng của Đảng, là tổ chức đầu
tiên, trực tiếp liên kết các đảng viên lại với nhau thành một chỉnh thể có tổ
chức. Sự liên kết này là sự liên minh tự nguyện của những người cùng chung
lý tưởng. Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức gần gũi nhất gắn liền với cơ sở xã hội

thực hiện sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở.
1

Đảng Cộng sản, Điều lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.ng Cộng sản, Điều lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.ng sảng Cộng sản, Điều lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.n, Điều lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.u lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34. Đảng Cộng sản, Điều lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.ng Cộng sản, Điều lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.ng sảng Cộng sản, Điều lệ Đảng Cộng sản, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.n, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 34.


6
Công lao lớn nhất của V. I. Lênin không chỉ là người sáng lập ra một
đảng kiểu mới, một chính đảng độc lập của giai cấp vơ sản có tổ chức chặt
chẽ được trang bị bằng tư tưởng Mác - Lênin, mà còn là ở chỗ người đã đề ra
một cách hoàn chỉnh cơ sở tổ chức của Đảng, nâng công tác xây dựng Đảng
và tổ chức lên thành một khoa học. V. I. Lênin đã phát triển tư tưởng vĩ đại
của C.Mác và Ph.Ăngghen ... biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của
các hiệp hội công nhân. Người viết: mỗi chi bộ và mỗi ủy ban công nhân của
đảng phải là một điểm tựa để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động và tổ
chức thực hiện trong quần chúng. V. I. Lênin nhấn mạnh: mỗi bước chuyển
của cách mạng vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng càng quan trọng
hơn.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã rất coi trọng đến việc nâng cao năng lực và củng cố tổ chức cơ sở đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt
thì mọi việc sẽ tốt”2. Vì thế, ngay từ khi chưa giành được chính quyền, Đảng
rất chú trọng xây dựng các chi bộ cộng sản ở các khu công nghiệp tập trung
công nhân, những vùng nông thơn và cả trong sinh viên, học sinh, trí thức
nhằm tuyên truyền cổ động tổ chức quần chúng đứng lên đấu tranh giành
chính quyền.
Sau khi giành chính quyền, trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta luôn coi các tổ chức cơ sở đảng là cấp tổ chức
nền tảng, là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng, chất lượng các đảng bộ cơ sở
là yếu tố tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với q trình cách mạng,

đến uy tín của Đảng, Đảng ta khẳng định: chi bộ, đảng bộ cơ sở mạnh hay
không mạnh, một việc làm của chi bộ, đảng bộ, của đảng viên tốt hay không
tốt, đúng hay sai đều tác động trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần, có khi
đến cả sinh mệnh chính trị của người dân, đến lòng tin của nhân dân đối với
Đảng.
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, H, 1996, tập 12, tr. 210. Chí Minh, Tồn tập, Nxb CTQG, H, 1996, tập 12, tr. 210.n tập, Nxb CTQG, H, 1996, tập 12, tr. 210.p, Nxb CTQG, H, 1996, tập, Nxb CTQG, H, 1996, tập 12, tr. 210.p 12, tr. 210.


7
Từ những quan điểm trên cho thấy, tầm quan trọng của tổ chức cơ sở
đảng có thể khái quát trên những vấn đề cơ bản sau:
Tổ chức cơ sở đảng là nơi nối liền cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng
với quần chúng. Vì vậy, là tổ chức đầu tiên của Đảng nằm ngay trong quần
chúng. Tổ chức cơ sở đảng không những cùng quần chúng phấn đấu thực hiện
có kết quả đường lối, chính sách của Đảng, mà còn làm nhiệm vụ nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng, phản ánh đúng và đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng lên tổ chức đảng cấp trên.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng
vào quần chúng và tổ chức cho quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối,
chính sách ấy. Vì, suy cho đến cùng thì việc biến đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng là công việc trước
hết của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng phải chịu trách nhiệm trước
Đảng về đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng
viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo
các cấp của Đảng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của toàn Đảng
và tổ chức đảng các cấp mà trực tiếp là tổ chức cơ sở đảng.
Tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng trong tồn bộ

cơng tác xây dựng và hoạt động của Đảng. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng và chăm lo đến xây dựng tổ chức cơ
sở đảng, đặc biệt là chi bộ cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: đối với
Đảng ta, việc xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng
quan trọng. Vì vậy, thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức cơ sở đảng thật sự trở thành hạt nhân
lãnh đạo chính trị, trung tâm đoàn kết của đơn vị cơ sở là trách nhiệm của các
cấp lãnh đạo, chỉ đạo, của bản thân cơ sở và của mọi đảng viên.


8
Hiện nay, trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện mới, vai trò của tổ chức cơ sở đảng ngày càng
được tăng lên. Đảng Cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước giai cấp,
trước dân tộc về mọi vấn đề của cách mạng đặt ra. Do vậy, đổi mới chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong đó có tổ
chức cơ sở đảng là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay.
* Thực trạng cơng tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong quân đội.
- Những ưu điểm:
Trong quân đội ta, từ khi ra đời đến nay, dù trong hoàn cảnh chiến
tranh hay trong hịa bình, xây dựng; trong chiến đấu hay cơng tác, bất kỳ
trong giai đoạn nào đều xác định rõ công tác xây dựng Đảng luôn là nhiệm vụ
trung tâm then chốt, giữ vai trò quyết định, tác động, chi phối đến các mặt
công tác, đến các lĩnh vực hoạt động của qn đội. Vì vậy, chỉ có xây dựng
củng cố tổ chức đảng bộ trong sạch vững mạnh mới có điều kiện để xây dựng
đơn vị, cơ quan vững mạnh toàn diện; phải củng cố kỷ luật trong Đảng mới có
cơ sở để củng cố kỷ luật quân đội, phải bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng mới có thể phát huy sức mạnh

tổng hợp của quân đội nói chung và của từng đơn vị nói riêng.
Những năm gần đây, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến
nay, trước những diễn biến phức tạp của thế giới, khu vực, trong nước, sự
phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, quán triệt đường lối của Đảng, quán
triệt sâu sắc và vận dụng thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, nhất
là Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII về cơng tác xây dựng Đảng, Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 4 khóa IX về xây
dựng chỉnh đốn Đảng, Đảng bộ quân đội nói chung và các tổ chức cơ sở đảng
ở đơn vị nói riêng, tập trung vào khâu then chốt là xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên và chi bộ, tạo được sự chuyển biến quan trọng về năng lực lãnh


9
đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, là cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của
quân đội.
Hệ thống tổ chức đảng trong quân đội ln được củng cố, kiện tồn,
hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và quy
định 74/QĐ - TW của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương về tổ chức
đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, được tiếp tục cụ thể hóa vào hoạt
động thực tiễn, đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với qn đội, góp phần xây dựng qn đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đặc biệt, từ Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ VI đến nay, cùng với
lãnh đạo điều chỉnh chiến lược quốc phòng, chấn chỉnh tổ chức lực lượng
quân đội, công tác xây dựng Đảng đã tập trung vào xây dựng đảng bộ, chi bộ,
đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng cho cán bộ, đảng viên, chiến sỹ, đảm
bảo cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, và nhân dân,
sẵn sàng nhận và hồn thành mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng

giữ vững ổn định chính trị của đất nước, bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ.
Nét nổi bật trong cơng tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng luôn được coi
là công tác quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường bản chất giai cấp công
nhân, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới nâng cao chất lượng hiệu quả
công tác tư tưởng và nghiên cứu, học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kịp thời
định hướng cho cán bộ, đảng viên. Trước những diễn biến phức tạp của tình
hình, Đảng bộ qn đội ln vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên quyết đấu tranh bảo
vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng, lãnh đạo


10
toàn quân nỗ lực phấn đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới.
Coi trọng củng cố, kiện toàn các cấp ủy, tổ chức đảng, xây dựng đội
ngũ đảng viên; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên. Cơng tác xây dựng Đảng về chính trị,
tư tưởng luôn được coi là công tác quan trọng hàng đầu, đảng viên, cán bộ,
trước hết là cán bộ trung, cao cấp, qua giáo dục và rèn luyện thực tế trình độ
được nâng lên, bản lĩnh chính trị kiên định lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, nhất trí cao với đường lối đổi mới của Đảng và nhiệm vụ quân sự trước
yêu cầu mới. Có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, quan
điểm, nguyên tắc của Đảng. Đảng bộ các cấp từ trên xuống dưới khơng có suy
thối về chính trị, thực sự là nòng cốt xây dựng, chiến đấu và lãnh đạo đơn vị
vững mạnh về chính trị góp phần giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
Trước những thách thức mới, đại đa số cán bộ, đảng viên giữ vững
được phẩm chất đạo đức, lối sống, đề cao được trách nhiệm chính trị đối với
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và tham gia xây dựng đất nước, đặc biệt là ý chí

vươn lên, tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn, hồn thành
nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới, đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật
đổ và âm mưu của kẻ thù muốn vơ hiệu hóa lực lượng vũ trang và “phi chính
trị hóa” qn đội.
Tổ chức đảng các cấp thường xuyên được kiện toàn phù hợp với yêu
cầu chấn chỉnh tổ chức lực lượng quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Theo
thống kê, đến cuối năm 2005, chi bộ đại đội đủ quân có cấp ủy đạt 76,95%
(riêng 11 sư đoàn bộ binh đủ quân đạt 65,33%). Nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách được giữ vững, dân chủ trong sinh
hoạt Đảng được mở rộng, góp phần giữ vững nguyên tắc và củng cố đoàn kết


11
thống nhất trong Đảng bộ và đơn vị; khắc phục tốt hơn những biểu hiện cá
nhân áp đặt, dân chủ hình thức, kém kỷ luật.
Đã có nhiều biện pháp giải quyết số lượng và nâng cao chất lượng toàn
diện, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ.
Đội ngũ đảng viên luôn được giữ vững và phát huy được vai trò tiên phong
gương mẫu, trách nhiệm đối với nhiệm vụ, kiên quyết chống suy thối về
chính trị, cơ hội, thực dụng, khả năng tư duy và ứng xử thực tiễn tốt hơn, đáp
ứng được nhiệm vụ, chức trách đảm nhiệm.
Toàn Đảng bộ đã triển khai tích cực và thực hiện nghiêm túc cuộc vận
động “Xây dựng chỉnh đốn Đảng”, lãnh đạo chặt chẽ các đợt sinh hoạt tự phê
bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và Nghị
quyết Trung ương 4 khóa IX, thể hiện tinh thần trách nhiệm chính trị cao của
tồn Đảng bộ qn đội trước toàn Đảng. Tạo được chuyển biến bước đầu về
nâng cao nhận thức, trách nhiệm, ngăn ngừa những việc làm sai trái, củng cố
đoàn kết nội bộ và chấp hành nghiêm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, có tiến
bộ về sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình; gắn với nâng cao

chất lượng xây dựng cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, đơn
vị vững mạnh tồn diện. Các tổ chức đảng đã có bước tiến bộ trưởng thành
nhiều mặt, vững vàng về chính trị, kiên định về nguyên tắc, lãnh đạo đơn vị
vượt qua mọi khó khăn thử thách, hồn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, khẳng
định được vai trị hạt nhân chính trị, xây dựng đơn vị, xây dựng quân đội
vững mạnh về mọi mặt.
Triển khai tích cực cơng tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trước yêu cầu mới theo tinh thần Nghị quyết 93, 94 của Đảng ủy Quân
sự Trung ương, thực hiện quy hoạch bồi dưỡng, sắp xếp đội ngũ cán bộ các
cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và bước chuyển tiếp theo, phù hợp
với tổ chức lực lượng quân đội.


12
Các chính sách của Đảng trong qn đội và cơng tác quần chúng của
Đảng được tiến hành tích cực và có bước đổi mới, phát triển phù hợp với thực
tiễn quân đội và xã hội; các tổ chức quần chúng được củng cố, hoạt động
đúng chức năng, phát huy vai trị xung kích trong thực hiện nhiệm vụ chính trị
của đơn vị. Công tác dân vận đã tập trung tham gia xây dựng cơ sở chính trị,
xóa đói giảm nghèo, củng cố quốc phòng an ninh, khắc phục hậu quả do thiên
tai gây ra, góp phần xây dựng địa phương vững mạnh.
Công tác kiểm tra đã bám sát nhiệm vụ chính trị, u cầu cơng tác xây
dựng Đảng và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cấp ủy, ủy ban
kiểm tra các cấp có chuyển biến tiến bộ cả về nhận thức và tổ chức thực hiện
công tác kiểm tra. Đã tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên. Chất
lượng công tác kiểm tra được nâng lên, tình hình chấp hành kỷ luật có chuyển
biến tiến bộ, cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật giảm so với những năm trước
đây.
Phương pháp, phong cách lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng có sự
đổi mới. Đã chú trọng việc đổi mới việc tổ chức quán triệt và cụ thể hóa nghị

quyết, chỉ thị cấp trên, tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm; có
chương trình, kế hoạch thực hiện và phân công nhiệm vụ cho từng cấp, từng
ngành và từng thành viên. Đẩy mạnh sinh hoạt tự phê bình và phê bình, nâng
cao tính chiến đấu trong các kỳ sinh hoạt Đảng. Giải quyết tốt mối quan hệ
với các bộ, ban, ngành Trung ương và cấp ủy chính quyền địa phương; các tổ
chức quần chúng trong quân đội không ngừng được củng cố, phát triển và
phát huy tốt vai trò, chức năng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ VIII đánh giá:
Nhiệm kỳ qua, Đảng bộ quân đội đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường
lối, quan điểm của Đảng, triển khai toàn diện các mặt cơng tác xây dựng
Đảng, trong đó khâu then chốt là xây dựng cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững mạnh và đội ngũ cán bộ, đảng viên; Đảng bộ quân đội thực sự


13
vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có chuyển biến quan trọng về
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và chấp hành nguyên tắc, nọi bộ đoàn kết
thống nhất; tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ, là hạt nhân chính trị, nhân tố
quyết định xây dựng quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc,
nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
- Những hạn chế, khuyết điểm:
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình và tác động tiêu cực của
xã hội, Đảng bộ quân đội, đặc biệt là các tổ chức cơ sở đảng tuy khơng có suy
thối về chính trị nhưng một số cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ trung, cao cấp
cịn có những biểu hiện hẫng hụt về trí tuệ, thiếu dũng khí đấu tranh, bộc lộ sự
giảm sút ý chí, nhạt phai lý tưởng, niềm tin với chủ nghĩa xã hội, trung bình
chủ nghĩa, khơng phát huy được vai trị tiên phong gương mẫu trong cuộc
sống và công tác. Một số có biểu hiện suy thối về đạo đức lối sống, cơ hội,
thực dụng, tham nhũng, chạy theo quyền lực, lợi ích kinh tế, vật chất gây hậu

quả xấu. Nhất là cán bộ và cấp ủy viên vi phạm kỷ luật còn chiếm tỷ lệ cao so
với tổng số vụ vi phạm kỷ luật của đảng viên, đã trực tiếp ảnh hưởng đến uy
tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong qn
đội.
Cơng tác tư tưởng có mặt cịn biểu hiện chủ quan, giản đơn, thiếu chiều
sâu. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn cịn là khâu yếu của khơng ít
cấp ủy và tổ chức đảng. Với mức độ khác nhau, nhìn chung năng lực lãnh đạo
tồn diện, năng lực quán triệt, cụ thể hóa nghị quyết của cấp trên vào điều
kiện, hoàn cảnh và nhiệm vụ cụ thể của đảng bộ, đơn vị mình để có chủ
trương, biện pháp lãnh đạo sát, đúng và tổ chức thực hiện nghị quyết ở một số
tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế. Chất lượng sinh hoạt thấp, chưa chủ động
nhạy bén trong giải quyết những vấn đề phức tạp. ở một số nơi tháng nào cấp


14
ủy, chi bộ cũng họp ra nghị quyết lãnh đạo nhưng trùng lặp hình thức, khơng
thể hiện được tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt.
Một số đảng viên vẫn còn những biểu hiện yếu kém như: chưa nhận
thức rõ chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và yêu cầu lãnh đạo; chưa phát huy hết
vai trò tiên phong gương mẫu trong học tập, công tác và rèn luyện kỷ luật,
chưa sâu sát gần gũi quần chúng; tính chiến đấu trong sinh hoạt Đảng chưa
cao, cá biệt có đảng viên cịn suy thối về phẩm chất đạo đức, lối sống, phải
khai trừ ra khỏi Đảng và xử lý kỷ luật bằng pháp luật.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có nơi, có lúc vẫn cịn có những cấp ủy,
cán bộ, đảng viên chấp hành chưa nghiêm. Hiện tượng cán bộ, chỉ huy độc
đoán, nặng về mệnh lệnh, quân phiệt với chiến sỹ vẫn còn. Chưa phát huy
được mọi trí tuệ của cấp ủy viên, đảng viên khi quyết định vấn đề và hệ quả
của nó là nhất trí không cao. Một số cán bộ, đảng viên nhất là đảng viên chủ
trì vi phạm khuyết điểm, cấp ủy khơng nắm được hoặc nắm được nhưng nể
nang, né tránh không đưa ra đấu tranh phê phán làm rõ đúng sai để xác định

hình thức kỷ luật. Thực hiện nguyên tắc phê bình và tự phê bình có nơi, có lúc
vẫn bị vi phạm. Tình hình phản ánh dân chủ nội bộ chưa tốt, bản lĩnh chính
trị, năng lực trí tuệ, ý thức rèn luyện của một số cán bộ, đảng viên chưa cao,
đấu tranh tự phê bình và phê bình chưa được coi trọng.
Một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nhiệm vụ kiểm tra,
chưa gắn vai trò lãnh đạo với trách nhiệm kiểm tra. Chưa tạo được sự chuyển
biến mạnh mẽ, rõ rệt về thực hiện cuộc vận động “Xây dựng, chỉnh đốn
Đảng”, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở các cấp, các ngành trong tồn
qn. Báo cáo chính trị của Đảng ủy Qn sự Trung ương tại Đại hội Đảng bộ
toàn quân lần thứ VII chỉ rõ: Năng lực lãnh đạo toàn diện, năng lực tổ chức
thực hiện và thực hiện kiểm tra thực hiện nghị quyết ở nhiều tổ chức đảng còn
hạn chế, lãnh đạo đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái thù địch và xử
lý các tình huống chính trị phức tạp xảy ra còn thiếu chủ động nhạy bén, lãnh


15
đạo quản lý chính trị, nội bộ, quản lý bộ đội, vũ khí trang bị, kinh tế tài chính,
xây dựng cơ bản chưa chặt chẽ để xảy ra một số vụ nghiêm trọng, làm thất
thoát tài sản của quân đội, của đơn vị, vi phạm bản chất truyền thống của
quân đội.
Việc xây dựng và quy hoạch đội ngũ cán bộ có mặt cịn bất cập trước
u cầu mới, việc bổ nhiệm, điều động cịn biểu hiện khép kín, cục bộ, khơng
theo quy hoạch… Hệ thống chính sách, chế độ để thu hút cán bộ thiếu đồng
bộ, cịn mang tính bình quân, thiếu chủ động nên còn để thiếu cán bộ cơ sở,
có nơi thiếu nghiêm trọng kéo dài. Xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ
chủ trì chưa tốt. Trình độ học vấn của cán bộ tuy được nâng lên, nhưng năng
lực tổ chức hoạt động thực tiễn còn nhiều hạn chế. Một số cấp ủy đánh giá
nhận xét cán bộ còn chung chung, né tránh, thiếu nhất quán.
Những khuyết điểm, tồn tại trên do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu
là:

Trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội, trình
độ năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên chuyển chưa kịp, một số cấp ủy
nhận thức đầy đủ về vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng; việc xây
dựng cấp ủy gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì cịn thiếu nhiều biện
pháp đồng bộ, nhiều mặt còn bất cập, một số thiếu tu dưỡng rèn luyện, bị mặt
trái của cơ chế thị trường và chủ nghĩa cá nhân chi phối. Trong khi đó các cấp
ủy cũng chưa coi trọng đúng mức việc giáo dục, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ
cán bộ, đảng viên về chính trị, tư tưởng và đạo đức lối sống.
Chất lượng của cấp ủy và đội ngũ cán bộ nói chung, nhất là vai trị của
bí thư, cán bộ chủ trì tuy có tiến bộ trưởng thành, nhưng một số trách nhiệm
và tính đảng chưa cao, thiếu gương mẫu, thiếu dũng khí đấu tranh và nỗ lực
rèn luyện vươn lên. Vai trò, trách nhiệm của cán bộ chủ trì có lúc, có nơi chưa
được phát huy; tính năng động trong tổ chức thực hiện nghị quyết cịn hạn
chế, phát hiện và uốn nắn những sai sót, khuyết điểm không kịp thời, chưa


16
tương xứng với vị trí đảm nhiệm, với nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới.
Chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo chưa nghiêm,
còn biểu hiện tư tưởng đề cao quyền lực cá nhân. Một số cán bộ, đảng viên
chưa thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
lối sống, thiếu gương mẫu. Tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phê bình và
phê bình cịn yếu, chi phối trong toàn bộ cấp ủy, chi bộ với những nội dung,
hình thức khác nhau, nhất là về cơng tác cán bộ và những vấn đề liên quan
trực tiếp đến lợi ích kinh tế vật chất… vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật
quân đội, dẫn tới dân chủ hình thức trong quyết định chủ trương, biện pháp,
kém hiệu lực trong tổ chức thực hiện…
Như vậy, hiện nay cũng như hơn lúc nào hết tồn Đảng nói chung,
Đảng bộ quân đội nói riêng cần phải được xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của mình, phải có đủ trình độ, trí tuệ, bản
lĩnh, năng lực để đáp ứng tình hình nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Đây không những là vấn đề then chốt mà còn là một nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đối với vận mệnh của chế độ ta và Đảng ta.
2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng trong quân đội hiện nay
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và
trong nước, trước sự chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng ta và
cách mạng nước ta. Từ thực trạng công tác xây dựng Đảng bộ quân đội nói
chung và xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội những năm qua.
Quán triệt đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng Đảng
và tình hình nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong giai đoạn cách mạng mới.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong


17
Đảng bộ quân đội ở thời mới, các tổ chức cơ sở đảng trong toàn quân cần
quán triệt và thực hiện tốt phương hướng, mục tiêu đó là:
* Phương hướng, mục tiêu:
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quân lần thứ VIII, các nghị quyết,
chỉ thị của Trung ương. Tiếp tục phát huy bản chất cách mạng khoa học của
giai cấp công nhân, tập trung xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội; thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng. Xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, có năng lực lãnh đạo tồn diện, sức chiến đấu cao, có phương pháp

lãnh đạo khoa học; bồi dưỡng nâng cao tính tiên phong, gương mẫu, trình độ
kiến thức, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tiên phong, gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, đủ sức lãnh đạo
đơn vị hồn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống, ln xứng đáng là lực
lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Kiên quyết khắc phục có hiệu quả các mặt còn yếu, ngăn
chặn và chấm dứt các biểu hiện suy thối; đảm bảo cho qn đội ln là lực
lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn
sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng trong quân đội hiện nay.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là yêu cầu cơ
bản, thường xuyên để xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Trước tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội cũng như


18
thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong
quân đội hiện nay, đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng.
Để thực hiện yêu cầu đó, phải triển khai xây dựng đồng bộ, tồn diện
cả chính trị, tư tưởng, tổ chức, có chương trình hành động cụ thể thiết thực,
sát với từng cấp, từng tổ chức đảng, từng nhiệm vụ chính trị cụ thể, trong đó
cần tập trung vào một số giải pháp chính sau đây:
Một là, bám sát phương hướng, tiêu chuẩn xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch vững mạnh làm căn cứ để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu.
Với vị trí là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở sơ sở, vai trị của

tổ chức cơ sở đảng rất quan trọng. Hiện nay, năng lực lãnh đạo chính trị, sức
chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn chưa phát huy tốt vai trị hạt nhân
lãnh đạo và đồn kết quần chúng, chưa đáp ứng u cầu nhiệm vụ chính trị
trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh
là một khâu trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng, đảm bảo đưa đường lối,
quan điểm của Đảng vào cuộc sống và cũng là nơi kiểm nghiệm đường lối
của Đảng trong thực tiễn, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng,
trực tiếp đấu tranh chống lại các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Vì vậy, Đại hội X của Đảng xác định phải: dồn sức xây dựng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ
chức này thực sự trong sạch vững mạnh; làm tốt cơng tác giáo dục chính trị,
tư tưởng, quản lý giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và
phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong
Đảng.
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định về chức năng, nhiệm
vụ, phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, chú trọng
các loại hình mới như tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần, doanh


19
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp tục đổi mới
nội dung và phương pháp để đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ đảng và
đảng viên.
Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng từ cơ sở.
Có cơ chế để nhân dân tham gia vào việc xây dựng các nghị quyết của đảng
bộ, chi bộ, các quyết định của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên
quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân; vào việc bố trí cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị cơ sở; để nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng,
chính quyền và cán bộ đảng viên.
Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú trọng

những địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, ở các đảng bộ, chi bộ yếu kém;
nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt Đảng; kiện tồn đội ngũ cấp ủy, bí thư chi bộ; bồi dưỡng, tạo nguồn,
thực hiện việc tiêu chuẩn hóa cán bộ, cơng chức cơ sở; đề cao trách nhiệm
quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên của chi bộ.
Phương hướng trên được cụ thể hóa vào tổ chức cơ sở đảng trong quân
đội là: tập trung khắc phục những mặt yếu kém, hạn chế về năng lực lãnh đạo
toàn diện, năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết, quản lý bộ đội, quản lý kỷ
luật, giáo dục, rèn luyện đảng viên và ngăn chặn đẩy lùi hiện tượng thối hóa
biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; kiện toàn cấp ủy, bồi dưỡng
nâng cao năng lực cấp ủy, gắn với quy hoạch cán bộ từng năm và cả nhiệm
kỳ; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, tăng cường đoàn kết thống nhất, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện
uy quyền cá nhân, bồi dưỡng đội ngũ bí thư thật sự tiêu biểu cả về phẩm chất
và năng lực; tiếp tục kiên trì chủ trương xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ,
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì với xây dựng cấp ủy, nâng cao chất lượng
phát triển Đảng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc về ý thức trách nhiệm


20
của các cấp đối với xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy
cấp trên thì phải xây dựng mình vững mạnh để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các
tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh một cách vững chắc.
Về tiêu chuẩn tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh được quy định
cụ thể trong Hướng dẫn số 09, 10 của Ban Chấp hành Trung ương, tổ chức cơ
sở đảng trong quân đội được cụ thể trong Hướng dẫn số 837/HD - TC của
Tổng cục Chính trị theo 4 nội dung lãnh đạo. Theo đó, một số tổ chức cơ sở
đảng trong sạch vững mạnh phải lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị,
cơng tác chính trị, tư tưởng, xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị,

cơng tác xây dựng Đảng.
Chỉ có nắm vững phương hướng, tiêu chuẩn trên, các cấp ủy đặc biệt là
bí thư mới có căn cứ, cơ sở để định hướng cho hoạt động lãnh đạo của mình.
Thường xun rà sốt nắm chắc tình hình chất lượng hoạt động lãnh đạo của
mình trên tất cả các mặt hoạt động, có kế hoạch bổ sung phấn đấu thực hiện
đạt các tiêu chuẩn trên.
Hai là, tập trung xây dựng củng cố cấp ủy các cấp ở cơ sở trong sạch
vững mạnh. Lãnh đạo quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ X, các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành
Trung ương và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quân lần thứ VIII.
Đảng ủy là hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng bộ và đơn vị, vì vậy
trong xây dựng và kiện toàn cấp ủy phải thực hiện đúng nguyên tắc giai cấp
của Đảng. Đồng thời, phải chú trọng giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa số
lượng, chất lượng và cơ cấu. Về số lượng được xác định rõ trong Quy định số
74/QĐ - TW của Ban Chấp hành Trung ương. Cơ cấu của đảng ủy cần bao
gồm các đảng viên là cán bộ chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật, cơ quan,
đơn vị để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện bao quát, nhạy bén, kịp thời. Tuy
nhiên, phải hết sức coi trọng đến tiêu chuẩn cấp ủy viên, vì đây là yếu tố
quyết định đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng ủy. Các đảng ủy



×