Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Chiec thuyen ngoai xa (thpt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.77 KB, 26 trang )

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
-Nguyễn Minh Châu-

A. MỞ BÀI CHUNG
Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của người
nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dịng sơng văn học đổ ra đại
dương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên chức ấy
của người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở đường tinh
anh và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Đứng trước sự thay đổi của thời đại,
nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn Minh Châu đã người tiên phong gieo
những hạt giống đầu tiên trên con đường đổi mới. Nếu như trong giai đoạn trước Nguyễn
Minh Châu sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã chuyển sang cảm
hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét
phong cách kết hợp hài hịa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng
nhân vật được soi thấu trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị
cuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiện
một lối tư duy mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong cuộc
mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hồn thiện nhân cách.
B. PHÂN TÍCH ĐOẠN VĂN
Đoạn số 1:
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi q mươi bước sâu
vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của cơng binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi
và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tơi. Họ đi đến bên chiếc
xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngồi mặt phá nước chỗ chiếc
thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng
rồi lại bng thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ơng lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật


tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết
đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không
chống trả, cũng khơng tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tơi cứ
đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống
đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác –
thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một
1


mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua khơng nhìn thấy tơi. Như một viên đạn
trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tơi gọi nó vẫn khơng hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp
một qng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này
tơi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tơi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, khơng biết
làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt
quật vào giữa khn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lơng đen như hắc ín, loăn
xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được
nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống
cát.
(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73)
Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó,
nhận xét tình huống nhận thức trong tác phẩm.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng…lảo đảo

ngã dúi xuống cát” thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện của nghệ sĩ Phùng, từ đó
góp phần thể hiện một tình huống truyện có tính nhận thức.
II. THÂN BÀI
1. Khái qt
- Khái niệm tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trị là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hồn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện
đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả
cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của
cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Nói cách khác thì tình huống
truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những
mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và
dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả
năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn. Nhà văn
Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trị là hạt nhân của cấu trúc
thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được
cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngồi xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo.
- Tính huống truyện ở đoạn trước:
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phịng khó
tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển
buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng
biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là
Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Với tâm thế của một người nghệ sĩ chân chính khao
khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này suốt gần một tuần mà chưa chụp được bức
2


ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định sẽ thu vào tờ lịch tháng bảy
của bộ lịch năm sau cảnh thuyền thu lưới vào lúc bình minh. Và buổi sáng hơm ấy, bất ngờ
anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa

gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một
“vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái
tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng
tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra
vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của
cảnh vật vào ống kính của mình.
2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích: Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt ngã
Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những khám phá,
phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát triển. Éo le thay
khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách
tồn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó khơng phải là những con người đẹp và tồn
thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ơng độc ác và một màn
bạo lực gia đình khiến cho khơng chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát, và gã
đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy
gieo xuống đất nước ta cịn khơng khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác
trong cuộc sống hịa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả
khi hịa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được
trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hồn tồn giải
phóng cịn biết bao vấn đề đặt ra: Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình … Dấu tích của
chiến tranh để lại không chỉ là mấy cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc
hậu của những người như hai con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành
động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay bng thõng,
đơi mắt nhìn xuống dưới chân khi “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc
nhưng rồi lại bng thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vơ cùng đau lịng. Lão đàn
ơng hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt vẻ “hùng hổ, mặt
đỏ gay”, lão đàn ơng dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để đánh vợ “chẳng nói
chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp

vào lưng người đàn bà”. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa
dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ
tàn độc mà lão đàn ơng cịn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa
đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ơng nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà
chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn.
Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há mồm ra
mà nhìn, anh chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng chưa kịp làm gì để
giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lịng hơn. Thằng Phác, là
con trai của lão đàn ông và người đàn bà chạy tới như một mũi tên và giật chiếc thắt lưng
3


từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho
người mẹ đáng thương. Lão đàn ông từ chỗ đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh con “Lão
đàn ơng định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho
thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.
Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn. Trong gia
đình ấy có một người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền rủa vợ con bằng
những lời lẽ nặng nề, nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết cam chịu trước những trận
đòn vơ cớ của người chồng; có một đứa con vì thương mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố.
Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu chuyện gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm
những phát hiện, nhận thức về hiện thực đời sống. Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh
đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống mà trong đó, cuộc đời thực hiện
lên thật trần trụi, đau đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống khơng chỉ tồn tại cái đẹp mà cịn có
bao nhiêu điều nghịch lí, đau lịng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước mắt anh là
bức tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên hồn
mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã. Tất cả
những sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hồn tồn thay đổi. Khơng
cịn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là ngạc nhiên, đau đớn. Đằng

sau bức tranh nghệ thuật đẹp, lãng mạn mà anh tưởng là tồn thiện, tồn mĩ kia hóa ra lại
ẩn chứa một hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã, đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt của
hiện thực đời sống.
3. Ý nghĩa của phát hiện (Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm)
Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm đã bộc
lộ một tình huống truyện vơ cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và nghệ thuật.
Thông điệp nhận thức được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận ra:
Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa
và gần… nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy
những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy con người khơng được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn
giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám phá ra bản chất thật của
đời sống.
Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa hiện
thực đời sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh huyền ảo
nhưng ở rất xa, cịn cuộc đời đơi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người nghệ sĩ chân chính
khơng chỉ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của đời sống
mà cịn phải đừng vì nghệ thuật mà qn cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời
và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui
buồn, yêu ghét trước cuộc đời.
Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của anh về lao
động nghệ thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật trước hết
phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống. Nghệ thuật đích thực
khơng thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật sẽ
khơng là gì nếu nó khơng phục vụ cho cuộc sống và làm cho nó tốt hơn lên. Nghệ thuật
chỉ có thể sống được và xanh tươi khi nó thực sự bám rễ vào cuộc đời. Nói như Biêlinxki
4


thì văn học “trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Chi tiết Phùng vứt bỏ chiếc
máy ảnh mà lao vào giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ thêm điều này.

3. Đánh giá
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một tình
huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với cốt
truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo, ... Điểm nhìn linh hoạt bởi truyện
được kể ở ngơi thứ nhất xưng "tôi", và người kể chuyện chứng kiến lại tồn bộ câu chuyện
từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật khác. Người kể chuyện mang đặc điểm
của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo một chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh của con
người và thiên nhiên khiến người đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối quan hệ giữa
cuộc sống và nghệ thuật. Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức tranh tĩnh vật thì
nó lại rất động với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống truyện giúp ta hiểu rõ
hơn về các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa đựng giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hịa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt đẹp hơn
rất nhiều nhưng đâu đó vẫn cịn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh tối. Cuộc sống đói
nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo
vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ
quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp
chính quyền và cộng đồng.
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi
nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái
xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp
của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đoạn số 2
Phân tích số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài
được nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện trong đoạn trích sau:
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý toà...
- Sao, sao?
- Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tơi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngồi

và phịng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tơi cảm thấy gian phịng
ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết khơng khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi
vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị
kiến đốt, và về sau tơi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tồ án đã bố trí sẵn tơi ngồi phía sau
để chuẩn bị làm nhân chứng.
5


- Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ
công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phịng bên xách một chiếc ghế cho
tơi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã
trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để
dấu vết trên mặt.
- Tuỳ bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hơ, khốc lên mình cái cung cách bề ngồi của
một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hoà thuận...
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tơi, lần
lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lịng các chú tốt, nhưng các chú đâu có
phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn
lam lũ, khó nhọc...
(Trích Chiếc thuyền ngồi xa, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 74)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà…khó nhọc” đã giúp người đọc
hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vậy và góp
phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát

- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một
lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết
sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và
phẩm chất.
Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngồi xa” là để có thể xuất bản một bộ lịch
nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi
thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu
cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh
từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện.
Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt”
trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như
“một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và tồn
bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối.
Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra
chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm
hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.
6


Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của
mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh
nghệ thuật đẹp một cách tồn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó khơng phải là
những con người đẹp và tồn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người
đàn ơng độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho khơng chỉ Phùng mà người đọc
cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách
tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức
lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà
lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt

ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ơng nhờ!”.
Nhưng kì lạ là trước trận địn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng,
nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng khơng chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì
để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lịng hơn. Thằng Phác
là con trai của lão đàn ơng và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại
cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì
muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tịa án và trong hồn cảnh ấy
vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.
2. Số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận:
Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của người
đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc
lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của
chị. Chị là người vơ danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao
người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một
thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng khơng phải q phổ
biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của
cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường
xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải
nhìn cảnh bố đánh mẹ… Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm
thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn khi chị đến tồ án huyện.
Vì lạc hậu, ít học, nghèo khổ và hơn nữa có thể do bị bạo hành thường xuyên nên
người đàn bà xuất hiện ở tòa án trong dáng vẻ và hành động đầy tự ti, rụt rè đến tội nghiệp.
Chị xưng là con, gọi chánh án Đẩu là quý tòa, thậm chí cịn có hành động chắp tay lại vái
lia lịa. Khi nhận ra Phùng là người đã chứng kiến câu chuyện, chị nhấp nhổm xoay mình
trên chiếc ghế như bị kiến đốt. Có lẽ, chị nghĩ rằng tịa sắp xếp Phùng đến đây làm nhân
chứng.
2.2. Vẻ đẹp khuất lấp
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tơn vinh

con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt
gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình
kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn
7


trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật
người đàn bà. Vẻ đẹp của chị khơng dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngồi thơ kệch,
xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
Người đàn bà hàng chài có vẻ ngồi xấu xí, ít học, lam lũ và cuộc đời đầy bất hạnh ấy
hóa ra bên trong lại ẩn chứa nhiều phẩm chất tốt đẹp. Điều đó thể hiện rõ qua cách ứng xử
của chị trước bi kịch gia đình. Khi biết hồn cảnh gia đình của người đàn bà, cách giải
quyết của chánh án Đẩu là cho gọi người đàn bà tới và khẳng định: “Chị không sống nổi
với lão vũ phu ấy đâu”. Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ
gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ
mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Người đàn bà thậm chí cịn van lạy để đừng
bắt chị bỏ chồng “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ
nó…”. Câu trả lời cũng như phản ứng cuả người đàn bà làm cho căn phịng “lồng lộng gió
biển tự nhiên bị hút hết khơng khí trở nên ngột ngạt”. Hóa ra, cách giải quyết của Phùng và
Đẩu tuy đứng về phía người đàn bà nhưng rất thiếu thực tế. Họ chỉ nghĩ giúp đỡ người đàn
bà mà chưa nghĩ đến việc những đứa trẻ rồi sẽ ra sao? Những người làm ăn lam lũ khó
nhọc ra khơi lao động cần phải có bàn tay của người đàn ơng. Người đàn ông là trụ cột
trong nhà. Người đàn bà ấy và cả chục đứa trẻ vô tội ngây thơ kia sẽ sống ra sao khi trên
thuyền khơng cịn bàn tay lao động chủ đạo của người đàn ơng?...
- Vậy vì sao người đàn bà khơng chịu bỏ chồng. Đó là vì:
+ Thương con: Quyết định khơng bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị
thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có
trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ơng để chèo chống lúc
sóng gió phong ba, để cùng ni dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà
hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để

ni con khơn lớn. Lịng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam
chịu những trận địn vũ phu của chồng, khơng kêu van, khơng trốn chạy. Thậm chí, chị coi
việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương
nhiên. Trong khổ đau, bất hạnh chị vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc hiếm hoi và
niềm hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Tình mẫu tử của chị như một
bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc
nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì
có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví cơng lao của người mẹ như biển Thái Bình thì
thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
+ Thấu hiểu chồng và có tấm lòng bao dung, vị tha, nhân hậu: Bị chồng đánh tàn
độc với ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nhưng người đàn bà khơng hề ốn
trách chồng. Chị hiểu nguyên nhân sâu xa lão đàn ông trở nên vũ phu là do nghèo đói.
Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người
đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị thấu hiểu nỗi khổ của
chồng nên vì thế mà chị ln bảo vệ chồng trước những đứa con và khi nói chuyện với
Phùng và Đẩu “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. Thấu hiểu
8


chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí cịn nhận hết trách nhiệm, lỗi
lầm về mình, sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
- Từng trải, sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế: Bên trong vẻ ít học, lạc hậu của
chị là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế. Trong đoạn trích, người phụ nữ
đáng thương đã khiến cho Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chị
khơng những khơng bỏ chồng mà cịn nói: "Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú.
Lịng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có
hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...". Trong lời nói này ta thấy
người đàn bà bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ. Chị nói về cuộc đời với
những lí lẽ riêng của mình, chủ động thay đổi cách xưng hơ từ "con"- q tịa" sang "chị các chú". Dưới góc nhìn ngơn ngữ có thể thấy người phụ nữ khốn khổ ấy đã khéo léo

chuyển từ mối quan hệ thứ bậc (con - q tịa) trong đó người đàn bà ở vai dưới sang quan
hệ thân sơ (chị - chú), người đàn bà trở thành vai trên. Chị khen người ta trước "lịng các
chú tốt" rồi mới phê bình người ta "các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm
ăn lam lũ, khó nhọc..." là cách hữu hiệu để buộc Phùng và Đẩu phải tiếp nhận câu chuyện
ở một vị thế khác, chỉ cho họ thấy được những khuyết điểm của mình là sự thiếu từng trải,
va vấp. chỉ biết nhìn cuộc đời qua một mớ lí thuyết, sách vở. Để từ đó Đẩu và Phùng phải
vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều về cuộc sống.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Bức chân dung của người đàn bà hàng chài trong đoạn trích được tác giả xây dựng
bằng nghệ thuật đậm nét sự sáng tạo. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà
ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo
ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống
truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Ngôn ngữ người kể chuyện thể hiện
qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một
điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách
quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngơn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách.
Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
3.2. Ý nghĩa của đoạn văn và vài trò của nhân vật người đàn bà
Thông qua vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà, đoạn văn cũng như tác phẩm
tác phẩm đã bộc lộ giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Đó là ca ngợi vẻ đẹp của con người
giữa cuộc đời đầy sóng gió. Người đàn bà tiêu biểu cho biết bao nhiêu phụ nữ sống nghèo
khổ, bất hạnh và tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất cao quý
như tảo tần, lam lũ, chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, giàu đức hi sinh và
lòng vị tha cao thượng. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục
cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam. Từ đó khiến
chúng ta rút ra rằng khơng thể nhìn đời, nhìn người bằng một cái nhìn đơn giản, một chiều
mà phải nhìn đời, nhìn người bằng cái nhìn đa diện nhiều chiều để khám phá được cái đẹp
về bản chất nhiều khi ẩn rất sâu trong bề ngồi thơ nhám.
9



Đoạn số 3
Đọc đoạn trích sau:
“Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tơi đẻ ít đi, hoặc chúng tơi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách
mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc
đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ ngày
cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì khơng bỏ nghề được !
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác
uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tơi cịn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới
xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt
lên.
- Là bởi vì các chú khơng phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là
nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền khơng có đàn ơng…
- Phải, phải, bây giờ tơi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, trên thuyền phải có một người đàn ông…dù hắng man rợ, tàn bạo ?
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú ?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng tơi
cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng
một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con,
rôi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng

tôi phải sống cho con chứ khơng thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú
lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tơi bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khn mặt
xấu xí của mụ chợt ửng sang lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc
vợ chồng con cái chúng tơi sống hồ thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?– Đột nhiên tôi hỏi?
- Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no…”
10


(Trích“Chiếc thuyền ngồi xa” – Nguyễn Minh Châu – Sách Ngữ văn
12, tập hai , NXB giáo dục Việt Nam, trang 75-76).
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên.Từ đó nhận
xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã giúp
người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn được vẻ đẹp
của hình tượng người phụ nữ trong văn học.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một
lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức
độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm
chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra
từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phịng khó
tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển
buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng

biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là
Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ
anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa
gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một
“vẻ đẹp thực đơn giản và tồn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái
tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng
tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra
vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của
cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một
giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách tồn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống
từ đó khơng phải là những con người đẹp và tồn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà
xấu xí, một người đàn ơng độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng
mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn
khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa
dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ
tàn độc mà lão đàn ơng cịn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa
đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ơng nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà
11


chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng khơng chạy trốn. Phùng cũng
chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lịng
hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ơng và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét
và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống
cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tịa án và
trong hồn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận bất hạnh:

- Khơng có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc
vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi
là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như một sự xóa mờ tên tuổi
nhằm tơ đậm thêm số phận của chị. Chị là người vơ danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc
đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê
Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt
và cũng khơng phải q phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của
cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên
chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh
bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa .
Vì xấu nên khơng ai lấy, chị có mang với người con trai nhà hàng chài hay đến mua bả về
đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ
tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh
trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên
xấu xí và thơ kệch, thể hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như
buồn ngủ vì thức trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng...Số phận, cuộc đời của chị
được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu
chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.
- Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại cịn đơng con, cả gia đình hàng chài
trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị “từ ngày
cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt
hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”
- Bị bạo hành: Khơng chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn bà
còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét trước đó thì
“Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước khơng có một người chồng nào
như hắn”. Cịn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra
đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tơi cịn đỡ
khổ… Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn
độc thì qua lời người đàn bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hồn

tồn vơ lí. Chị khơng có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ơng vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào.
Có lẽ, người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ
12


đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một phần
quen thuộc của cuộc đời.
- Nỗi đau về tinh thần: Ngồi nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người đàn
bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van
xin chồng cho lên bờ đánh để các con khơng nhìn thấy cảnh đó “Sau này con cái lớn lên,
tơi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc những đứa con phải chứng kiến
cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị
lo lắng liệu khi những đứa con nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra
sao? Chúng sẽ nghĩ gì về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố khơng? Chị đã
cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn
chúng khơng vẩn đục nhưng chị hồn toàn bất lực.
=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn
khổ, khơng có sự che chở u thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc
hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tơn vinh
con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt
gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hồn tồn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình
kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn
trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật
người đàn bà. Vẻ đẹp của chị khơng dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngồi thơ kệch,
xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng
Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà
hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không phải vì

bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người
như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của
chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở
trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị ln bảo vệ chồng trước
những đứa con, trước Phùng và Đẩu. Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính
nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà
đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu chồng
phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí cịn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm
về mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tơi đẻ ít
đi, hoặc chúng tơi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi chính là đám
đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn sàng chấp bị bắt tội,
phạt tù để không phải bỏ chồng.
* Thương con:
Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và
chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà
đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị
13


thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có
trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ơng để chèo chống lúc
sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà
hàng chài khơng sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để
nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho
mình như ở trên đất được”. Lịng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân,
cam chịu những trận địn vũ phu của chồng, khơng kêu van, khơng trốn chạy. Thậm chí,
chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện
đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên bờ
đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được
bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực,

ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví
cơng lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ
nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không
tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp
sau vẻ bề ngồi thơ kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng,
bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước
thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc
trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo khơng ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của
một con người từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí
của Phùng và Đẩu khi khun mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu
hơn về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một
chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tơi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực
tế cần có một người đàn ơng để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Chị
cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để
đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà
quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu bất cập trong chính sách, chủ trương của của
chính quyền là Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách
mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì khơng bỏ nghề được! Để từ đó
Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.
* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.
Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc nhỏ
bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui vẻ, hòa
thuận với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến “lần đầu tiên
trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Nụ cười hạnh phúc hiếm
hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi,
14



phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ
đó, ta nhận ra dường niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với người người đàn bà chính
là sự tận tụy hi sinh cho chồng con Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một lúc nào thật vui
khơng?” thì câu trả lời của người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn
con tơi chúng nó được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của
chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc động vì
tình mẫu tử thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi những bất
hạnh, khó khăn, ngọc nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi bay cịn
những hạnh phúc mà chị nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết sức nâng niu, trận
trọng, giữ gìn.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật
xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động phù hợp
với tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Cách kể
chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc hoạ nhân vật bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm phức
tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật. Biện pháp đối lập giữa hồn cảnh và
tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm
chất cao thượng đáng được ngợi ca… Ngoài ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự,
cách lựa chọn ngơi kể, điểm nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân
thực và có sức thuyết phục.
3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.
Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương giành
cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận bất hạnh của họ
trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều,
những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những Thị Nở, người vợ nhặt…và trở nên
đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác
giả đã xây dựng thành cơng hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ
nữ lao động nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng

lại có những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa sáng những
phẩm chất cao đẹp: tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh
và lịng vị tha, thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô bờ bến.
3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn
Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt
đẹp của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải
có cái nhìn tồn diện, nhiều chiều. Khơng thể nhìn nhận vẻ bề ngồi để suy ra bản chất bên
trong của một con người. Khơng thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải
đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ.
Đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu
ta khơng cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ
15


ổi . . . toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng
thương; không bao giờ ta thương"
.
Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó
nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia đình
và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh phúc
gia đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ nữ
trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên
điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn bà,
nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm
hồn con người Việt Nam.
3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:
Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối
của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân
cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn thương, thể hiện nỗi lo
âu, trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con người. Nhà văn cảm thơng, chia sẻ và

ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của người
đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng của chị.
3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với
hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái
nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người.
Đoạn số 4:
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, qua con mắt của Phùng và lời kể của
người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết về nhân vật người đàn ông như
sau:
(…)Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái
tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ
xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và
rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào
phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của cơng binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to
lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tơi. Họ đi đến bên chiếc xe rà
phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngồi mặt phá nước chỗ chiếc thuyền
đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại
bng thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ơng lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết,
chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật
tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken
16


két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết
đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”(…)
(…)- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

- Không chú à, cũng nghèo khổ túng quẫn vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách
mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì khơng bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị khơng? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tơi cịn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin
được với lão... đưa tơi lên bờ mà đánh...
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu,
Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2017)
Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh người đàn ơng trong lời kể trên. Từ đó,
nhận xét về cảm hứng thế sự thể hiện trong tác phẩm.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích kể về người đàn ơng đã giúp người đọc hiểu thêm
về nhân vật, từ đó thấy được cảm hứng thế sự được thể hiện rõ qua tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trị là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một
lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức
độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm
chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra
từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phịng khó tính
đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi
sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển
từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu,

hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh
lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp
được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ
đẹp thực đơn giản và tồn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim
mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng
như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực
17


sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật
vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ
trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách tồn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó
khơng phải là những con người đẹp và tồn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu
xí, một người đàn ơng độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà
người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Người gây ra cảnh bạo lực tàn bạo ấy chính là người
đàn ơng. Vậy ơng ta là người thế nào mà lại đánh vợ như vậy? Đọc tác phẩm, ta có thể
nhận thấy nhân vật người đàn ơng xuất hiện qua đôi mắt quan sát và miêu tả của Phùng và
qua lời kể của người đàn bà. Chừng đó thôi cũng đủ để người đọc hiểu về nhân vật một
cách rõ nét.
2. Nhân vật lão đàn ông qua cái nhìn của Phùng
2.1. Ngoại hình
Người đàn ơng xuất hiện đầu tiên trước người đọc khi ông ta cùng người đàn bà
bước từ dưới thuyền lên, ông ta quát đứa con đang ở dưới thuyền “Cứ ngồi nguyên đấy.
Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó đâu phải là lời của một con người bình thường
với người khác, nhất là với những người thân của mình. Đó là lời nói của một người gia
trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác, miệng ra là đòi giết, là muốn
người ta chết… Cùng với lời nói cộc cằn, thô lỗ, thất học thể hiện sự tàn ác, lão đàn ơng
xuất hiện trong đoạn trích với những nét ngoại hình “Tấm lưng rộng và cong như lưng
một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng

lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm
lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Những nét
ngoại hình vừa làm tốt ra vẻ tàn độc vừa thể hiện vẻ lam lũ, khắc khổ, hé lộ những điều ẩn
khuất trong cuộc đầy những lo toan, vất vả, cực nhọc của lão.
3. Hành động bạo lực (tội nhân)
Đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn, tàn ác. Hành
động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ
gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những
điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy
bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Theo suy nghĩ thông
thường, một người đàn ông là trụ cột gia đình phải yêu thương vợ con, lo lắng và chở che
cho gia đình của mình. Nhưng ở đây, người đàn ông không những không bảo vệ vợ con mà
còn hành hạ họ. Lão lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận như lửa cháy, đối xử thú tính
như đối với một kẻ thù của thời trung cổ khiến cho người đàn bà phảichỉ biết cam chịu,
phải nhẫn nhịn, chịu nhục nhã. Bấy thơi cũng q đủ để nói lên tính cách dữ tợn, vũ phu và
độc đốn, vơ lương tâm của người đàn ông.
Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ
“lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão
lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”. Lão nguyền rủa vợ con một cách nghiệt ngã bằng lời lẽ của kẻ thất
học, vô văn hóa, tàn ác đã đành và nhưng hơn nữa lời nói ấy cịn có nghĩa lão nhìn nhận vợ
18


con là gánh nặng cuộc đời. Vợ là gánh nặng nên “mày chết đi cho ông nhờ”, con cũng là
nợ đời nên “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông khơng chỉ là sự bộc phát mà nó đã
diễn ra rất thường xuyên B
" a ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước khơng
có một người chồng nào như hắn". Những lời nói và hành động mất hết nhân tính ấy khiến

Phùng hay bất cứ ai chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, giận dữ, không hiểu vì lí do gì mà
người đàn ơng ấy có thể ra tay độc ác đến vậy.
4. Người đàn ông là nạn nhân
Qua sự quan sát và miêu tả của Phùng về người đàn ông thuyền chài, ai cũng đều
căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng lắng nghe câu chuyện
của người đàn bà với Phùng và Đẩu ở tòa án chúng ta nhận thấy ngay câu chuyện không
đơn giản, Người đàn bà đã cho ta thấy một mặt khác ở người đàn ông, đó là ơng ta cịn là
một kẻ đáng thương.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy
kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à,
cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Qua lời người đàn bà, trước bảy nhăm, người
đàn ơng này khơng đi lính ngụy mà trốn quân dịch. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con
trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, khơng bao giờ đánh vợ con, không biết uống rượu,
không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ơng lí tưởng. Nhưng cũng chính vì trốn lính mà sinh
ra nghèo đói, túng quẫn. Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho
thấy người đàn bà hiểu rõ ngun nhân vì sao lão đàn ơng lại đánh vợ. Người đàn bà hiểu
rõ, lão đàn ơng đánh mình khơng phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc
mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn
ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ
như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lịng như những người đàn ơng hàng chài khác
uống rượu. Như vậy, nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người đàn ơng là một kẻ độc ác,
khơng có tính người thì với người đàn bà hàng chài, ơng ta khơng chỉ là người chồng mà
còn là một ân nhân, một nạn nhân. Ngày cịn trẻ, người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt do bị bệnh
đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy người đàn ông hàng chài đã chấp nhận cưu mang
và ban đầu đã mang đến cho người đàn bà ấy một cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Bạo lực,
độc ác của lão đàn ông không phải do tính cách bẩm sinh mà chủ yếu do cảnh ngộ xơ đẩy.
Người đàn ơng hóa ra cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu chiến. Những áp lực vơ
hình của cuộc sống đã biến ơng ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ, nhẫn tâm ngay cả với
những người thân u nhất của mình.
Tính chất lưỡng phân ở nhân vật lão đàn ông, vừa đáng giận vừa đáng thương, vừa là

nạn nhân vừa là tội nhân, còn được thể hiện rõ qua nhiều chi tiết trong đoạn trích: Hành
động vừa quất tới tấp cái thắt lưng lính ngụy vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến
răng ken két cho thấy cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến
răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa.
Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể
hiện bằng ngơn ngữ của chiếc thắt lưng da. Nhìn vào ngoại hình khắc khổ và giọng điệu
19


rên rỉ đau đớn khi buông những lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy ơng ta cũng rất đau khổ.
Đau khổ vì nghèo, vì bất lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Khơng ai có thể phủ nhận
sự độc ác trong hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn nhận một
cách công bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ơng ta vẫn có trách
nhiệm với gia đình, cố gắng cáng đáng mà khơng bỏ rơi vợ con. Lão đàn ơng dù có vũ phu,
nguyền rủa vợ con nhưng trên hết ơng ta vẫn là người có sức khỏe, có đủ khả năng chèo lái
con thuyền trước những bão going, là chỗ dựa của người đàn bà và những đứa con. Trong
đoạn trích, người đàn bà cịn kể “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa
tôi lên bờ mà đánh…”. Việc lão đàn ông chấp nhận lời cầu xin ấy của vợ cho thấy trong
sâu thẳm ở ơng ta tình phụ tử vẫn còn tồn tại, vẫn còn chút lương tri như bản chất lương
thiện ban đầu.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng tình huống nhận thức, miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc qua ngôn
ngữ sắc sảo, chọn chi tiết độc đáo. Nhân vật người đàn ông thuyền chài được tác giả đặt
vào nhiều góc nhìn khác nhau của các nhân vật. Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất hiện
“thống qua” nhưng diện mạo, ngơn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn cũng như
bản chất của lão được bộc lộ một cách toàn diện, rõ nét và khách quan. Một thành công
nữa của Nguyễn Minh Châu là đã học tập ở nhà văn Nam Cao trong việc diễn tả hiện
tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở nhân vật người đàn ông thuyền chài: vừa tàn
nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, khốn khổ, vừa là tội nhân vừa là nạn nhân…

3.2. Nhận xét về ý nghĩa đoạn trích
Qua hình ảnh người đàn ơng hàng chài trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu
thể hiện quan niệm về cuộc sống, con người và cảm hứng nhân đạo trong ngịi bút của
mình. Từ nhân vật người đàn ơng ta thấy rõ ràng, khơng thể nhìn người và nhìn đời một
phía. Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta
cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến
những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Đúng như
nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự: “Nhà văn khơng có quyền nhìn sự vật một
cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng
sâu lịch sử”. Qua đó, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện
thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa
diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người. Tác phẩm vì vậy
góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
3.3. Nhận xét về cảm hứng thế sự trong tác phẩm
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đời khi đất nước đã hịa bình thống nhất,
trong hồn cảnh ấy con người có bao nhiêu điều phải suy ngẫm trước cuộc sống bộn bề.
Nguyễn Minh Châu là người đi trước, nên cảm hứng thế sự được thể hiện rõ trong tác
phẩm qua các phương diện:
20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×