Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

vốn nhân lực: vai trò của giáo dục và y tế đối với phát triển và thực trạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.26 KB, 39 trang )

Danh sách thành viên trong nhóm (đề tài số 10):
Vũ Bảo Anh
Trần Mai Anh
Nguyễn Linh Chi
Nguyễn Thị Thu Hà
Nguyễn Thanh Huyền
Nguyễn Thị Diệu Linh (nhóm trưởng)
Nông Hoàng Hạnh Linh
Nguyễn Thị Thùy Linh
Lê Khánh Ly
Nguyễn Quỳnh Mai
Nguyễn Hồng Nhung
Dương Thị Quỳnh
Nguyễn Thúy Quỳnh
… Thanh
Đoàn Ngọc Trâm
Cao Huyền Vũ
Nguyễn Thị Xuân Yến
1
LỜI NÓI ĐẦU
Xuất phát từ thực tế tình hình của đất nước trước và sau đổi mới cũng như
nắm bắt được xu hướng đầu tư, phát triển của các nước trên thế giới, từ đại hội
Đảng lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn vai trò của
con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt mới đây trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phát chiến lược, là yếu
tố quyết định đẩy mạnh phát triển …” Càng khẳng định được rằng vốn nhân lực là
yếu tố quyết định cho sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước.
Khi đề cập tới nguồn lực con người, người ta thường nói tới mặt số lượng và


mặt chất lượng nhưng yếu tố quan trọng nhất là chất lượng nguồn lực con người.
Đó là một yếu tố mang tính vô tận, không bị cạn kiệt và nó được quyết đỉnh bởi
chính trí tuệ con người. Và điều tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến trí tuệ còn
người chính là giáo dục.
Do tầm quan trọng của giáo dục đối với phát triển vốn nhân lực và sâu xa hơn
là phát triển đất nước nên nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “vốn nhân lực:
vai trò của giáo dục và y tế đối với phát triển và thực trạng” làm đề tài nghiên
cứu với mong muốn có một cái nhìn sâu sắc hơn không chỉ trên lý thuyết mà còn
trển cả thực tế về vấn đề này – một trong những mối quan tâm lớn của xã hội hiện
nay. Trên cơ sở phân tích những thành tựu cũng như những điểm còn hạn chế,
nhóm xin đưa ra một vài gợi ý chính sách nhằm khắc phục những hạn chế này để
chúng ta có được một nền giáo dục ngày càng tiến bộ.
2
MỤC LỤC
Danh sách thành viên trong nhóm (đề tài số 10): 1
Vũ Bảo Anh 1
Trần Mai Anh 1
Nguyễn Linh Chi 1
Nguyễn Thị Thu Hà 1
Nguyễn Thanh Huyền 1
Nguyễn Thị Diệu Linh (nhóm trưởng) 1
Nông Hoàng Hạnh Linh 1
Nguyễn Thị Thùy Linh 1
Lê Khánh Ly 1
Nguyễn Quỳnh Mai 1
Nguyễn Hồng Nhung 1
Dương Thị Quỳnh 1
Nguyễn Thúy Quỳnh 1
… Thanh 1
Đoàn Ngọc Trâm 1

Cao Huyền Vũ 1
Nguyễn Thị Xuân Yến 1
LỜI NÓI ĐẦU 2
MỤC LỤC 3
I.Vai trò của giáo dục đối với việc phát triển vốn nhân lực 5
1.Các khái niệm cơ bản 5
a.Khái niệm vốn nhân lực 5
b.Khái niệm giáo dục 6
3
2.Vai trò của giáo dục đối với việc phát triển vốn nhân lực 7
a.Giáo dục đối với việc phát triển trí lực 7
b.Giáo dục đối với việc phát triển tâm lực 8
c.Giáo dục đối với việc phát triển thể lực 9
d.Giáo dục đối với việc tích luỹ tri thức qua các thế hệ 10
II.Thực trạng và tác động của giáo dục đối với sự phát triển vốn nhân lực Việt Nam trong khoảng thời
gian gần đây 11
1.Tình hình giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI 11
a.Tác động của giáo dục đến Trí Lực 17
b.Tác động của giáo dục đến Tâm Lực 20
c.Tác động của giáo dục đến Thể Lực 22
d.Tác động của giáo dục đến việc tích lũy tri thức cho tương lai 26
III.Giải pháp phát triển giáo dục để khắc phục những thiếu xót còn tồn tại trong thời gian vừa qua 30
KÊT LUẬN 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
4
I. Vai trò của giáo dục đối với việc phát triển vốn nhân lực
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn nhân lực, vốn tài nguyên, vốn sản
xuất và vốn khoa học – công nghệ chính là những nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ngày nay, cùng với quá trình toàn cầu hoá kinh tế, sự bùng nổ dân
số, khan hiếm tài nguyên và sự ra đời của nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực trở

thành yếu tố quan trọng, được ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển của mỗi
quốc gia bởi nó không đơn thuần là một nguồn vốn mà nó giữ vai trò chủ thế,
quyết định khả năng khai thác và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn khác. Bất kỳ
một nước nào muốn phát triển kinh tế, sản xuất thì phải có đủ nhân lực và nhân lực
phải có chất lượng cao. Trong bối cảnh đó, giáo dục trở thành nhân tố quyết định
đối với sự phát triển của nguồn nhân lực mỗi quốc gia. Giáo dục có tác động lớn
đối với việc phát triển toàn diện vốn nhân lực hiện tại cả về trí lực, tâm lực, thể lực
và việc tích luỹ tri thức cho thế hệ tương lai.
1. Các khái niệm cơ bản
a. Khái niệm vốn nhân lực
Trước kia, các nhà kinh tế thường quan tâm đến ba yếu tố quan trọng nhất
trong sản xuất: đất đai, nhân công và vốn. Vào những năm 1960, người ta bắt đầu
quan tâm hơn đến trình độ giáo dục của công nhân. Thuật ngữ “vốn nhân lực” xuất
hiện từ đó. Nó được định nghĩa như là một tổ hợp tất cả những khả năng bẩm sinh
và những kỹ năng, kỹ xảo tích luỹ được thông qua việc học. OECD (2001) đưa ra
một định nghĩa về vốn nhân lực dựa trên quan điểm của giáo dục sau: vốn nhân lực
là “kiến thức, kỹ năng, năng lực và những thuộc tính tiềm tàng trong mỗi cá nhân,
góp phần tạo nên sự thịnh vượng kinh tế, xã hội và của bản thân người ấy”.
Xét về khía cạnh kinh tế học cũng có thể hiểu vốn nhân lực là tổng thể kiến
thức, kỹ năng và trình độ chuyên môn mà người lao động tích lũy được. Nó thể
5
hiện khả năng làm việc với một trình độ nhất định của người lao động. Với người
sử dụng lao động, nó được đánh giá cao bởi mức độ đầu tư và phát triển vốn nhân
lực là một trong những yếu tố gắn liền với khả năng tăng hiệu quả kinh tế. Với
người lao động, nó rất được coi trọng vì đầu tư cho vốn nhân lực được coi là một
phương cách hiệu quả để gia tăng thu nhập trong tương lai. Do vậy cũng như vốn
vật chất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…, vốn nhân lực là kết quả của hoạt
động đầu tư diễn ra trong quá khứ nhằm mục đích gia tăng thu nhập trong tương
lai. Cho nên đầu tư cho vốn nhân lực là đầu tư cho tương lai.
So sánh hai định nghĩa được đưa ra thì định nghĩa của OECD có phần rộng

hơn bởi chủ thể được nhắc tới trong đó không chỉ là những người lao động trực
tiếp như xét trên khía cạnh kinh tế học mà còn một chủ thể khác nữa đó là những
người lao động gián tiếp. Với bài này chúng tôi sẽ phân tích dựa trên tổng hợp của
cả hai định nghĩa trên tức là với một phạm trù lớn hơn về khái niệm người lao động
là những người trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất để tạo nên
nhũng hiểu quả kinh tế - xã hội cho đất nước.
b. Khái niệm giáo dục
Hầu hết các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày "Giáo dục là
hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người”. Định nghĩa trên nhấn mạnh đến
sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng
chưa thấy nói đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó.
Theo John Dewey - nhà triết học và giáo dục học bậc nhất của Mỹ đầu thế kỷ
XX, tồn tại xã hội lại đòi hỏi phải có những kiến thức, kinh nghiệm của con người
mới vượt qua được sự khống chế của sự chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã
hội. Giáo dục là “khả năng” của loài người để đảm bảo tồn tại xã hội. Hơn nữa, J.
6
Dewey cũng cho rằng, xã hội không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, nhưng còn tồn tại
chính trong quá trình truyền dạy ấy.
Theo từ vựng học, từ “giáo dục” trong tiếng Anh là "education". Đây là một
từ gốc Latin ghép bởi hai từ: "Ex" và "Ducere". Có nghĩa là dẫn ("Ducere") con
người vượt ra khỏi ("Ex") hiện tại của họ mà vươn tới những gì thiện hảo, tốt lành
hơn, hạnh phúc hơn.Trong định nghĩa này, sự hoàn thiện của mỗi cá nhân mới là
mục tiêu sâu xa của giáo dục, người giáo dục (thế hệ trước) có nghĩa vụ phải dẫn
hướng, phải chuyển lại cho thế hệ sau tất cả những gì có thể để làm cho thế hệ sau
triển nở hơn, hạnh phúc hơn.
Tóm lại, từ những cách hiểu và khái niệm về giáo dục trên, có thể hiểu rằng
giáo dục là hành động giúp phát triển một tập hợp những tri thức và giá trị tinh
thần, thể chất, trí tuệ, khoa học… được ví như một yếu tố chính để đạt tới một trình
độ văn hoá mong muốn. Giáo dục cho phép truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

những tri thức, văn minh cần thiết cho sự phát triển nhân cách và hội nhập xã hội
của một cá nhân.
2. Vai trò của giáo dục đối với việc phát triển vốn nhân lực
a. Giáo dục đối với việc phát triển trí lực
Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng tạo
thích ứng với xã hội của con người, biểu hiện ở trình độ học vấn, khả năng vận
dụng những điều kiện vật chất tinh thần vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả
cao.
Chất lượng nguồn lực biểu hiện ở hàm lượng trí tuệ, trong đó phải kể tới
những người lao động có học vấn và kiến thức, có tay nghề thành thạo, có phẩm
chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến
gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại. Do vậy ngày nay người ta nói
7
đến tính vô tận, tính không bị cạn kiệt, tính khai thác không bao giờ hết của nguồn
lực con người chính là nói tới yếu tố trí tuệ. Trí tuệ của con người ngày càng phát
triển và có tác động mạnh mẽ nhất đối với sự tiến bộ và phát triển xã hội.
Và giáo dục là yếu tố then chốt giúp phát triển trí lực của nguồn nhân lực một
quốc gia. Giáo dục cung cấp cho con người nguồn tri thức cơ bản từ chữ viết, toán
học đến những kiến thức về khoa học, tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, giáo dục
giúp đào tạo nguồn lao động có trình độ, đảm bảo cung cấp cho xã hội một lượng
đủ lớn những lao động lành nghề, có chuyên môn cao phù hợp với từng lĩnh vực
ngành nghề khác nhau. Giáo dục cũng giúp người lao động biết sử dụng hợp lý và
hiệu quả sức lao động của mình để vừa thay thế sức lao động cũ bị mất đi, vừa tạo
ra sức lao động mới cao hơn, góp phần tăng năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất
phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt trong thời đại phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, giáo
dục chính là yếu tố quyết định, giúp con người tiếp cận dễ dàng hơn với công nghệ,
kĩ thuật hiện đại. Từ đó áp dụng vào công việc của mình, góp phần nâng cao năng
suất lao động và chất lượng công việc.
b. Giáo dục đối với việc phát triển tâm lực

Tâm lực được hiểu là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và
sự hoàn thiện nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động
sản xuất và sáng tạo cá nhân. Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và hành
động cụ thể của con người, tạo nên chất lượng của nguồn nhân lực. Tâm lực tạo ra
động cơ bên trong của chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con người.
Nói cách khác, tâm lực góp phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố thể lực
và trí lực của con người với tư cách nguồn nhân lực của xã hội.
8
Ngay từ những bài học đầu tiên khi đến trường, trẻ em được biết đến lòng yêu
nước, tình yêu thương con người, biết sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau, cùng giúp đỡ,
đoàn kết vượt qua khó khăn… Giáo dục trau dồi nhân cách, hướng con người tới
lối sống lành mạnh, trong sạch; có ước mơ, khao khát vươn lên trong cuộc sống,
biết cách lắng nghe và đánh giá sự việc theo những chuẩn mực đạo đức nhất định,

Trong thời kì hội nhập, giáo dục còn dạy cho mỗi người dân lòng tự tôn dân
tộc và bản lĩnh chính trị rõ ràng. Chúng ta thấy rằng, một khi đạo đức con người,
đạo đức xã hội bị suy đồi thì mọi cố gắng nỗ lực cho đầu tư phát triển kinh tế sẽ
khó đạt được hiệu quả cao.
c. Giáo dục đối với việc phát triển thể lực
Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình
thường, có khả năng lao động. Đây chính là nhân tố nền tảng cho mọi quá trình
phát triển, bởi nếu không nâng cao thể lực, con người khó có thể phát triển được trí
tuệ và khả năng sáng tạo.
Giáo dục giúp con người tiếp cận những kiến thức y tế, biết cách tự chăm sóc,
tự bảo vệ và rèn luyện nâng cao sức khoẻ bản thân. Giáo dục góp phần nâng cao ý
thức người lao động về vệ sinh, an toàn lao động. Đồng thời giáo dục cũng góp
phần chuẩn bị một tương lai tốt hơn cho con em chúng ta như cung cấp cho bà mẹ
kiến thức về dân số - kế hoạch hóa gia đình, về chăm sóc thai nhi, và chế độ dinh
dưỡng cho trẻ em đảm bảo phát triển toàn diện cả về thể lực và trí thông minh của
trẻ em… - nguồn cung cấp nhân lực chính cho xã hội trong tương lai. Có thể thấy

rõ qua số liệu: tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh là con của các bà mẹ đã tốt nghiệp phổ
thông trung học thấp hơn gần 5 lần so với tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh là con của các
bà mẹ chưa bao giờ được đi học chính quy (theo Tổng cục dân số kế hoạch hoá gia
9
đình). Điều đó cho thấy rằng những trẻ em được sinh ra trong gia đình có học vấn
sẽ được đảm bảo về sức khoẻ và phát triển toàn diện hơn.
d. Giáo dục đối với việc tích luỹ tri thức qua các thế hệ
Tri thức nhân loại là bao la vô bờ bến và không ngừng phát triển. Tri thức và
những kinh nghiệm sống được con người trau dồi, góp nhặt và tích luỹ. Nhờ có
giáo dục mà tri thức con người được bảo tồn tích lũy kế thừa và phát huy những
giá trị vốn có của nó.
Giáo dục giúp con người có thể tiếp cận một cách dễ dàng với nguồn tri thức
mà thế hệ trước để lại qua các kênh thông tin như báo chí, internet, sách vở, hay
được truyền dạy từ nhà trường hoặc gia đình. Những giá trị ấy trở thành nền tảng,
chuẩn mực kế thừa cho thế hệ sau. Giáo dục là công cụ giúp con người chắt lọc,
tiếp thu những tinh hoa từ thế hệ trước và bằng sự sáng tạo, kỹ năng cơ bản đã học,
phát triển những kiến thức ấy đến một trình độ cao hơn, phù hợp hơn với điều kiện
xã hội thực tế. Một minh chứng điển hình trong kinh tế học, đó là sự kế thừa và
phát triển của những học thuyết kinh tế. Dựa vào cuốn Lý thuyết chung ( 1936) của
Keyens, John Richard Hick ( 1904 – 1989) đã phát triển mô hình “ Phân tích IS –
LM” làm cho việc xác định điểm cân bằng của Keynes trở nên dễ dàng hơn, và trở
thành cơ sở cho Robert Mundell và John Marcus Fleming phát triển ra mô hình
Mundell – Fleming để phân tích trong một nền kinh tế mở.
Bên cạnh những kiến thức về khoa học, những giá trị đạo đức cũng được gìn
giữ và kế thừa qua các thế hệ. Những đức tính, truyền thống tốt đẹp của cha ông
như hiếu học, cần cù, chăm chỉ, hiếu thảo… cũng được thế hệ sau tiếp thu qua
những bài học trên lớp, những câu ca dao - tục ngữ và dần dần trở thành những
chuẩn mực đạo đức xã hội bền vững. Ví dụ cụ thể nhất chính là lòng yêu nước
nồng nàn thấm nhuần trong tâm hồn mỗi thế hệ Việt Nam. Từ các cuộc khởi nghĩa
chống chế độ phong kiến thời kì Bắc thuộc đến những cuộc chiến tranh chính

10
nghĩa chống lại thực dân Pháp, đế quốc Mĩ xâm lăng và cả trong công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước thời bình, cộng đồng người Việt Nam luôn đoàn kết, sát
cánh bên nhau, tương trợ lẫn nhau vì sự đi lên của đất nước.
Do vậy, có thể khẳng định không một xã hội nào có thể phát triển nếu thiếu
giáo dục. Bởi xã hội muốn phát triển và phát triển ở một trình độ cao thì nhất thiết
phải có sự phát triển, tiến bộ của con người mà đối tượng chính hướng tới là nguồn
nhân lực. Và chỉ trong một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, nguồn nhân lực mới có
thể phát triển một cách toàn diện, là động lực cho những bước tiến xa hơn của xã
hội.
II. Thực trạng và tác động của giáo dục đối với sự phát triển vốn nhân lực Việt
Nam trong khoảng thời gian gần đây
1. Tình hình giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế, nguồn vốn nhân lực càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự
thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và
nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Có thể thấy là khi nhìn lại lịch sử phát triển giáo
dục ở nước ta không ai có thể phủ nhận những thành tựu to lớn mà ngành giáo dục
đã đạt được.
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu học tập của xã hội. Hiện nay hệ thống giáo dục nước ta đã khá hoàn
chỉnh, thống nhất, bao gồm đủ các cấp học, bậc học và các loại hình nhà trường.
Về cơ bản hầu hết các bản, làng, xã, phường đều có trường lớp tiểu học, trường
trung học cơ sở được xây dựng ở các xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ
thông được xây ở các huyện, một số huyện có 2 - 3 trường. Điều đó tạo điều kiện
gia tăng rõ rệt về số lượng học sinh, sinh viên khắc phục tình trạng giảm sút trong
11
những năm vừa qua. Năm 2007- 2008 cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên
tăng 1.03% so với năm 2000-2001. Việc mở rộng quy mô và đa dạng hóa các loại

hình đào tạo đã tạo thêm cơ hội học tập cho người dân, góp phần phát triển hệ
thống giáo dục quốc dân và bước đầu hình thành xã hội học tập.
Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có những tiến bộ.
Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã toàn diện hơn. Trình độ
hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được
nâng cao. Điều đó được minh chứng qua các kì thi Olympic Quốc tế, nhiều người
đã mang về cho Tổ quốc những tấm huy chương vàng, huy chương bạc vô cùng
quý báu. Đó là niềm tự hào của cả dân tộc, và cũng chính là những thành tích đáng
ghi nhận của nền giáo dục Việt Nam. Đồng thời trong những năm gần đây, các
trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa phương. Nhiều
trường đại học đã tổ chức dạy theo chương trình tiên tiến quốc tế. Tính đến tháng
12/2008, có 23 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế đang được thực hiện ở 17
trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Và để đáp ứng tốt hơn nhu cầu
cho các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong hai năm gần đây ngành giáo dục đào tạo đã
tích cực đẩy mạnh việc thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu xã hội.
Chính sách xã hội trong giáo dục được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn.
Giáo dục ở đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa phát triển mạnh, tăng
cơ hội học tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và
trẻ em khuyết tật. Việc miễn giảm học phí và cấp học bổng và các chính sách hỗ
trợ khác đã tạo điều kiện cho các em có hoàn cảnh khó khăn, các diện chính sách
được đến trường. Theo quyết định của Bộ Giáo dục - Đào tạo, từ năm học 2007-
2008, học sinh học nghề, sinh viên đại học, cao đẳng có hoàn cảnh khó khăn được
vay để chi trả cho việc học hành (752.000 người được vay với mức tối đa là
800.000 đồng/tháng). Bên cạnh đó, việc củng cố, phát triển các trường phổ thông
12
dân tộc nội trú và tăng chỉ tiêu cử tuyển đã tạo thêm điều kiện cho con em các dân
tộc thiểu số ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được đào tạo ở đại học,
cao đẳng, tạo nguồn cán bộ cho các vùng này. Sắp tới nhà nước ta sau khi đã thí
điểm sẽ chuẩn bị ban hành chính sách học nghề nội trú cho thanh niên, thiếu niên
con em đồng bào dân tộc góp tạo điều kiện cho các em có thể đi học.

Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được tăng cường hơn. Đã xây dựng
được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đông đảo với tổng số trên
một triệu người (khoảng 950.000 giáo viên, giảng viên và trên 90.000 cán bộ quản
lý giáo dục), với trình độ ngày càng được nâng cao. Và kèm theo đó là cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học ở các cấp, bậc học, ở mọi vùng miền đã được cải thiện đáng
kể trong 5-6 năm qua, nhất là từ khi thực hiện chủ trương đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông và kiên cố hoá trường, lớp học. Một số địa phương, một số
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đã nỗ lực để từng
bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, thiết bị dạy học. Để tạo điều kiện cho việc afny
ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo đã tăng lên cùng với sự tăng trưởng
GDP cao và ổn định. Tỉ trọng chi cho giáo dục - đào tạo trong năm 2001 là 3,2%
và tăng lên 4,7% năm 2007. Tỉ trọng ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục - đào
tạo tăng từ 13% năm 2001 lên 16% năm 2007. Kế hoạch Chiến lược Phát triển giáo
dục giai đoạn 2001-2010 cho thấy Chiến lược của Chính phủ là tăng tỉ lệ phần
trăm ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục lên ít nhất 20% trong năm 2010.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, giáo dục nước ta tồn tại nhiều vấn đề rất
đáng quan tâm. Nhìn lại một chặng đường giáo dục, nếu như đặt Việt Nam trong
thế cô lập so sánh với thời kì trước thì rõ ràng giáo dục nước ta đã tiến bộ, song
nếu đặt giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hóa thì không thể nhắm mắt trước sự tụt
hậu ngày càng xa của Việt Nam so với các nước xung quanh và so với yêu cầu
13
phát triển của xã hội. Có thể nói những dấu hiệu không ổn trong hệ thống giáo dục
Việt Nam đã lộ rõ từ lâu và ngày càng đậm nét.
Trước hết là những bất cập trong việc xác định mục tiêu của giáo dục Việt
Nam. Cho đến thời điểm hiện nay, các trường học ở Việt Nam chưa xác định được
mục tiêu cụ thể để đào tạo học sinh, sinh viên. Điều đó thể hiện rõ nét ở hệ thống
các trường đại học của nước ta. Theo giáo sư tiến sĩ Vũ Minh Giang - Phó Giám
đốc Đại học Quốc Gia Hà Nội thì ba mục tiêu chính mà các trường đại học trên thế
giới hướng đến để đào tạo sinh viên là: trang bị kiến thức nghề nghiệp chuyên
môn, hướng dẫn sinh viên ứng dụng chuyên môn đã học vào công việc thực tế,

nâng cao trình độ nhận thức văn hóa cho sinh viên. Trong khi đó các trường đại
học ở Việt Nam lại hướng đến mục tiêu to lớn không cụ thể như: xây dựng đất
nước, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa… khiến cho cả thầy và trò đôi khi còn
mơ hồ về mục tiêu dạy và học. Nếu lấy ba mục tiêu của các trường đại học trên thế
giới áp dụng cho các trường đại học Việt Nam thì sẽ thấy:
Một là, đa số giảng viên Việt Nam thường dạy cho sinh viên những kiến thức
lý thuyết, những hiểu biết mà họ tích lũy được trong quá trình giảng dạy mà chưa
chú trọng đến việc dạy nghề cho sinh viên.
Hai là, các giảng viên Việt Nam thường ít đề cập đến những kiến thức chuyên
môn, đôi khi những bài giảng của họ không còn phù hợp với tình hình thực tế của
xã hội. Nếu như sinh viên chỉ học ở trường mà không va chạm với cuộc sống bên
ngoài thì khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động rất thấp.
Ba là, các trường đại học ở Việt Nam chưa chú trọng việc rèn luyện phẩm chất
đạo đức cho sinh viên Đại học, họ cho rằng đó là trách nhiệm của các bậc phổ
thông trước đó hoặc thuộc về chính bản thân sinh viên.
14
Thứ hai, nội dung phương pháp giáo dục truyền thống có những mặt chưa
phù hợp với sự phát triển của xã hội. Thay vì học tập và phát triển thêm các hình
thức gỉang dạy mới cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội mới, những phương pháp
mà người thầy chủ yếu đóng vai trò trung gian truyền tải kiến thức thì nền giáo dục
phổ thông của chúng ta tập trung vào việc truyền đạt kiến thức theo kiểu thiên về
đọc và chép giữa thầy và trò. Điều này đã vô tình giết chết khả năng sáng tạo hay
ham muốn tự học hỏi - mục tiêu quan trọng của giáo dục phát triển con người.
Một nghiên cứu mới đây của Tiến sĩ Nguyễn Công Khanh đã khiến chúng ta phải
suy ngẫm về thực trạng giáo dục của Việt Nam:
− Hơn 50% sinh viên được khảo sát không tin vào khả năng tự học của mình.
− Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học
− Gần 70% sinh viên cho rằng mình không có khả năng tự nghiên cứu
− Gần 55% sinh viên được hỏi cho rằng mình không hứng thú học tập
Một điểm đáng quan tâm trong phương pháp giáo dục của Việt Nam là việc

giáo dục kĩ năng sống dù đã được quan tâm nhưng chưa được nhìn nhận đúng đắn
về vai trò của nó. Theo như UNESCO thì bốn trụ cột của việc học tập bao gồm:
Học để biết, Học để làm việc, Học để cùng chung sống, Học để tự khẳng định
mình. Thực tế, những biểu hiện tiêu cực trong đời sống giới trẻ những năm vừa
qua đã cho thấy định hướng còn tồn tại những thiếu xót của nền giáo dục nước nhà
mặc dù không phải là nguyên nhân trực tiếp nhưng cũng đã gián tiếp gây ra do đã
không ngăn chặn kịp thời để xảy ra tình trạng đó. Thống kê từ năm 2005 đến nay,
tổng số vi phạm pháp luật hình sự trong học sinh, sinh viên khoảng hơn 8.000
trường hợp. Trong đó, có các hành vi như đánh nhau, gây rối trật tự công cộng
(hơn 2.000 trường hợp), gần 900 trường hợp tội phạm ma túy, 83 vụ giết người;
gần 1.400 trường hợp cướp tài sản
15
Thứ ba, chương trình giáo dục của nước ta còn chậm đổi mới chưa đáp ứng
được mục tiêu giáo dục. Còn có những nội dung trong chương trình giáo dục ở các
cấp học và trình độ đào tạo không thiết thực, nặng về lý thuyết nhẹ về thực hành,
chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng học tập của
mọi đối tượng học sinh. Việc dùng chung một bộ sách giáo khoa với nội dung và
thời lượng thống nhất trên cả nước bộc lộ nhiều hạn chế. Nôi dung phù hợp với
học sinh ở Hà Nội thì chưa chắc phù hợp với học sinh ở nông thôn, miền núi. Với
tình hình chung của sách giáo khoa như hiện nay, học sinh học hết tiểu học mà
không biết đọc biết viết là điều có thể lí giải. Thống kê kết quả kì thi đại học: hàng
nghìn học sinh bị điểm 0 môn lịch sử, nhiều trường đại học có đến trên 98% (Đại
học Tiền Giang) bài thi sử dưới trung bình, thậm chí có trường hợp con số ấy lên
đến 99% (Đại học Quảng Nam).
Ngoài những bất cập liên quan đến mục tiêu, phương pháp, chương trình, hệ
thống giáo dục còn tồn tại những hạn chế về sự mất cân đối trong cơ cấu giáo dục
và đào tạo.
− Mất cân đối về cơ cấu đào tạo: Năm 1986-1987, số sinh viên là 127.000
lên đến 1.540.201 vào năm 2006-2007 (tăng 11 lần) đối với bậc CĐ - ĐH; so với
120.000 học sinh năm 1986-1987 lên 390.000 năm 2006-2007 (tăng 3 lần) đối với

hệ dạy nghề.
− Mất cân đối về hệ thống các trường đào tạo: Số trường CĐ - ĐH tăng trên
bốn lần, từ 93 trường năm 1986, lên 322 trường 2006, 347 trường năm 2007, 390
trường năm 2008. Còn số trường dạy nghề từ 366 vào năm 1986 giảm còn 129
trường vào năm 1998; sau tăng lên 262 trường năm 2006, 283 trường năm 2007,
315 trường năm 2008.
16
Có thể nói chất lượng giáo dục chưa hiệu quả, mất cân đối tồn tại trong một
thời gian dài chính là vấn đề nổi bật trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Phải chăng
đó chính là gốc rễ khiến nguồn nhân lực nước ta chưa thể hoàn toàn đáp ứng đòi
hỏi của thực tế, đồng thời phần nào cản trở sự phát triển kinh tế?
2. Tác động của giáo dục đối với sự phát triển vốn nhân lực Việt Nam trong
những năm đầu thế kỷ XXI
a. Tác động của giáo dục đến Trí Lực.
Nhìn vào quá trình đổi mới giáo dục trong những năm vừa qua, ai ai cũng phải
công nhận một điều rằng, giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến lớn về mọi
mặt (qui mô, loại hình, phương thức,…) Những thay đổi đó đã và đang tác động
trực tiếp đến sự phát triển về mặt trí lực của vốn nhân lực nước nhà. Trước tiên
phải kể đến sự thúc đẩy tích cực:
Trình độ dân trí của con người ngày càng được nâng cao. Trong những năm
gần đây việc mở rộng quy mô và đa dạng hóa các loại hình giáo dục - đào tạo
không những đã tạo điều kiện cho mọi người dân được đến trường mà còn tạo cơ
hội cho họ có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình.
Trong hệ thống trường học ở nước ta hiện nay ở mỗi tỉnh và thành phố đang cố
gắng xây dựng ít nhất là một trường chuyên để đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên
cứu của một bộ phận các em học sinh có khả năng học tốt các môn văn hóa (trường
chuyên Thái Nguyên, trường Trần Phú – Hải Phòng,…). Bên cạnh việc mở rộng
quy mô và sự đa dạng hóa loại hình đào tạo, cơ sở vật chất của giáo dục (máy móc,
thiết bị dạy học hiện đại,…) đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm và đầu
tư từ Chính phủ cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhờ đó, giáo dục

nước ta đã từng bước nâng cao được dân trí từ việc thanh toán nạn mù chữ (tỷ lệ
biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 90,3% năm 1999 và tăng lên 94% năm
2009), thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học… Vấn đề đào tạo nghề,
17
đào tạo học vấn đại học, sau đại học, đào tạo các tập thể và cá nhân có năng lực
tham gia vào các cuộc thi lớn về trí tuệ như các cuộc thi Olympic Toán học, vật lý,
robocon,… cũng được quan tâm và phát triển.
Khả năng vận dụng những điều kiện vật chất, tinh thần vào hoạt động thực
tiễn nhằm đạt hiệu quả đã được cải thiện rõ rệt. Việc đẩy mạnh phát triển các hoạt
động làm việc nhóm, thuyết trình và làm các bài nghiên cứu sâu về những vấn đề
thực tế đã giúp cho mỗi cá nhân có cơ hội phát huy lý thuyết mà họ được học, áp
dụng nó vào thực tiễn đời sống. Hiện nay, tại rất nhiều trường học (THCS, THPT,
cũng như đại học,…) áp dụng phương pháp học tập lấy học sinh làm trung tâm,
yêu cầu bản thân mỗi học sinh, sinh viên phải dành thời gian tự học, tìm tòi và
nghiên cứu. Học đi đôi với hành, học tập phải gắn liền với thực hành, học tập phải
gắn liền với thực tế, có như vậy lý thuyết mới thực sự phát huy giá trị của nó.
Ngoài những mặt tích cực đã nêu ra, cũng còn tồn tại những tác động tiêu cực
của giáo dục đối với sự phát triển trí lực của vốn lao động.
Tồn tại vấn nạn thừa thầy thiếu thợ. Nảy sinh từ việc mất cân đối trong cơ cấu
giáo dục - đào tạo mà trước tiên có thể nói đến cơ cấu trường, năm 2008 trên cả
nước có 390 trường đại học - cao đẳng trong khi số trường dạy nghề là 315 trường.
Việc các trường đại học ngày càng được dựng nên nhiều đã dẫn đến việc số lượng
học sinh trở thành sinh viên đại học - cao đẳng tăng. Về cơ cấu đào tạo: Số sinh
viên là 1.540.201 vào năm 2006-2007 đối với bậc CĐ - ĐH; so với 390.000 học
sinh đối với hệ dạy nghề. Rõ ràng là số lượng sinh viên quá đông trong khi số
lượng người theo học nghề lại rất thấp (chỉ bằng ¼ số sinh viên theo học CĐ -
ĐH). Sự chênh lệch này đã dẫn đến vốn nhân lực của ta đang thiếu nhiều công
nhân được đào tạo về kỹ thuật, lành nghề, trước hết là trong các ngành trọng điểm
(cơ khí, điện tử - kỹ thuật điện, hóa chất ) và ở các khu công nghiệp lớn, các khu
kinh tế mới. Mặt khác, sự mất cân đối cơ cấu ngành cũng tác động không nhỏ đến

18
vấn nạn thừa thầy thiếu thợ. Nhân lực được đào tạo các ngành kỹ thuật - công
nghệ, nông – lâm – ngư chiếm tỷ trọng thấp, còn tỷ trọng các ngành xã hội, luật,
kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các trường đào tạo về
kinh tế trong khi các trường đào tạo kỹ thuật còn ít. Những điều này đã khiến cho
việc “thầy” thì tràn lan trong khi “thợ” lại không có nhiều.
Sự mất cân đối giữa các vùng dẫn đến sự chênh lệch về trình độ học vấn cũng
như trình độ tay nghề của lao động ở các vùng. Ở những vùng khó khăn về giáo
dục, vốn nhân lực chủ yếu ở trình độ thấp. Do chưa có cơ hội học hành, đào tạo
chuyên sâu, còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đưa tri thức đến với moi người
(cơ sở hạ tầng, điều kiện vật chất,…) nên so với những vùng kinh tế phát triển, các
thành phố lớn nhân lực ở những vùng còn khó khăn sẽ chỉ có thể lao động chân
tay, giản đơn chứ không thể tham gia vào đội ngũ lao động có kinh nghiệm, trình
độ. Điều này đặt ra suy nghĩ cần có biện pháp cụ thể cải thiện thực trạng đáng buồn
này.
Nguồn nhân lực trình độ cao cũng còn rất hạn chế. Nhân lực có trình độ khoa
học và công nghệ, có những hiểu biết sâu rộng trong các ngành, các lĩnh vực quan
trọng của ta như: trao đổi và đàm phán quốc tế, luật quốc tế, lao động sử dụng máy
móc hiện đại,… chưa đông đảo. Theo thống kê công nhân có trình độ cao đẳng, đại
học ở nước ta chiếm khoảng 3,3% đội ngũ công nhân nói chung. Tỉ lệ này khiến
chúng ta phải suy nghĩ, chính vì trình độ văn hoá, tay nghề thấp nên đa số công
nhân không đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Điều này dẫn đến sự mất cân đối về lao
động ở các doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thiếu người nhưng lại thiếu những
công nhân có tay nghề để đảm bảo những khâu kĩ thuật quan trọng trong dây
chuyền sản xuất. Với tình hình đó nguồn lực công nhân chưa thể đóng vai trò chủ
đạo trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, sự nghiệp đòi hỏi các
cá nhân lao động phải có trình độ, tri thức để theo kịp khoa học, công nghệ, sử
19
dụng được các thiết bị tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động, nhưng
vẫn giảm chi phí sức lực (thể lực). Cũng chính sự thiếu chuyên môn này mà Việt

Nam cũng chưa sở hữu hay làm chủ được nhiều sản phẩm công nghệ nguồn, công
nghệ cốt lõi thuộc lĩnh vực công nghệ cao do vậy công nghệ cao hầu như còn vắng
bóng ở hầu hết các ngành kinh tế.
b. Tác động của giáo dục đến Tâm Lực.
Với việc nâng cao điều kiện đảm bảo giáo dục, từ cải thiện cơ sở vật chất đến
chất lượng giáo viên đã tạo ra một môi trường học tập cũng như môi trường để
phát triển tâm lực. Có thể thấy việc giáo dục đạo đức trong nhà trường được nâng
cao và cải thiện, không chỉ dừng lại ở chương trình trong sách giáo khoa mà các
trường học hiện nay còn thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu, các
chương trình ngoại khóa cho học sinh … ( ví dụ như các chương trình biểu diễn
văn nghệ, các khóa học văn thể mỹ , khóa học kĩ năng sống … ). Điều đó đã tác
động rất lớn đến tinh thần, hình thành nên phẩm chất tốt đẹp và góp phần hoàn
thiện nhân cách cho nguồn nhân lực. Cụ thể là từ những khóa học về đạo đức, từ
những chương trình ngoại khóa đến môi trường sống xung quanh đã hướng các thế
hệ học sinh sinh viên đến lòng tự tôn dân tộc, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững
vàng, sống trong sạch lương thiện và có khao khát vươn lên trong cuộc sống.
Các vấn đề về phát triển tâm lực được quan tâm ngay từ khi còn nhỏ, đặc biệt
trú trọng ở lứa tuổi mẫu giáo và tiểu học … Tính riêng trên địa bàn Hà Nội, Tính
đến hết năm học 2010-2011, trên địa bàn TP có 837 trường mầm non và hơn
12.000 nhóm, lớp. Mỗi nhóm, lớp có từ 15 đến 25 học sinh với môi trường thân
thiện, đồ chơi thông minh, truyện kể phát triển tâm hồn … và sự quan tâm giáo dục
của các cô giáo. Sự hình thành những môi trường giáo dục ngay từ khi còn nhỏ đã
giúp các em phát triển về cả thể chất lẫn tâm hồn.
20
Một ví dụ điển hình cho tác động tích cực đến tâm lực của giáo dục đó chính
là sự phát huy tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong nhà trường.
Hàng năm, từ các cấp bậc nhỏ đến các trường đại học trong cả nước thường xuyên
tổ chức các chương trình từ thiện, quyên góp để giúp đỡ học sinh nghèo ở vùng sâu
vùng xa, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh khuyết tật … Chính
trong môi trường giáo dục đó, các em học sinh, sinh viên được học về tình đoàn

kết, tình yêu thương trong cộng đồng để ngày một hoàn thiện nhân cách. Đồng thời
cũng chính những chương trình đó đã giúp nhiều trẻ em nghèo có điều kiện được
học tập tốt hơn.
Có thể thấy học sinh , sinh viên ngày nay phát triển toàn diện hơn, không chỉ
về trí lực mà còn về tâm lực nhưng trên thực tế vẫn còn không ít những thiếu sót.
Việc giáo dục kĩ năng sống chưa được coi trọng ảnh hưởng rất nhiều đến
tương lai của thế hệ trẻ. Mặc dù đã đầu tư nhiều cho việc phát triển toàn diện
nhưng những biểu hiện tiêu cực của giới trẻ những năm vừa qua đã cho thấy định
hướng còn thiếu xót của nền giáo dục nước nhà: sự mở rộng của nền kinh tế thì
trường trong cả môi trường giáo dục, không thống nhất giữa giáo dục ở nhà trường
và gia đình, sự định hướng nhiều khi chỉ mang tính lý thuyết… Khoảng 8000
trường hợp vi phạm pháp luật ở lứa tuổi thanh thiếu niên và sự gia tăng của hiện
tượng các học sinh tụ tập đánh nhau là một hồi chuông cảnh báo về đạo đức của
học sinh sinh viên hiện nay. Học sinh sinh viên hiện nay sẽ là nguồn nhân lực
chính của đất nước ta trong khoảng 5 – 10 năm nữa, nhưng sự thiếu kĩ năng sống
đã dẫn đến những hành vi sai lầm của các em, trong đó một phần trách nhiệm rất
lớn thuộc về sự giáo dục của gia đình và nhà trường.
Nói về ảnh hưởng của giáo dục đến tâm lực, chúng ta không chỉ đề cập đến
vấn đề đạo đức mà còn phải quan tâm đến đời sống tinh thần của học sinh sinh
viên. Cùng với sự phát triển và lan rộng của internet, của truyền hình … văn hóa
21
nước ngoài (văn hóa Hàn Quốc, châu Âu …) đã có ảnh hưởng lớn đến đời sống
của lứa tuổi thanh thiếu niên hiện nay. Một số đã có những xu hướng, những hành
động đi ngược lại hoàn toàn truyền thống văn hóa dân tộc. Một số lại đánh mất đi
lòng tự tôn dân tộc, coi trọng nước ngoài hơn nước mình, dẫn đến lập trường chính
trị trở nên không vững vàng.
Có thể khẳng định rằng việc giáo dục nhân cách là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến cả thể lực và trí lực. Nhưng do những định hướng còn chung chung,
không rõ ràng nên khi bước chân vào môi trường học tập cũng như môi trường
sống, học sinh sinh viên ở nước ta đã hình thành những quan điểm sai. Đó cũng là

một phần nguyên nhân của hàng loạt hiện tượng như: chảy máu chất xám, hiện
tượng bạo lực học đường, hiện tượng biến tấu làm sai lệch tiếng Việt…
c. Tác động của giáo dục đến Thể Lực.
“Sức khỏe là vàng” - từ bao đời nay, đối với mỗi con người, không phân biệt
trình độ học vấn, giới tính, dân tộc, tuổi tác,…thì câu nói trên vẫn luôn đúng. Đối
với những người tham gia lao động, dù là lao động chân tay hay trí óc thì sức khỏe
lại càng đáng quí hơn, bởi trước hết phải có một thể lực tốt mới đủ khả năng để thể
hiện trí lực và tâm lực - hai yếu tố không thể thiếu của nguồn vốn nhân lực. Tự mỗi
người đã có cho mình một thể trạng, tuy nhiên để có được một thể lực tốt, một sức
khỏe dồi dào thì phải cần đến sự đóng góp không nhỏ của giáo dục. Với sự ảnh
hưởng này, nước ta đã và đang xây dựng - cải tiến nền giáo dục và đã có được
những tác động đáng kể đến thể lực của vốn nhân lực:
Giáo dục Việt Nam giúp học sinh, sinh viên tiếp cận những kiến thức, nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của sức khỏe cũng như cách tự chăm sóc, rèn
luyện, bảo vệ bản thân trước bệnh tật thông qua chương trình học chính thức và
các họat động ngoại khóa. Ngay từ cấp I, bộ môn "Sức khỏe" đã được bộ Giáo dục
và Đào tạo đưa vào chương trình học chính, giúp các em ngay từ bé đã có những
22
kiến thức cơ bản cần biết về sức khỏe và cách chăm sóc sức khỏe, cùng với bộ môn
"thể dục" (xuyên suốt 12 năm học phổ thông và lên đến đại học,cao đẳng) với mục
đích tăng cường ý thức rèn luyện cơ thể cũng như kích thích sự yêu thích đối với
việc tập thể thao, rèn luyện thể lực với việc giảng dạy rất nhiều kĩ năng khác nhau
như: chạy, nhảy cao, nhảy xa, cầu lông, … Lên cấp III và đại học, bộ Giáo dục đã
đưa thêm vào chương trình môn “Giáo dục quốc phòng” với mục đích vừa để tôi
luyện tính kỉ luật vừa rèn luyện sức khỏe cho học sinh, sinh viên. Ngoài chương
trình học chính, học sinh còn đc khuyến khích tham gia rất nhiều các họat động
ngoại khóa, các cuộc thi như "hội khỏe Phù Đổng","bé vui bé khỏe". các họat động
giao lưu thi đấu thể thao (bóng đá, bóng rổ, cầu lông, ) giữa các trường, các tỉnh
và thành phố, Nhờ có các họat động này mà học sinh tìm được niềm vui trong
việc tập luyện thể thao, rèn luyện sức khỏe.

Sức khỏe của học sinh, sinh viên luôn được Bộ giáo dục quan tâm. Bộ giáo
dục kết hợp với bộ y tế luôn tổ chức các buổi kiểm tra sức khỏe định kì hàng năm
tại tất cả các trường như một thủ tục bắt buộc để học sinh, sinh viên cũng như nhà
trường có thể theo dõi được tình trạng sức khỏe của học sinh, sinh viên, ngăn chặn
cũng như phát hiện kịp thời. Đồng thời, khi tham gia khám sức khỏe, học sinh có
thể nhận được những lời khuyên, tư vấn từ các chuyên gia, bác sĩ để có cái nhìn
đúng cũng như cách phòng bệnh chữa bệnh một cách khoa học, hiệu quả. Đồng
thời tại các trường học luôn trang bị các dụng cụ y tế cũng như phòng y tế và bác sĩ
để phục vụ cho nhu cầu của giáo viên và học sinh. Vấn đề đảm bảo vệ sinh cũng
được coi là một tiêu chí quan trọng của nhà trường. Nhiều trường học đã được cấp
chi phí để sửa sang lại cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng môi trường cảnh quan
sư phạm. Để đảm bảo điều này, Bộ giáo dục và bộ y tế cũng cử đội ngũ cán bộ đi
kiểm tra tình hình vệ sinh, vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở, nhất là các
trường tiểu học và trung học có bán trú.
23
Quan trọng hơn là qua giáo dục, người lao động có kiến thức sâu hơn, tốt
hơn về vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn lao động. Theo thống kê của Cục An
toàn lao động: năm 2010, số vụ tai nạn lao động trên tòan quốc là 5125 vụ (trong
đó có 5307 người bị nạn), giảm đáng kể so với các năm trước mà cụ thể là năm
2009 với 6250 vụ (6421 người bị nạn) và 2008 với 5836 vụ (6047 người bị nạn).
Như vậy, nhờ có công tác giáo dục và tuyên truyền tốt tới các chủ doanh nghiệp,
những nhà lãnh đạo cho tới những người lao động, công nhân viên chức mà ý thức
của họ về sức khỏe cũng như sự an toàn của chính mình được nâng cao. Nhờ có
giáo dục, người sử dụng lao động được học về các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm, những luật và đạo đức trong kinh doanh để có cái nhìn sâu sắc và quan tâm
hơn tới lao động của mình,…; với những người lao động, họ được học về các quy
trình, biện pháp làm việc an toàn, học về các công cụ bảo vệ thân thể,… Giảm
được số vụ tai nạn cũng có nghĩa là vốn nhân lực của đất nước được bảo đảm hơn
về số lượng.
Tuy đã có nhiều đóng góp tích cực tới thể lực của vốn nhân lực, nhưng giáo

dục Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế:
Về chất lượng giảng dạy, tuy “sức khỏe” và “thể dục” là hai bộ môn trong
chương trình học, nhưng tầm quan trọng của chúng còn chưa được đánh giá đúng
tầm (thể hiện ở việc đa số phụ huynh chỉ quan tâm tới việc cho con em mình học
toán, văn, ngoại ngữ, lí,… chứ không khuyến khích đốc thúc con em học hai môn
kia). Nguyên nhân một phần là do chưa nhấn mạnh được tầm quan trọng của
những kiến thức sức khỏe - thể chất, chưa có phương cách truyền đạt hiệu quả, bài
giảng gây hứng thú do đó chưa thu hút đc niềm yêu thích của học sinh, để học sinh
tự giác tìm hiểu, rèn luyện thêm.
Còn tồn tại sự khác biệt tương đối lớn giữa các vùng. Tại các vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội thấp, những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa,… điều kiện
24
giáo dục vẫn còn gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện
kinh tế còn yếu, nên ngân sách cũng như nhân lực cho giảng dạy và trình độ quản
lý đều ở mức thấp.
Vẫn tồn tại những thiếu xót về thiệt bị giảng dạy và cơ sở vật chất. Thiết bị
giảng dạy và học còn thiếu nhiều, tại nhiều trường đã cũ nát và đôi khi còn không
thể tiếp tục sử dụng được. Do đó, học sinh không được tiếp cận một cách đầy đủ
nhất tới các kiến thức của môn học, chất lượng giảng dạy cũng như tiếp thu bài có
thể bị giảm sút, không tạo được đam mê tìm hiểu, rèn luyện ở học sinh (ví dụ như
học sức khỏe không có tranh ảnh, mô hình minh họa; học thể dục với các dụng cụ
đã cũ, không đảm bảo tính an toàn cho học sinh;…). Cơ sở vật chất tại nhiều
trường học xuống cấp trầm trọng nhưng không có kinh phí để nâng cấp, sửa chữa:
vệ sinh môi trường không được đảm bảo (nhà vệ sinh hôi thối bẩn thỉu là vấn nạn
xảy ra ở rất nhiều trường kể cả một số trường ở các thành phố lớn; nhà bếp không
đáp ứng được tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng học ẩm thấp là môi
trường kích thích các loại vi khuẩn gây bệnh sinh nở và phát triển;…); công tác y
tế tại nhiều trường không được đầu tư, đảm bảo hoặc thậm chí là không có: những
dụng cụ y tế còn ít, lạc hậu, đôi khi là cả không đảm bảo vệ sinh do đó không đáp
ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của giáo viên và học sinh.

Những chính sách giáo dục dành cho trẻ khuyết tật – một bộ phần khác bổ
sung cho nguồn lao động đã được quan tâm nhưng chưa hoàn toàn phát huy được
hiệu quả. Những chính sách đó chưa đến được với tất cả các em: có thể thấy số trẻ
được đi học ở các loại hình trường lớp chỉ chiếm 24,22% tổng số trẻ em khuyết tật,
tức là hơn 800.000 em chưa được đến trường. Bản thân các chính sách trên còn
nhiều hạn chế, do đó tuy thành phần lao động khuyết tật ngày càng tăng nhưng chủ
yếu vẫn là những lao động chân tay giản đơn, vẫn chưa được xã hội coi trọng đúng
với năng lực mà thành phần nhân lực này có thể mang lại cho đất nước.
25

×