Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho hiệu trưởng các trường mầm non huyện quế võ tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.94 KB, 128 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTW : Ban chấp hành Trung ương.
CBQL : Cán bộ quản lý.
CBGV : Cán bộ giáo viên
CĐSP
:
Cao đẳng sư phạm.
CNH : Công nghiệp hóa
CS : Chăm sóc
CSVC : Cơ sở vật chất
GD : Giáo dục
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
GD MN : Giáo dục mầm non
GV : Giáo viên
HĐH : Hiện đại hóa
HS : Học sinh
HT : Hiệu trưởng
KT – XH : Kinh tế - xã hội.
ND : Nuôi dưỡng
NV : Nhân viên
NVQL : Nghiệp vụ quản lý
MN : Mầm non
QL : Quản lý
QLGD : Quản lý giáo dục
PCGD : Phổ cập giáo dục.
PCGDMN : Phổ cập giáo dục MN
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
UBND : Uỷ ban nhân dân.
i
DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN VĂN


Bảng 2.1: Chuyển dịch cơ cấu trên địa bàn huyện Error: Reference source not
found
Bảng số 2.2: Chi ngân sách trên địa bàn huyện Quế Võ- tỉnh Bắc Ninh Error:
Reference source not found
Bảng 2.3 : Qui mô trường, lớp, trẻ mầm non. . Error: Reference source not found
Bảng 2.4. Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non. Error: Reference
source not found
Bảng 2. 5: Chất lượng giáo dục trẻ mầm non. Error: Reference source not found
Bảng 2.6. Số lượng cán bộ quản lý và giáo viên mầm non. Error: Reference source
not found
Bảng 2.7: Trình độ đào tạo của đội ngũ GVMN Error: Reference source not
found
Bảng 2.8: Thống kê đội ngũ CBQL trường MN Error: Reference source not
found
Bảng 2.9 : Ý kiên đánh giá về nghiệp vụ quản lý của HT trường mầm non Error:
Reference source not found
Bảng 2.10 : Những khó khăn mà HT các trường MN thường gặp trong công tác
QL nhà trường Error: Reference source not found
Bảng 2.11: Nguyên nhân của những khó khăn mà HT trường MN gặp phải
trong quản lý nhà trường . Error: Reference source not found
Bảng 2.12 : Quan niệm về việc bồi dưỡng NVQL cho HT trường MN của
CBQL phòng GD & ĐT và CBQL trường MN Error: Reference source not
found
Bảng : 2.13: Thực trạng c ô ng t á c bồi d ư ỡng NVQL cho HT c á c tr ư ờng MN Error:
Reference source not found
ii
Bảng 2.14 : Nhu cầu cần tổ chức bồi dưỡng NVQL cho HT trường MN
Error: Reference source not found
B




ng 2.15:

Nhu c



u của CBQL về



nh t

hứ

c

t

ổ c

hứ

c

bồi dưỡng

Error:
Reference source not found

Bảng 2.16: Nhu cầu về thời điểm tổ chức bồi dưỡng của CBQL trường MN
Error:
Reference source not found
B



ng 2.17:

Nhu c



u về

đị

a

điểm t

ổ c

hứ

c b

ồi dưỡng HT trường MN Error:
Reference source not found
B




ng 2.18: N

hu c



u về

ki

nh p

hí t

ổ c

hứ

c b

ồi dưỡng c
ủa

HT
Error: Reference
source not found
B


ảng 2.19

: N

hu c

ầu về chế độ sau khi bồi dưỡng HT trường MN Error:
Reference source not found
B



n g

3:

Kết

q

u ả

kh ả

o

n g

h i ệ


m

biệ

n p

háp b

ồi
dưỡ

ng


NV

QL
Error: Reference
source not found
c

ho HT
trư



ng



MN

Error: Reference source not found
Biểu đồ 2. 1: Ý kiên đánh giá về nghiệp vụ quản lý của HT trường MN Error:
Reference source not found
Biểu đồ 3.1: Tính cần thiết và tính khả thi của 6 biện pháp ( BP) Error:
Reference source not found
iii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại ngày nay, sự phồn vinh của mỗi quốc gia phụ thuộc vào tiềm
năng, trí tuệ của con người ở quốc gia đó. Vai trò của giáo dục là phát triển
tiềm năng của con người, là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để tiến vào tương lai, là
điều kiện tiên quyết để thực hiện công cuộc phát triển con người, phát triển đất
nước trong thời đại mới.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế,
muốn thực hiện thành công CNH – HĐH trước hết cần phát huy yếu tố nội lực,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mà trong đó nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ nói chung và cán bộ quản lý nói riêng là hết sức quan trọng. Nói đến
công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”, “Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”,
“Có cán bộ tốt việc gì cũng xong” .
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nhân tố quyết định chất
lượng của GD&ĐT. Xây dựng đội ngũ CBQL giáo dục là một vấn đề cấp thiết
được nhấn mạnh trong kết luận của Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khoá
IX: Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư TW Đảng: “Về việc xây
dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” và
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
việc “ Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, đào tạo nguồn nhân lực

có đủ trình độ năng lực đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế- văn hóa- xã
hội” Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã khẳng định "Đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt”[41]. Đặc biệt, ngày 14 tháng 4 năm 2011 tại Thông tư số
1
17/2011/TT-BGDĐT Bộ Giáo dục và đào tạo đã “BAN HÀNH QUY ĐỊNH
CHUẨN HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG MẦM NON”, bao gồm: Chuẩn hiệu
trưởng và đánh giá, xếp loại hiệu trưởng theo Chuẩn. Đây là cơ sở quan trọng
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường mầm non trong giai đoạn
mới.
Có thể nói, phát triển GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là một trong
những động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong đó nhà giáo và
đội ngũ CBQL giáo dục là lực lượng nòng cốt đóng vai trò quan trọng. Nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục một cách toàn diện là nhiệm vụ
đáp ứng yêu cầu trước mắt và mang tính chiến lược lâu dài nhằm thực hiện thành
công chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Trong thời gian qua, ngành GD&ĐT đã đạt được những thành tựu quan
trọng về mọi mặt rất đáng ghi nhận. Hệ thống giáo dục quốc dân ngày một hoàn
chỉnh hơn, mạng lưới trường học các cấp từ Mầm non đến Đại học ngày càng mở
rộng, đội ngũ nhà giáo được tăng cường về số lượng và chất lượng. Nhìn lại 20
năm đổi mới và phát triển, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định:
“Giáo dục và Đào tạo tiếp tục phát triển và đầu tư nhiều hơn; cơ sở vật chất
được tăng cường; quy mô đào tạo mở rộng…”
GDMN là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, với nhiệm
vụ “thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến
sáu tuổi” nhằm “Giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ,
hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp

một”[5]. Để đạt được mục tiêu, GDMN phải phụ thuộc rất nhiều ở đội ngũ
CBQL tại các cơ sở giáo dục mầm non. Do đó, việc bồi dưỡng nâng cao chất
lượng đội ngũ CBQL các trường mầm non là rất cần thiết, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục mầm non nói riêng, đáp
ứng yêu cầu phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên,
2
việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL nói chung đến nay vẫn
chưa được nghiên cứu nhiều, chưa nghiên cứu đầy đủ và chưa có hệ thống, bởi
vậy việc nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL
giáo dục, đặc biệt là đội cán bộ quản lý GDMN trong giai đoạn hiện nay là vô
cùng cần thiết.
Giáo dục mầm non Bắc Ninh nói chung và giáo dục mầm non huyện Quế
Võ nói riêng trong những năm qua đã có chuyển biến rõ rệt cả về quy mô lẫn
chất lượng. Mạng lưới các trường mầm non đã rộng khắp, đội ngũ cán bộ quản
lý và giáo viên nhiệt tình, yêu nghề có trách nhiệm nên đã đạt được những kết
quả đáng kể. Tuy nhiên, công tác chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trong trường
mầm non vẫn còn nhiều hạn chế do những nguyên nhân khác nhau. Một trong
nguyên nhân cơ bản đó là năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý các trường Mầm
non còn hạn chế. Thực tế cho thấy đại đa số hiệu trưởng trường mầm non
huyện Quế Võ đều chưa được bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý một cách đầy
đủ, hệ thống. Họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm do bản thân tự học hỏi,
kết hợp với những kiến thức được bồi dưỡng theo từng chuyên đề hoặc theo vụ
việc. Đặc biệt, từ khi UBND Tỉnh có Quyết định chuyển đối 100% trường MN
bán công của huyện sang công lập (tháng 4/2011) thì công tác quản lý của HT
càng gặp nhiều khó khăn và bộc lộ nhiều hạn chế bất cập. Do đó, chất lượng
hoạt động quản lý trong các nhà trường MN còn kém hiệu quả, khi cần giải
quyết các tình huống đặt ra còn lúng túng đã có ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của nhà trường nói riêng, của bậc học nói chung. Chính vì vậy, là
một cán bộ đang công tác tại phòng GD&ĐT Quế võ Tỉnh Bắc ninh, đã có thời
gian khá dài làm cán bộ quản lý trường mầm non, em đã chọn và nghiên cứu đề

tài:“Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho hiệu trưởng các trường Mầm
non Huyện Quế võ - Tỉnh Bắc Ninh” với hy vọng góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non và nâng cao chất lượng giáo dục
mầm non tại địa phương.
3
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác bồi dưỡng nghiệp vụ
quản lý cho Hiệu trưởng trường mầm non, đề xuất biện pháp tổ chức bồi
dưỡng nghiệp vụ quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBQL trường
mầm non Huyện Quế võ - tỉnh Bắc Ninh.
3. Giả thuyết khoa học
Trình độ nghiệp vụ quản lý của hiệu trưởng các trường mầm Huyện
Quế Võ còn những hạn chế nhất định, nếu đề xuất được biện pháp tổ chức bồi
dưỡng nghiệp vụ quản lý phù hợp và được thực hiện một cách đồng bộ thì
trình độ NVQL của HT các trường MN huyện Quế Võ – tỉnh Bắc Ninh sẽ
được nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non trên địa bàn,
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác quản lý đội ngũ CBQL trường mầm non của Huyện Quế Võ –
Tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho hiệu trưởng các
trường mầm non Huyện Quế Võ - Tỉnh bắc Ninh .
5. Nhiệm vụ nghiên cứu :
5.1. Xác định cơ sở lý luận về bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho hiệu
trưởng trường mầm non.
5.2. Nghiên cứu thực trạng trình độ nghiệp vụ quản lý của hiệu trưởng các
trường mầm non và công tác bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ này ở
các trường mầm non của huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh.

5.3. Đề xuất biện pháp tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho Hiệu
trưởng các trường mầm non huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh.
4
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được khảo sát tại một số Trường mầm non thuộc địa bàn huyện
Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu biện pháp tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho Hiệu
trưởng các trường mầm non Huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh trên bình diện tổ
chức quản lý công tác bồi dưỡng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, hồi cứu, tổng kết, hệ thống hóa lý luận các công trình nghiên
cứu, các tài liệu lý luận được chọn lọc liên quan đến đề tài nghiên cứu để làm
luận cứ khoa học cho các biện pháp.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra:
Sử dụng các mẫu phiếu điều tra đối với GVMN, CBQL để thu nhập những
thông tin về thực trạng công tác bồi dưỡng và trình độ nghiệp vụ quản lý của
HT các trường mầm non huyện Quế Võ.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Lấy ý kiến của các nhà quản lí có
kinh nghiệm để xin ý kiến đề xuất biện pháp và xác định tính hiệu quả, tính khả
thi của các biện pháp đề xuất.
- Phương pháp quan sát:
Quan sát, tìm hiểu hoạt động dạy và học của GV và trẻ. Tìm hiểu công tác
chỉ đạo của Sở Giáo dục, phòng Giáo dục về tổ chức bồi dưỡng NVQL cho
Hiệu trưởng trường mầm non.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Tổng kết kinh nghiệm quản lý công tác bồi dưỡng NVQL
- Phương pháp khảo nghiệm:
5

Sử dụng nhằm minh chứng tính hiệu quả và tính khả thi của những biện
pháp đã đề xuất…
7.3. Nhóm phương pháp thống kê và sử dụng toán học
Chủ yếu dùng để thống kê, phân tích, tổng hợp và xử lý các số liệu thu
thập được.
8. Đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến việc bồi
dưỡng NVQL cho Hiệu trường trường Mầm non và làm rõ thực trạng công tác
tổ chức bồi dưỡng NVQL cho Hiệu trưởng trường mầm non huyện Quế võ -
Tỉnh Bắc Ninh, đề tài đã đề xuất biện pháp tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản
lý cho hiệu trưởng các trường mầm non huyện Quế Võ - Tỉnh bắc Ninh, góp
phần nâng cao năng lực QL cho đội ngũ này, từ đó nâng cao chất lượng GDMN
trên địa bàn.
9. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu
tham khảo, các phụ lục, luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bồi dưỡng NVQL cho Hiệu trưởng trường
Mầm non.
Chương 2. Thực trạng công tác tổ chức bồi dưỡng NVQL cho Hiệu
trưởng trường mầm non huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Biện pháp tổ chức bồi dưỡng NVQL cho Hiệu trưởng trường
mầm non huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh.
6
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ CHO
HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG MẦM NON
1.1.Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
Nói đến quản lý nói chung và nghiệp vụ quản lý trường mầm non nói
riêng đã có nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài quan tâm nghiên cứu.
Ở nước ngoài, tác phẩm của Hayden J. (1996) về “Quản lý trường mầm

non” (Management of Early Childhood Services) - Wentworth Falls NSW,
Social Sciences Press và tác phẩm cùng tên ( Management in Pre -schools ) do
Pre - schools Learning Alliance ( PLA) ấn hành tại London năm 2000 là những
tác phẩm tiêu biểu. Bên cạnh đó, còn một số nghiên cứu khác tìm hiểu rộng
hơn đến vai trò của người lãnh đạo ở nhà trường mầm non như nghiên cứu của
Cushla Scrivens (1990) ( Professional Leadership in Early Childhood - the
New Zealand Kindergarten Experience); Stamopoulos E. ( 2003) ( Leadership
and Change Management in Early Childhood ); và Rodd J. ( 2006)
( Leadership in Early Childhood)
Ở Việt Nam, từ trước tới nay Đảng và Nhà nước ta luôn coi Giáo dục -
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiều chủ trương và nghị quyết về phát
triển GDMN được triển khai. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về quản
lý GDMN trong những năm tháng chiến tranh chưa được nghiên cứu một cách
hệ thống và sâu rộng. Những nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực quản lý
trường mầm non và đặc biệt là nghiệp vụ quản lý của hiệu trưởng trường mầm
non chỉ mới được quan tâm nhiều những năm gần đây, cụ thể là:
Tác giả Đinh Văn Vang (1996) đã tổng kết và phân tích những vấn đề cơ
bản trong lý luận quản lý nhà trường Mầm non. Những nghiên cứu của ông
được trình bầy trong tác phẩm “ Một số vấn đề quản lý trường mầm non”. Nội
dung của tác phẩm nêu rõ: mục đích, ý nghĩa của công tác quản lý trường mầm
7
non; cơ cấu tổ chức - quản lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, những yêu cầu
về phẩm chất và năng lực của nhân cách tham gia vào công tác quản lý nhà
trường, đặc biệt là hiệu trưởng và giáo viên mầm non; nội dung công tác của
người hiệu trưởng trường mầm non…
Tác giả Trần Thị Bích Liễu ( 2001) cũng đã nghiên cứu và ra mắt tác
phẩm “ Kỹ năng và bài tập thực hành quản lý trường MN của HT”. Nội dung
tác phẩm cung cấp những tri thức khoa học về nghiệp vụ quản lý trường MN và
một số bài tập thực hành xử lý tình huống quản lý hay những công việc quản lý

mà HT trường MN phải giải quyết trong thực tiễn.
Sau các nghiên cứu trên, Phạm Thị Châu ( 2002) cũng đã nghiên cứu vấn
đề về công tác quản lý của hiệu trưởng trường mầm non trong tác phẩm “ Một
số vấn đề quản lý giáo dục mầm non”. Nội dung của tác phẩm nêu một số khái
niệm về quản lý, quản lý giáo dục và quản lý trường mầm non; chức năng quản
lý và quản lý giáo dục; hệ thống mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp quản lý
trường mầm non; vị trí, tính chất,nhiệm vụ của trường mầm non; tổ chức bộ
máy trường mầm non; vai trò của hiệu trưởng trong công tác quản lý trường
mầm non…
Gần đây, một số luận văn thạc sĩ cũng đã đề cập đến công tác quản lý và
nghiệp vụ quản lý của hiệu trưởng trường mầm non, tiêu biểu là đề tài “Biện
pháp nâng cao năng lực quản lý của hiệu trưởng các trường mầm non tỉnh Bắc
Ninh” của Lương Thị Biển. Luận văn đã nói lên vai trò của hiệu trưởng trong
công tác quản lý trường mầm non, những khó khăn mà hiệu trưởng các trường
thường gặp phải trong công tác quản lý hiện nay và một số biện pháp bồi
dưỡng năng lực quản lý chuyên môn của hiệu trưởng nhằm nâng cao hơn chất
lượng giáo dục mầm non
Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sĩ khác có liên quan đến vấn đề bồi
dưỡng năng lực quản lý, như: “Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi
dưỡng đội ngũ CBQL trường Mầm non ở trường bồi dưỡng cán bộ giáo dục
8
Hà Nội” của

Hồ

Nguyệt

Ánh (2000); “Thực trạng và các biện pháp góp phần
nâng cao năng lực QL của HT các trường mầm non quận Cầu Giấy” của Lê Thị
Đức (2000); “Một số biện pháp nâng cao năng lực QL cho CBQL các trường

MN huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên” của Đặng Thị Bích Thủy (2001); “Các
biện pháp nâng cao năng lực QL chuyên môn của HT các trường MN Hà Nội”
của Nguyễn Thị Bích Thủy (2002); “Những giải pháp đào tạo bồi dưỡng đội
ngũ CBQL bậc học mầm non tỉnh Thái Nguyên” của Nguyễn Thị Mai Loan
(2002); “Một số biện pháp tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ
cho CBQL mầm non Hà Nội” của Đỗ Thúy Hảo V.v…
Các công trình trên đã đề cập đến những vấn đề cơ bản liên quan đến
hoạt động của HT trường MN và đưa ra một số biện pháp giúp họ nâng cao khả
năng quản lý nhà trường. Các biện pháp đó bao gồm cả các biện pháp đào tạo
và bồi dưỡng. Đồng thời cũng gợi ra một số nội dung trong NVQL của HT
trường MN. Mỗi công trình nghiên cứu đều có góc nhìn riêng về quản lý
GDMN và QL của Hiệu trưởng trường mầm non, song chưa có đề tài nào
nghiên cứu sâu về tổ chức bồi dưỡng NVQL cho hiệu trưởng các trường mầm
non huyện Quế Võ – Tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, tôi muốn được nghiên cứu theo
hướng này, tìm ra những biện pháp tổ chức bồi dưỡng NVQL cho hiệu trưởng
các trường mầm non huyện Quế Võ nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển GDMN
trên địa bàn.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Bản chất của quản lý là các hoạt động của chủ thể quản lý tác động lên
các đối tượng quản lý để đạt mục tiêu đã xác định. Quản lý vừa là một nghệ
thuật, vừa là một khoa học. Đó là nghệ thuật làm cho người khác làm việc hiệu
quả hơn những điều bản thân họ sẽ làm được nếu không có sự quản lý. Còn
khoa học chính là cách làm thế nào để thực hiện được nghệ thuật quản lý. Lên
kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và giám sát là bốn điều căn bản trong khoa học đó.
9
Từ thời cổ đại, ở các nước phương Đông, tiêu biểu là Trung Hoa và Ấn
Độ đã xuất hiện những tư tưởng về quản lý. Đó là những tư tưởng về “Đức trị”
của Khổng Tử (551-479 TCN), Mạnh Tử (372-289TCN); theo học thuyết của
Khổng Tử để trị quốc, quản lý đất nước phải lấy chữ “Nhân” làm cốt lõi. Tư

tưởng về “Pháp trị” (trị quốc bằng pháp luật) của Hàn Phi Tử (280-233TCN),
Thương Ưởng (390-338TCN)… Ngày nay, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên
cứu, những tư tưởng này vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc và đậm nét trong phong
cách quản lý và văn hóa của nhiều nước Châu Á, nhất là Trung Hoa, Nhật Bản,
Việt Nam, Singapore… và là bài học quý cho việc nghiên cứu hoạt động quản
lý.
Ở các nước phương Tây, vào thế kỷ thứ IV, III trước Công nguyên, điển
hình có Soocrat (469-399 TCN) và Platôn (427-347 TCN) với quan niệm về
người đứng đầu trong việc cai trị dân. Theo tư tưởng này, những người nào biết
cách sử dụng con người sẽ điều khiển công việc hoặc cá nhân hoặc tập thể một
cách sáng suốt, trong khi những người không biết làm như vậy sẽ mắc sai lầm
trong điều hành cả hai công việc này…
Theo sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp, từ thế kỷ XIX đã xuất
hiện nhiều nhà nghiên cứu quản lý tiêu biểu như Robert Owen (1771-1858),
Charles Babbage (1792-1871), Frederick Winslow Taylor (1856-1915) với
quản lý theo khoa học, Henry Fayol (1841-1925) với các nguyên tắc quản lý,
Max Weber (1856-1920) với quản lý hành chính và các trường phái quản lý
quan tâm đến con người trong tổ chức của Elton Mayo (1890-1948)…
Nói đến khái niệm “quản lý” là một khái niệm rất tổng quát và có nhiều
quan niệm khác nhau. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu:
Theo từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định”;[36]
10
F.W Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn
người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách
tốt nhất và rẻ nhất”;[15]
Harol Koontz thì khẳng định: “Quản lý là hoạt động thiết yếu bảo đảm
sự nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức”;[15]
Thomas J. Robbins – Wayned Morrison cho rằng: “Quản lý là một nghề
nhưng cũng là một nghệ thuật, một khoa học”;[15]

Ở nước ta, cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý:
Theo Nguyễn Kỳ - Bùi Trọng Tuân: “Quản lý là những tác động có định
hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đối tượng bị quản lý trong tổ chức để
vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định”;[20]
Theo Mai Hữu Khuê: “Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể
những người LĐ nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định
trước”;[18]
Theo Đặng Vũ Hoạt – Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình có định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ
thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng
cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” ;[16]
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người LĐ (khách thể quản lý)
nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến”;[26]
Các định nghĩa trên tuy nhấn mạnh mặt này hay mặt khác, nhưng điểm
chung thống nhất đều coi quản lý là hoạt động có tổ chức, có mục đích nhằm
đạt tới mục tiêu xác định. Trong quản lý bao giờ cũng có chủ thể quản lý,
khách thể quản lý quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Từ những ý
chung của các định nghĩa và xét quản lý với tư cách là một hành động, có thể
định nghĩa: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản
lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. Hay nói cách khác, Quản lý
11
là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng các
nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng
người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
1.2.2. Qu¶n lý gi¸o dôc
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của lao động xã hội. Đây là hoạt
động chuyên môn nhằm thực hiện quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
lịch sử – xã hội qua các thế hệ, đồng thời là một động lực thúc đẩy sự phát triển
xã hội. Để hoạt động này vận hành có hiệu quả, giáo dục phải được tổ chức

thành các cơ sở, tạo nên một hệ thống nhất. Điều này dẫn đến một tất yếu là
phải có một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập tương đối trong giáo dục, đó là
hoạt động quản lý giáo dục. Quản lý giáo dục được xem như là một hoạt động
chuyên biệt để quản lý các cơ sở giáo dục.
* Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục:
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục)
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu
điểm là hội tụ của quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới
mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [26].
Thực chất, quản lý giáo dục là một khoa học về quản lý. Chính vì lẽ đó
quản lý giáo dục có đầy đủ các nguyên tắc chung của một khoa học quản
lý.Tuy nhiên, do tính đặc thù của quản lý giáo dục, sản phẩm của giáo dục là
nhân cách con người. Quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng là
tình cảm, tâm lý, ý thức con người (học sinh, giáo viên). Bởi thế, quá trình giáo
dục phải diễn ra trong một thời gian dài và huy động nhiều lực lượng tham gia
cùng một lúc. Cho nên, quản lý giáo dục không chỉ có đầy đủ các nguyên tắc
chung về quản lý mà nó còn chứa đựng những nguyên tắc đặc thù riêng:
+ Thứ nhất đó là tính kế thừa.
12
+ Thứ hai đó là nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng chăm lo cho sự
nghiệp giáo dục. Giáo dục là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân.
+ Thứ ba đó là nguyên tắc kết hợp thuyết phục với công tác tổ chức,
động viên tinh thần với khuyến khích vật chất, chăm lo đời sống giáo viên và
cán bộ giáo dục
Như vậy, bản chất của hoạt động quản lý giáo dục là quản lý hệ thống
giáo dục, là sự tác động có mục đích có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý theo những quy luật khách quan nhằm đưa
hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả .

1.2.3. Quản lý nhà trường
Trường học là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước- xã hội là nơi
trực tiếp làm công tác đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ. Nó là tế bào cơ sở, chủ chốt
của bất cứ hệ thống giáo dục ở cấp nào (từ trung ương đến địa phương).
“Trường học là thành tố khách thể cơ bản của tất cả các cấp quản lý giáo dục,
vừa là hệ thống độc lập tự quản của xã hội. Do đó quản lý nhà trường nhất thiết
phải vừa có tính nhà nước vừa có tính xã hội (nhà nước và xã hội cộng đồng và
hợp tác trong việc quản lý nhà trường”.
Về quản lý nhà trường, GS Phạm Minh Hạc đã đưa ra định nghĩa: “Quản
lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và từng học sinh” [13]. Trên cơ sở quan niệm ấy, có thể thấy: Quản lý
trường học là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể
giáo viên, học sinh và các bộ phận khác nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do
nhà nước đầu tư cũng như do lực lượng các xã hội đóng góp, hoặc vốn tự có
của nhà trường, hướng vào việc đẩy mạnh hoạt động của nhà trường mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình đào tạo, giáo dục thế hệ trẻ. Tất cả nhằm thực hiện có
chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái
13
mới. Cốt lõi của quản lý nhà trường là quản lý quá trình dạy học và giáo dục.
Bản chất quá trình dạy học quyết định tính đặc thù của quản lý nhà trường. Dạy
học và giáo dục trong sự thống nhất là trung tâm của nhà trường. Mỗi hoạt
động đa dạng và phức tạp của nhà trường đều hướng vào đó.
Như vậy, nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm tập hợp
và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục
khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo trong nhà trường. Đây thực chất là quản lý quá trình lao
động sư phạm của thầy, hoạt động học tập và tự giáo dục của trò diễn ra chủ
yếu trong quá trình dạy học. Tuy nhiên, do tính quản lý nhà trường vừa mang

tính nhà nước vừa mang tính xã hội nên trong quản lý nhà trường còn bao hàm
quản lý đội ngũ, CSVC, tài chính, hành chính - quản trị và quản lý các hoạt
động phối kết hợp với các lực lượng xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục.
S¬ ®å 1: C¸c yÕu tè hîp thµnh qu¸ tr×nh gi¸o dôc
1.2.4. Quản lý trường mầm non
Giáo dục mầm non là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của hệ
thống giáo dục, là bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát
MT
TH
Tr
PP
ND
CSVC
Qu¶n lý
14
triển nhân cách trẻ. Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất,
nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội, trí tuệ và thẩm mĩ, hình thành những
yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp một. Trường MN
là đơn vị cơ sở của ngành GDMN thuộc hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
do ngành GD quản lý. Trường MN tiếp nhận trẻ từ 3 tháng đến 6 buổi (trước
khi trẻ vào lớp 1) để CS, ND và GD. Trường MN có vị trí rất quan trọng bởi nó
là cơ sở đầu tiên đặt nền móng cho việc hình thành, phát triển nhân cách của trẻ
và chuẩn bị những tiền đề cần thiết để trẻ bước vào trường phổ thông.[5]
- Mục tiêu đào tạo của trường MN là hình thành cho trẻ những cơ sở
đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
+ Trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hòa, cân đối.
+ Giàu lòng thương, biết quan tâm, nhường nhịn gần gũi mọi người,
thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên.
+ Yêu thích cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp ở
xung quanh

+ Thông minh, ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi, có một số kỹ năng
sơ đẳng (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận ) cần thiết để vào
trường phổ thông, thích đi học.
- Nhiệm vụ của trường mầm non:
+ Tổ chức và nuôi dưỡng, CS, GD trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi theo
chương trình GDMN do Bộ GD&ĐT ban hành.
+ Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; tổ chức giáo dục hòa
nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật.
+ Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
+ Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.
+ Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa hoặc
theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.
15
+ Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt
động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục.
+ Tổ chức cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia các
hoạt động xã hội trong cộng đồng.
+Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
em theo đúng quy định.
+ Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
- Tính chất của trường mầm non:
+ Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ nhằm hình thành, phát triển
nhân cách trẻ em một cách toàn diện.
+ CS, GD trẻ em mang tính chất giáo dục gia đình, giữa cô và trẻ là quan
hệ tình cảm mẹ - con, trẻ thông qua chơi mà học, học bằng chơi.
+ Tổ chức nhà trẻ, trường mẫu giáo mang tính chất tự nguyện; Nhà nước
và nhân dân cùng chăm lo.
- Nội dung của công tác quản lý trường MN là quản lý quá trình chăm
sóc, giáo dục trẻ, bao gồm:

+ Quản lý mục tiêu, nhiệm vụ CS, GD trẻ.
+ Quản lý nội dung CS, GD trẻ.
+ Quản lý phương pháp, phương tiện CS, GD trẻ.
+ Quản lý giáo viên (lực lượng giáo dục).
+ Quản lý trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi (đối tượng giáo dục).
+ Quản lý kết quả CS, GD trẻ
Các nội dung của quá trình CS, GD trẻ có quan hệ gắn bó với nhau, trong
đó mục tiêu, nhiệm vụ CS, GD giữ vai trò định hướng cho sự vận động phát
triển của toàn bộ quá trình và cho từng nội dung.
- Bộ máy quản lý của trường MN bao gồm:
+ Ban giám hiệu nhà trường.
+Tổ chức Đảng và các đoàn thể.
16
+ Hội đồng sư phạm.
+Tổ chuyên môn.
+ Các tổ chức khác.
Như vậy, quản lý trường mầm non là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý (hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên để chính họ
tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục đối với từng độ tuổi và mục tiêu chung của bậc học.
1.2.5. Nghiệp vụ quản lý:
Từ điển tiếng Việt định nghĩa : Nghiệp vụ là công viêc chuyên môn của
một nghề. Nghiệp vụ là những công việc mà mỗi người phải thực hiện để hoàn
thành chức trách của mình. Muốn hoàn thành chức trách của mình, họ phải hiểu
rõ nội dung và cách thức thực hiên công việc và phải có một trình độ chuyên
môn nhất định.[36]
Như vậy, nghiệp vụ quản lý là công việc mà nhà quản lý phải làm để
thực hiện chức trách của mình. Tùy theo yêu cầu của từng ngành, từng cấp
quản lý mà nhà quản lý có những công việc khác nhau. Tuy nhiên để thực hiện
tốt chức trách của mình, các nhà quản lý phải tuân thủ theo các nguyên tắc,

phương pháp, và thực hiện các chức năng quản lý nhất định. Do đó, nghiệp vụ
quản lý thực chất là những công việc, những cách thức mà nhà quản lý phải
làm để thực hiện các chức năng quản lý, nội dung quản lý trong một bộ máy.
Nói cách khác nghiệp vụ quản lý là công việc chuyên môn của người quản lý.
1.2.6. Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý.
Trong giáo dục và đào tạo có các quá trình nối tiếp và xen kẽ: Đào tạo,
bồi dưỡng và đào tạo lại. Các quá trình này gắn liền với sự hình thành và phát
triển nghề nghiệp của người cán bộ quản lý, giáo viên theo xu thế học tập
thường xuyên, suốt đời.
17
Đào tạo là hình thành ở người học một trình độ mới, cao hơn trình độ
trước đó của họ. Người được đào tạo sẽ được nâng từ trình độ thấp lên trình độ
cao hơn và điều đó được khẳng định bằng một văn bằng tương ứng.
Đào tạo lại là một dạng của đào tạo, là quá trình tạo cho người lao động (
đã được đào tạo) có cơ hội được học tập và được đào tạo chuyên sâu một lĩnh
vực chuyên môn mới một cách cơ bản, có hệ thống cả về tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo và thái độ nhằm mục đích có trình độ tay nghề cao hơn hoặc có thể chuyển
đổi được công việc. Như vây, đào tạo lại cũng có nội dung gần với đào tạo.
Đào tạo lại được tiến hành trong trường hợp người lao động không đáp ứng
được yêu cầu của công việc hiện tại. Họ cần được chuyên môn hoá cao hơn
hoặc chuyển đổi sang một công việc khác mà cần có những kiến thức, kỹ năng
để đáp ững yêu cầu công việc.
Theo từ điển tiếng Việt: Bồi dưỡng là làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm
chất.Theo tài liệu của UNESCO, bồi dưỡng được hiểu như sau:
- Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng, thái độ để
nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất của người lao động về một lĩnh vực
hoạt động mà người lao động đã có một trình độ năng lực chuyên môn nhất
định qua một hình thức đào tạo nào đó.
- Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra
khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hay kỹ năng chuyên môn,

nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng các yêu cầu của lao động nghề nghiệp.
Theo Nguyễn Minh Đường: “ Bồi dưỡng có thể là một quá trình cập nhật kiến
thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và
thường được xác nhận bằng một chứng chỉ”.[12]
Từ quan niệm trên, cho ta thấy:
- Chủ thể của quá trình bồi dưỡng đã được đào tạo để có một trình độ
chuyên môn nhất định.
18
- Thực chất của quá trình bồi dưỡng là bổ sung cập nhật kiến thức và kỹ
năng còn thiếu hoặc lạc hậu nhằm nâng trình độ, phát triển thêm năng lựctrong
một lĩnh vực hoạt động chuyên môn dưới một hình thức phù hợp.
- Mục đích của bồi dưỡng là nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên
môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn đã có sẵn, giúp cho công việc đang làm đạt
hiệu quả tốt hơn.
Như vậy, bồi dưỡng NVQL là: Bổ sung và cập nhật các kiến thức và kỹ
năng còn thiếu hoặc lạc hậu nhằm nâng cao trình độ, phát triển thêm năng lực
để người quản lý thực hiện tốt các chức năng quản lý, qua đó hoàn thành chức
trách của mình được giao.
1.3. Lý luận về bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho Hiệu trưởng trường MN
1.3.1. Giáo dục Mầm non trong bối cảnh mới
Đất nước đã và đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, lực lượng
sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, tăng
trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện về mọi mặt. Quá trình
giao lưu, hợp tác và cạnh tranh trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng
mạnh mẽ.
Cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ phát triển với qui mô ngày càng rộng
lớn và mức độ ngày càng cao.
Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học - Công nghệ vì nó đóng
vai trò phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trước sự đổi mới

giáo dục đang diễn ra trên qui mô toàn cầu, bản thân hệ thống GD&ĐT đang
thay đổi hướng tới xây dựng một nền giáo dục cho tất cả mọi người, nền giáo
dục ngày càng có tính chất đại chúng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI đã khẳng định: “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và đội
19
ngũ cán bộ quản lý là khâu then chốt” và “ Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trong xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam”;
[41]. Chiến lược phát triển KT - XH 2011 – 2020 đã định hướng: “ phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là
khâu đột phá chiến lược”[9].Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI,
ngày 13 tháng 6 năm 2012 Thủ tường chính phủ đã ký Quyết định số 711/QĐ-
TTg phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020
nhằm quán triệt và cụ thể hoá các chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục và
đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 của đất nước.
Mục tiêu tổng quát phát triển giáo dục đến năm 2020 là: Đến năm 2020, nền
giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, chất lượng giáo dục
được nâng cao một cách toàn diện, gồm: Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống,
năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ tin học, đáp ứng nhu
cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng
xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước
hình thành xã hội học tập.[9]
Trước yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước, giáo dục mầm non
được chỉ đạo bởi các quan điểm:
- GDMN là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền

móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ
em Việt Nam. Việc chăm lo phát triển GDMN là trách nhiệm chung của các
cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
20
- GDMN gắn với nhu cầu phát triển KT - XH và những tiến bộ khoa học
công nghệ.
- Thực hiện công bằng trong GDMN.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 đã xác định mục tiêu cụ thể
đối với giáo dục mầm non là: Hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015; đến năm 2020, có ít nhất 30% trẻ em trong độ tuổi
nhà trẻ và 80% trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc, giáo dục tại các cơ sở
giáo dục mầm non; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm
non giảm xuống dưới 10%.[9]
Tóm lại: Trước những yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước, với xu
thế hội nhập cùng với những thời cơ và thách thức hiện nay, đòi hỏi ngành
GD&ĐT cần có những biện pháp cụ thể để phát triển giáo dục nói chung và
GDMN nói riêng với mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp và các cơ
chế chính sách thích hợp.
1.3.2. Nghiệp vụ quản lý của Hiệu trưởng trường mầm non:
1.3.2.1.
Vị

trí

vai

trò

của


hiệu

trưởng

trường

mầm

non
Hiệu trưởng trường MN là người đứng đầu đơn vị, cơ sở của ngành
GDM, là người chịu trách nhiệm trước Đảng bộ, chính quyền địa phương và
cấp trên về quản lý toàn bộ hoạt động và chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em trong nhà trường theo đúng đường lối giáo dục của Đảng,
phương hướng, nhiệm vụ của ngành.
Hiệu trưởng phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc
công nhận. Hiệu trưởng trường MN phải có trình độ từ trung học sư phạm trở
lên và có thời gian công tác GDMN ít nhất là 5 năm, được tín nhiệm về chính
trị đạo đức và chuyên môn, có năng lực tổ chức và quản lý trường học. Vai trò
của HT trường MN đã được nêu rõ trong Quyết định 55 quy định mục tiêu, kế
hoạch đào tạo của nhà trẻ - trường mẫu giáo: Cán bộ quản lý và giáo viên MN
là lực lượng chủ yếu quyết định chất lượng GDMN. Nói cụ thể hơn, HT trường
21
MN có vị trí quyết định trong việc đưa nhà trường tiến tới các mục tiêu về CS,
GD trẻ em trong độ tuổi quy định. Hiệu trưởng trường MN là người chịu trách
nhiệm cao nhất về hành chính và về chuyên môn trong nhà trường.
1.3.2.2.

Nhiệm


vụ

của

hiệu

trưởng

trường

mầm

non
*Hiệu trưởng trường mầm non có những nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất: Đảm bảo yêu cầu CS, GD trẻ theo yêu cầu mục tiêu đào tạo.
Đây là nhiệm vụ chủ yếu của trường MN và cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong
công tác chỉ đạo của HT. Vì thế mọi hoạt động trong trường MN đều phục vụ
cho việc thực hiện nhiệm vụ này. Trong giai đoạn hiện nay, chất lượng CS,
GD trẻ trở thành điều kiện quan trọng để duy trì và phát triển số lượng trẻ đến
trường; là yếu tố có tính thuyết phục cho công tác tuyên truyền, hướng dẫn kiến
thức nuôi dạy trẻ và huy động các nguồn lực từ cộng đồng xã hội để xây dựng,
phát triển nhà trường. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, hiệu trưởng trường MN
phải chỉ đạo mọi lực lượng trong trường làm tốt các chức năng, nhiệm vụ của
mình; chỉ đạo giáo viên thực hiện nghiêm túc chương trình CS, GD; đảm bảo
cho trẻ được học tập trong môi trường tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất
(trường, lớp, đồ dùng, đồ chơi ); được sống trong môi trường vệ sinh sạch sẽ,
an toàn, được sinh hoạt điều độ, có nề nếp; tạo môi trường thuận lợi cho trẻ
hoạt động tích cực dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên nhằm giúp trẻ
phát triển hài hoà về các mặt thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ

Thứ hai: Bảo đảm chỉ tiêu số lượng trẻ đến trường. Duy trì và phát triển
số lượng trẻ đến lớp là điều kiện sống còn của nhà trường MN. Đảm bảo chỉ
tiêu số lượng là cơ sở để nâng cao chất lượng CS,GD trẻ. Vì thế bằng nhiều
biện pháp tích cực, phù hợp, hàng năm HT trườngMN phải có kế hoạch thu
nhận trẻ vào trường trên cơ sở khả năng thực tế củanhà trường và nhu cầu gửi
trẻ của các bậc cha mẹ.
Thứ ba: Xây dựng tập thể sư phạm trong trường vững mạnh.Đội ngũ
giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng CS, GD trẻ của trường. Vì thế, xây
22

×