Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận: Công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.24 KB, 20 trang )

Tiểu luận Tài chính quốc tế 1

Lớp cao học TCNH 19A








Tiểu luận

CÔNG CỤ PHÁI SINH ĐỂ PHÒNG NGHỪA RỦI RO
TRONG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIÊT NAM
Tiểu luận Tài chính quốc tế 2

Lớp cao học TCNH 19A

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, các giao dịch thương mại không
chỉ đơn thuần trong nội bộ quốc gia mà giữa các quốc gia và với nhiều đồng tiền khác
nhau. Rủi ro tỷ giá, lãi suất, kinh tế, chính trị… khiến nhiều cá nhân cũng như doanh
nghiệp có nhu cầu bảo vệ giá trị tài sản của mình bằng cách chuyển một số rủi ro khó
kiểm soát đến nơi có thể chấp nhận mức rủi ro đó và quản lý được chúng. Trước tình
hình này, nhu cầu về giao dịch các sản phẩm phái sinh lại càng trở lên cấp thiết hơn.
Thông qua việc sử dụng các sản phẩm phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương
lai, quyền chọn, hoán đổi… các rủi ro khó kiểm soát trong đó có rủi ro tỷ giá đã được
chuyển giao cho các công ty dịch vụ tài chính hoặc nhà đầu tư chấp nhận rủi ro.
Ngày nay, thị trường phái sinh thế giới đã có bước tiến mạnh mẽ, vươn lên trở


thành phân khúc lớn nhất của thị trường tài chính. Tuy nhiên, con số này ở Việt Nam rất
ít được nhắc tới vì quá khiêm tốn, và chỉ dừng ở một phạm vi hẹp các ngành nghề xuất
khẩu như cà phê, gạo,…Đối với cà phê - ngành xuất khẩu mũi nhọn của nước ta, việc
nghiên cứu, ứng dụng công cụ phái sinh để giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp là một
việc làm hết sức cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài phân tích thực trạng sử dụng công cụ tài chính phái sinh trên thị trường
Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp cà phê xuất khẩu nói riêng, từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng của các công cụ này đối với công tác
phòng ngừa rủi ro về mặt tỷ giá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Công cụ tài chính phái sinh
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi thị trường trong nước, trong đó
tập trung vào ngành nghề xuất khẩu cà phê.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích diễn giải, so sánh kết
hợp với phương pháp thống kê, tổng hợp.
5. Kết cấu của tiểu luận

Chương 1: Lý luận chung về sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa
rủi ro về tỷ giá;
Chương 2: Thực trạng sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro
tỷ giá tại các doanh nghiệp cà phê Việt Nam;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ phái sinh trong phòng
ngừa rủi ro tỷ giá tại các doanh nghiệp cà phê.
Do thời gian hạn chế nên tiểu luận còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được góp
ý của thầy cô và các bạn học viên.
Xin chân thành cảm ơn!
Tiểu luận Tài chính quốc tế 3


Lớp cao học TCNH 19A

Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ
BẰNG CÔNG CỤ PHÁI SINH
1. Rủi ro tỷ giá
1.1. Tỷ giá hối đoái
- Khái niệm: Tỷ giá hối đoái là cách so sánh hai đồng tiền của hai nước khác
nhau. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính
bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam.
- Phân loại tỷ giá hối đoái:
Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối có thể chia thành tỷ giá mua vào và tỷ
giá bán ra. Căn cứ vào kỳ hạn thanh toán chia thành tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn.
Căn cứ giá trị của tỷ giá chia thành tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực. Căn cứ vào chính
sách điều hành tỷ giá chia thành tỷ giá chính thức, tỷ giá chợ đen, tỷ giá cố định, tỷ giá
thả nổi và tỷ giá thả nổi có điều tiết.
- Các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái
Một số yếu tố có ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái như cung cầu ngoại tệ trên thị
trường, tỷ lệ lạm phát, lãi suất, tâm lý, chính sách tỷ giá,…Khi nhu cầu về ngoại tệ của
người Việt Nam tăng lên khiến cho giá ngoại tệ tăng so với VND, tỷ giá tăng và ngược
lại khi nguồn cung ngoại tệ giá, giá ngoại tệ giảm so với VND, tỷ giá giảm. Nước nào
có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền của nước đó có sức mua thấp hơn, tỷ giá tăng và
ngược lại. Khi lãi suất VND tăng lên, VND lên giá và ngoại tệ xuống giá, tức lãi suất và
tỷ giá hối đoái có quan hệ ngược chiều.
1.2. Rủi ro tỷ giá
- Khái niệm: Rủi ro tỷ giá là sự không chắc chắn của một khoản thu nhập hay chi
phí bằng ngoại tệ trong tương lai do biến động của tỷ giá hối đoái.
- Ảnh hưởng của rủi ro tỷ giá đối với hoạt động xuất nhập khẩu:
Sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể mang lại hai mặt tích cực hoặc tiêu cực
cho doanh nghiệp. Nếu tỷ giá biến động ngược chiều với mong muốn thì nó có thể gây

ra những tổn thất rất lớn cho doanh nghiệp, tuy nhiên nếu tỷ giá diễn biến theo đúng dự
đoán và mong muốn thì doanh nghiệp có thể thu được lợi ích không nhỏ. Trong trường
hợp biến động của tý giá là tiêu cực sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng lực tài chính của
doanh nghiệp hoặc lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu là đối tượng rất nhạy cảm với sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Hiện nay, khi mà hoạt động ngoại thương diễn ra mạnh mẽ trong việc bảo hộ của
NHNN nới lỏng khiến biên độ của tỷ giá nới rộng sẽ càng làm tăng nguy cơ rủi ro của tỷ
giá hối đoái, chính vì vậy càng doanh nghiệp xuất nhập khẩu càng cần chú trọng vào các
hoạt động phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Sử dụng công cụ phái sinh là một trong những
phương thức khá phổ biến đang được nhiều doanh nghiệp tìm tới.
Tiểu luận Tài chính quốc tế 4

Lớp cao học TCNH 19A

2. Công cụ tài chính phái sinh
2.1. Khái niệm và sự hình thành
- Công cụ tài chính phái sinh (CCTCPS) là một loại hình bảo hiểm rủi ro tài
chính khi thực hiện các hợp đồng kinh tế mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm ẩn và
đương nhiên, lợi nhuận của các giao dịch cùng được chia sẻ cho các bên.
- Mặc dù được coi là một công cụ tài chính hiện đại, các sản phẩm phái sinh lại
có lịch sử phát triển khá lâu đời. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu
của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động
khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây
ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi
ro thua lỗ có thể xảy ra, các nghiệp vụ liên quan đến CCTCPS đã được hình thành.
CCTCPS là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có (trị
giá cổ phiếu, lãi suất, hàng hóa….) nhằm nhiều mục tiêu như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi
nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận.
Thị trường tài chính phái sinh là nơi diễn ra các hoạt động mua đi bán lại các
loại sản phẩm tài chính phái sinh, với các sản phẩm thông dụng của thị trường tài chính

phái sinh như: Quyền mua cổ phần, Chứng quyền, Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng hoán
đổi Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế, nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát
triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai
trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như vậy,
là do sử dụng nghiệp vụ này đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường.
2.2. Các công cụ tài chính phái sinh
CCTCPS bao gồm 04 loại: Hợp đồng kỳ hạn (Forward), Hợp đồng tương lai
(Future), Quyền chọn (Option) và Hoán đổi (Swaps). Hình thức và điểm khác biệt giữa
các CCTCPS cụ thể như sau:
- Hợp đồng kỳ hạn: Hợp đồng kỳ hạn là thoả thuận mua hoặc bán một tài sản
(hàng hoá hoặc tài sản tài chính) tại một thời điểm trong tương lai với một giá đã thoả
thuận ngày hôm nay. Hàng hoá ở đây có thể là nông sản, các đồng tiền, cho tới chứng
khoán. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên
tự thoả thuận với nhau. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao
nhận hàng hoá có thể tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp
đồng. Khi đó, một trong hai bên sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên
bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường. Như vậy bằng việc tham gia vào một
hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi
nhuận tiềm năng của mình. Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh
toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá
đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác.
- Hợp đồng tương lai (hợp đồng giao sau): Đây cũng là một hợp đồng giữa hai
bên, người mua và người bán, để mua bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá
Tiểu luận Tài chính quốc tế 5

Lớp cao học TCNH 19A

đã thoả thuận ngày hôm nay. Hợp đồng giao sau có những điểm giống với hợp đồng kỳ
hạn, đều được ấn định rõ loại hàng hóa, số lượng, chất lượng, giá tương lai, ngày giao
hàng và địa điểm giao hàng. Cả hai đều là một trò chơi có tổng bằng 0, khoản lời của

bên này chính là khoản lỗ của bên kia. Tuy vậy, khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng
giao sau được giao dịch trên thị trường có tổ chức, được gọi là sàn giao dịch giao sau,
thông qua một môi giới trên thị trường chứng khoán; người mua và người bán thường
không quen biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường quy định trước một số các điều
khoản cho những hợp đồng này về mặt số lượng hàng hóa, ngày giao hàng và nơi giao
hàng… Hợp đồng tương lai được tái thanh toán hằng ngày và được ấn định, ghi nhận
trên thị trường, nên các khoản lời lỗ được nhận biết hằng ngày.
Hiện nay, những thị trường chứng khoán mua bán hợp đồng trong tương lai là
Hội đồng mậu dịch Chicago, Sở Thương mại Chicago và Sở Giao dịch các hợp đồng
tương lai London. Các loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường chứng khoán mua
bán hợp đồng trong tương lai gồm, heo, bò, đường, len , sản phẩm tài chính gồm, chỉ
số chứng khoán, ngoại tệ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ.
- Quyền chọn: Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho
người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào
ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Có hai loại hợp đồng quyền
chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option) và hợp đồng quyền chọn bán (put
option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có
quyền mua sản phẩm từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn
của hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có
quyền bán sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn
của hợp đồng.
Khác với hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn chỉ quy
định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Người mua
quyền có thể: Thực hiện quyền, hay bán quyền cho một người mua khác; hay không
thực hiện quyền. Để có quyền này, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả
quyền phí, giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện, ngày định trong hợp đồng gọi
là ngày đáo hạn hay ngày thực hiện. Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là
thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là
thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu
là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hiện nay trên các thị trường chứng

khoán hầu hết thực hiện theo kiểu Mỹ.
- Hoán đổi:
Là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền trong một khoảng
thời gian xác định. Có 4 loại hoán đổi là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất, hoán đổi
chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Và cũng giống như hợp đồng kỳ hạn, các hoán đổi
cũng gánh chịu những rủi ro nếu một bên bị vỡ nợ. Hoán đổi được xem như là kết hợp
giữa các hợp đồng kỳ hạn, là cải tiến tài chính mới nhất nhưng về thực chất không phức
Tiểu luận Tài chính quốc tế 6

Lớp cao học TCNH 19A

tạp hơn một danh mục các hợp đồng kỳ hạn và rủi ro tín dụng hiện diện trong hoán đổi
cũng có phần thấp hơn so với rủi ro tín dụng của hợp đồng kỳ hạn có cùng kỳ hạn.
2.3. Vai trò của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh
- Quản trị rủi ro: Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn
làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó,
đó là những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại
rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù
hợp với bản thân mình. Cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị
trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng
huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản phẩm phái
sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi ngưòi muốn phòng ngừa
rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro
của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các
giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì
tất yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có khả
năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các
khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp nhau
và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác.
Thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ

khủng khiếp. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái
sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc
phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Cần khẳng định chắc chắn rằng,
thị trường phái sinh không hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ
là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị
trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận
nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm
bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này. Và lợi ích từ thị trường không chỉ
bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội.
- Thông tin hiệu quả hình thành giá
Các thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả.
Đặc biệt, thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao
ngay của tài sản. Điều này không hề bất bình thường, bởi có rất nhiều hàng hoá được
giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và
phân tán nên rất khó có thể xác định được giá giao ngay của chúng. Ở đây, thường giá
tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay. Thêm nữa,
thị trường giao sau, trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin do nó cung cấp
có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực
tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao ngay trong tương lai một cách có
hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận
của mình.
Tiểu luận Tài chính quốc tế 7

Lớp cao học TCNH 19A

- Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả
Thứ nhất: chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ
các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn.
Thứ hai: tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó
là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Thêm nữa, tỷ suất sinh

lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn.
Thứ ba: Các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà
đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh
lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận.
Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà
đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế,
đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao
tính lành mạnh cho thị trường đó.
3. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá
3.1. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn
Ví dụ: Tình hình giá cà phê trên thị trường Việt Nam thường bất ổn và dao động
tùy thuộc vào tình hình thời tiết và giá cả cà phê trên thị trường thế giới. Để tránh tình
trạng bất ổn, vào đầu vụ, công ty A chuyên xuất khẩu cà phê có thể thương lượng và ký
kết hợp đồng mua cà phê nhân xô kỳ hạn 6 tháng với nông dân B với số lượng 20 tấn cà
phê, nhân xô giá mua 47 triệu đồng/tấn. Lúc đó A là người mua và B là người bán trong
hợp đồng kỳ hạn. Sau 6 tháng B có trách nhiệm phải bán cho A 20 tấn cà phê nhân xô,
giá thỏa thuận trước là 47 triệu đồng/tấn và A bắt buộc phải mua 20 tấn cà phê nhân xô
của B với giá đó, dù giá cà phê nhân xô trên thị trường sau ba tháng là bao nhiêu đi nữa.
3.2. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng tương lai
Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bán trong tương lai, do người
mua, hoặc người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi
cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính,
văn phòng chứng khoán phải đưa ra những quy định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với
người ký hợp đồng tương lai với nhà môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một
tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán.
3.3. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng quyền chọn
Ví dụ: Ngày 01/06/2011, công ty A ký hợp đồng quyền chọn mua cà phê nhân
xô với công ty B 20 tấn cà phê nhân xô với giá thực hiện 47 triệu đồng/tấn, giá quyền 9
triệu đồng. Nếu vào ngày đáo hạn 01/08/2011, giá cà phê nhân xô là 50 triệu đồng/tấn,
thì người mua quyền thực hiện quyền và mua 20 tấn cà phê nhân xô với giá 47 triệu

đồng/tấn. Nếu không có quyền chọn mua sẽ phải mua trên thị trường với giá 50 triệu
đồng. Khoản lợi thu được 3triệu đồng/tấn. Ngược lại, giả sử vào ngày đáo hạn giá cà
phê nhân xô là 45 triệu đồng/tấn. Nếu thực hiện quyền, người nắm giữ quyền sẽ mua
với giá 47 triệu đồng/tấn, trong khi nếu mua trên thị trường thì chỉ phải trả giá 45 triệu
Tiểu luận Tài chính quốc tế 8

Lớp cao học TCNH 19A

đồng/tấn. Như vậy, người giữ quyền sẽ không thực hiện quyền và chấp nhận mất 9 triệu
đồng phí quyền chọn.
3.4. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn
Ví dụ: Theo kế hoạch, công ty A cần 200.000 $ để thanh toán cho một hợp đồng
khẩu trong ngày hôm nay, đồng thời
Công ty A
sẽ nhận được 200
.000 USD
từ một hợp
đồng xuất khẩu cà phê sau 4 tháng. Ngày 20/06/2011, Công ty quyết định tiến hành
giao dịch với Ngân hàng ngoại thương như sau: Ký một hợp đồng hoán đổi gồm 2 vế là
“vế mua giao ngay” và “vế bán kỳ hạn”
4
tháng

một lượng $ không đổi là 200.000 $.
Giả sử tỷ giá giao ngay VCB áp dụng trong giao dịch hoán đổi này là 20.650
VND/USD và điểm kỳ hạn gia tăng 3 tháng là 150 VND/USD. Ta có: Tỷ giá kỳ hạn =
Tỷ giá giao ngay + Điểm kỳ hạn gia tăng = 20.650 + 150 = 20.800 VND/USD.

Chương 2
SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH ĐỀ PHÒNG NGỪA RỦI RO

TỶ GIÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ VIỆT NAM
1. Thực trạng sử dụng công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam
Mặc dù thị trường phái sinh (TTPS) thế giới có lịch sử phát triển lâu đời và hiện
đã phát triển lên một trình độ cao nhưng tại Việt Nam, TTPS vẫn được coi là một thị
trường rất mới. TTPS tiền tệ và hàng hóa đã hình thành được một thời gian nhưng chưa
phát triển. TTPS chứng khoán chưa có quy định pháp lý hướng dẫn nên chưa được phép
triển khai. Một thực tế là các tài sản cơ sở là tiền tệ, hàng hóa, chứng khoán được quản
lý bởi các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau nên TTPS bị chia tách theo các tài sản
cơ sở này. TTPS được chia ra gồm 3 thị trường: Thị trường phái sinh tiền tệ, thị trường
phái sinh hàng hóa, thị trường phái sinh chứng khoán.
TTPS tiền tệ ra đời sớm nhất tại Việt Nam. Đây là thị trường có nhiều biến động
khó lường vì các giao dịch tiền tệ liên quan đến mọi hoạt động của nền kinh tế từ mua
bán hàng hóa, thanh toán, đầu tư kinh doanh… Các sản phẩm phái sinh tiền tệ được
giao dịch trên thị trường phi tập trung giữa các ngân hàng với nhau hoặc giữa các ngân
hàng với các tổ chức tài chính, doanh nghiệp, cá nhân… Các sản phẩm phái sinh chủ
yếu trên thị trường tiền tệ gồm có: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi và các hợp
đồng quyền chọn trên lãi suất và ngoại tệ, chưa có hợp đồng tương lai vì chưa có thị
trường tập trung.
Thị trường phái sinh hàng hóa: Khác với các công cụ phái sinh tiền tệ, các công cụ
phái sinh hàng hóa về cơ bản được giao dịch trên các sàn giao dịch tại một địa điểm tập
trung. Tuy nhiên, các sàn giao dịch trong nước hiện có chưa hội tụ đủ tiêu chuẩn là một
Sở Giao dịch hàng hóa tập trung đúng nghĩa, đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về hệ
thống giao dịch, hệ thống thanh toán, hệ thống giám định… Đa phần các sản phẩm phái
sinh hàng hóa được niêm yết và giao dịch như Hợp đồng thương lượng cà phê (Robusta
và Arabica), cao su (RSS3) và thép (HRC)… hiện được niêm yết trên HNX vẫn chỉ dừng
Tiểu luận Tài chính quốc tế 9

Lớp cao học TCNH 19A

ở mức độ thăm dò, sự tham gia của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và nhà đầu tư còn

hạn chế.
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thực sự đã có giai đoạn “nở rộ”
trong năm 2007 và đầu năm 2008 trước thời kỳ suy giảm sâu, kéo dài từ cuối năm 2008
đến nay. Trong giai đoạn “nở rộ” đó, trước nhu cầu đầu tư sinh lợi quá lớn từ phía các
nhà đầu tư cho rằng đầu tư các cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ hiện có là chưa đủ,
một số loại công cụ phái sinh trên chứng khoán đã ra đời, được giao dịch trên thị trường
phi tập trung, dưới các hình thức khác nhau nhằm che đậy sự giám sát của cơ quan quản
lý nhà nước. Các chứng khoán phái sinh được triển khai tại các công ty chứng khoán
(CTCK) chủ yếu là các quyền chọn dựa trên tài sản cơ sở là cổ phiếu. Các CTCK đóng
vai trò là người bán quyền chọn (thông thường là quyền chọn mua - call option) cho
khách hàng, trực tiếp giao dịch với khách hàng và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng. Đối tượng giao dịch không hạn chế nhưng chủ yếu tập trung vào nhà đầu tư cá
nhân có giá trị tài sản lớn. CTCK thực hiện thu phí quyền chọn dựa trên cơ sở xác định
khả năng xảy ra rủi ro cao nhất thông qua giao dịch trên TTCK cơ sở. Chứng khoán
được chọn làm tài sản cơ sở có thể là cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
hoặc cổ phiếu được giao dịch trên thị trường phi tập trung. Cũng trong giai đoạn này, thị
trường cổ phiếu phi tập trung cũng phát triển khá mạnh, trên thị trường xuất hiện nhiều
website đăng tin và tổ chức mua bán cổ phiếu phi tập trung, một số giao dịch phái sinh
cũng “ăn theo” các website này. Tuy nhiên, không có một con số thống kê cụ thể nào về
các giao dịch này.
Tại Việt Nam các sản phẩm phái sinh đã xuất hiện trên thị trường cách đây hơn
10 năm, nhưng mới chỉ mang tính thí điểm, nhỏ bé, đơn lẻ. Giao dịch kỳ hạn xuất hiện
với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt Nam theo quyết định số
65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo
quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số
893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống đốc NHNN.
Các giao dịch quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ
phái sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn
có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực

hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ
cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB,
Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank
chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, mức độ phát triển của các công cụ tài chính phái sinh ở nước ta vẫn
còn rất hạn chế. Hiện nay việc thực hiện các hợp đồng phái sinh của khách hàng Việt
Nam chủ yếu thực hiện qua môi giới nước ngoài và tham gia các thị trường ở nước
ngoài. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa biết hoặc chưa quen sử dụng các công cụ
phái sinh để phòng ngừa rủi ro. Mặt khác, các hợp đồng phái sinh khá phức tạp nên
Tiểu luận Tài chính quốc tế 10

Lớp cao học TCNH 19A

doanh nghiệp ngại sử dụng. Hàng lanh pháp lý cho thị trường phái sinh ở Việt Nam hầu
như chưa có.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những rủi ro rất
lớn, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu trong bối cảnh các thị trường tài chính luôn dao
động mạnh. Sẽ đến lúc nhu cầu tự thân của doanh nghiệp là phải dùng công cụ tài chính
phái sinh để phòng ngừa rủi ro và bảo hiểm hoạt động sản xuất - kinh doanh. Để làm
được điều đó đòi hỏi sự phối hợp của Chính phủ, các Ngân hàng và các doanh nghiệp
để đẩy mạnh hơn nữa việc sử dụng các công cụ này tại Việt Nam.
2. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại doanh nghiệp
cà phê Việt Nam
Các hợp đồng và nghiệp vụ phái sinh liên quan đến hoạt động kinh doanh cà phê
được giao dịch chủ yếu trên thị trường phái sinh hàng hóa (thị trường cà phê phái sinh).
2.1. Quá trình hình thành và hoạt động của thị trường cà phê phái sinh
Ở Việt Nam hiện nay có 02 sàn giao dịch hàng hóa là Trung tâm Giao dịch Cà
phê Buôn Ma Thuột (BCEC) và Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX). Tuy nhiên,
Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) đã xin tạm ngừng hoạt động gần 1 năm nay,
còn sàn Info vừa nhận được quyết định thành lập vào tháng 5/2013 và đang xin phép gia

hạn để chuẩn bị các hoạt động giao dịch.
Trung tâm Giao dịch Cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC)
Nằm trong chương trình xây dựng thí điểm chợ đầu mối của 3 vùng nguyên liệu
tập trung: Chợ lạc của Nghệ An, Chợ gạo của Cần Thơ và Chợ cà phê của Đắc Lắc và
thông qua đề xuất của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc, Trung tâm Giao dịch Cà phê
Buôn Ma Thuột (BCEC) đã được thành lập theo quyết định Quyết định 2278/QĐ-
UBND ngày 04/12/2006 của UBND tỉnh Đắc Lắc. Ngân hàng Techcombank đóng vai
trò là ngân hàng ủy thác thanh toán và nhà môi giới giao dịch cho BCEC, mô hình sàn
giao dịch được thành lập theo mô hình sàn giao dịch ở London và giao dịch mua bán
giao ngay và giao sau là hai giao dịch chính thức được thực hiện tại đây. BCEC ra đời
giúp cho việc thực hiện mua bán giữa người nông dân và doanh nghiệp giảm bớt khâu
trung gian, thực hiện giao dịch trực tiếp, công khai, minh bạch, các nhà tài chính cũng có
thêm môi trường lành mạnh để đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, do bước đầu gia nhập thị
trường phái sinh, BCEC cũng gặp phải nhiều khó khăn về phần mềm điều hành giao
dịch, quy chế giao dịch, cũng như cơ sở vật chất, nên thời gian đầu không thu hút được
nhiều người tham gia, làm cho thị trường mất đi tính thanh khoản, sàn giao dịch không
phát huy được hiệu quả như mong đợi.
Theo báo cáo của BCEC, kể từ ngày khai trương đến nay, trung tâm mới chỉ phát
triển được 90 thành viên. Trong đó có 63 thành viên đăng ký bán, 23 thành viên kinh
doanh và 4 thành viên môi giới. Trong 5 năm qua, trung tâm đã rất cố gắng phát triển
thành viên với 12 chương trình hội thảo giới thiệu hoạt động và hướng dẫn quy định về
giao dịch, 18 đợt tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, nhà đầu tư, 15
đợt đào tạo, tập huấn. Tuy nhiên, Trung tâm vẫn khó phát triển thành viên, đặc biệt là
Tiểu luận Tài chính quốc tế 11

Lớp cao học TCNH 19A

với người nông dân trồng cà phê. Bên cạnh đó thì khối lượng cà phê giao dịch qua trung
tâm cũng ngày càng giảm.
Trong 4 loại hợp đồng phái sinh thì hợp đồng cà phê tương lai là phổ biến nhất.

Hợp đồng cà phê tương lai là hợp đồng ràng buộc được tiêu chuẩn hóa để giao hoặc
nhận một khối lượng và loại cà phê riêng biệt tại một thời điểm xác định trong tương lai
với một mức giá đã được thống nhất. Người mua hợp đồng có nghĩa vụ nhận hàng cà
phê theo các điều khoản hợp đồng vào một ngày xác định, trong khi người bán có nghĩa
vụ giao cà phê.
Đa số hợp đồng cà phê tương lai không bao giờ dẫn đến việc giao hoặc nhận
hàng cà phê thực. Thay vào đó, người nắm giữ hợp đồng thanh khoản trạng thái của
mình bằng các thực hiện các giao dịch bù trừ trong thị trường. Người mua bán hợp đồng
họ đã mua và người bán mua lại hợp đồng, loại bỏ các nghĩa vụ giao hàng.
- Ký quỹ cho hợp đồng cà phê tương lai: Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, sở
giao dịch yêu cầu người tham gia thị trường thanh toán tiền ký quỹ ban đầu và phát sinh.
Tiền ký quỹ ban đầu là tiền nạp cọc để đảm bảo người tham gia thị trường sẽ thực hiện
các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng của mình.
- Đòn bẫy: Điểm hấp dẫn của giao dịch cà phê tương lai đối với nhà đầu tư là đòn
bẫy. Vì các giao dịch tương lai không yêu cầu thanh toán trước đầy đủ (chỉ cần tiền ký
quỹ mà thôi) nên người mua hợp đồng cà phê tương lai có thể thu được khoản lời lớn
nhờ cam kết đòn bẫy. Giả sử một nhà đầu tư có thể mua hợp đồng cà phê arabica tương
lai (mỗi hợp đồng là 37.500 lb) với số tiền ký quỹ là 3.000 USD. Nếu nhà đầu tư mua
một hợp đồng với mức giá 150 cents/lb (tốn 56.250 USD cho hợp đồng) và bán hợp
đồng khi giá cà phê arabica chạm mức 165 cents/lb, thì nhà đầu tư đó sẽ thu lời 5.625
USD (15 cents x 37.500 lb = 5.625 USD) - một kết quả bằng 187,5% so với mức ký
quỹ ban đầu khi trạng thái được thanh khoản.
Đó chính là đòn bẫy, nó có thể là công cụ đầu tư quyền năng. Tất nhiên đòn bẫy
có cả mặt trái của nó. Nếu giá cà phê dao động ngược hướng kỳ vọng thì nhà đầu tư có
thể mất toàn bộ số tiền ký quỹ và nhiều hơn thế nữa nếu không tuân thủ quy tắc và kỷ
luật giao dịch thông thường.
Hiện tại các hợp đồng phái sinh đối với cà phê được giao dịch tại 2 sàn lớn trên
thế giới là sàn ICE ở New York và sàn Liffe NYSE ở London.
2.2. Đánh giá
Hiện nay, cả nước chỉ có trên dưới 100 doanh nghiệp sử dụng các công cụ phái

sinh, một con số quá khiêm tốn. Một nguyên nhân chính là Việt Nam chưa phát triển
mạnh sàn giao dịch hàng hóa. Có chăng chỉ là một vài sàn như sàn cà phê BCEC tại
Buôn Ma Thuột, hay Sàn Hàng hóa Việt Nam VNX nhưng giao dịch cũng chưa sôi
động. Nghĩa là chưa có đất để hợp đồng tương lai cũng như các công cụ phái sinh khác
phát triển. Vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp cà phê nói
riêng chọn tham gia các sàn quốc tế là chính. Tuy nhiên, khi tham gia các sàn giao dịch
Tiểu luận Tài chính quốc tế 12

Lớp cao học TCNH 19A

quốc tế, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ người chuyên môn cao để phân tích,
dự báo xu hướng giá thế giới, từ đó có thể đưa ra quyết định chính xác.
Hầu hết các doanh nghiệp sử dụng công cụ phái sinh đều là doanh nghiệp tư
nhân. Vấn đề không hẳn nằm ở chỗ các doanh nghiệp nhà nước không muốn sử dụng
hợp đồng tương lai; nó còn liên quan đến nhận thức của cơ quan chức năng về tính hữu
hiệu của công cụ này. Đối với giao dịch hàng hóa thực, hợp đồng tương lai luôn giúp
doanh nghiệp, dù là quốc doanh hay tư nhân, tránh được rủi ro. Nhưng mọi việc sẽ trở
nên rất nặng nề, đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh nếu việc sử dụng các
công cụ phái sinh khiến cho họ thiệt hại về tài chính.
Ngày 27.3.2012, chẳng hạn, một công ty cà phê Việt Nam đã sử dụng hợp đồng
tương lai về xuất khẩu cà phê, giá chốt giao tháng 7 tới là 2.051 USD/tấn. Với mức giá
này, tạm tính các chi phí vốn, lưu kho bãi, hao hụt… doanh nghiệp này cũng đã có lãi.
Thế nhưng, nếu đến khi giao hàng, giá cà phê trên sàn London tăng mạnh lên 2.100
USD/tấn, doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại 49 USD/tấn. Khối lượng cà phê xuất khẩu càng
nhiều thì thiệt hại cho doanh nghiệp càng lớn. Đây chính là điểm doanh nghiệp nhà
nước phải giải trình với đơn vị chủ quản. Và thực tế điều này đã xảy ra. Rõ ràng, sự hiểu
biết, cởi mở hơn của cơ quan chức năng và việc tạo ra khuôn khổ pháp lý đóng vai trò
rất quan trọng trong việc phát triển các công cụ phái sinh. Ở ví dụ trên, nếu chỉ nhìn một
chiều thì sẽ thấy doanh nghiệp bị thiệt hại. Nhưng nếu doanh nghiệp tính toán đúng xu
hướng giá và nếu vào lúc giao hàng, giá giảm xuống mức 2.000 USD/tấn thì họ đã làm

lợi cho mình tới 51 USD/tấn. Và xuất khẩu với khối lượng càng nhiều, lãi sẽ càng lớn.
Trên thế giới, có nhiều doanh nghiệp sử dụng loại hợp đồng này và giá ghi trong
hợp đồng tương lai là giá tham chiếu cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa thực. Vì
thế, không thể nói rằng không tham gia hợp đồng tương lai thì không bị ảnh hưởng gì.
Doanh nghiệp, dù đứng ngoài cuộc chơi, vẫn sẽ bị tác động khi giá các hợp đồng tương
lai biến động. Do đó, cần chủ động tiếp cận công cụ này để nắm bắt thông tin thị trường.
Ở Singapore, 90% người dân có hiểu biết về thị trường chứng khoán, 50% người
dân biết về hợp đồng tương lai. Do vậy, doanh nghiệp rất ưa chuộng công cụ này. Theo
ông, ngân hàng luôn có vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp hiểu biết và sử
dụng hợp đồng tương lai qua việc cung cấp thông tin chuyên sâu về các ngành hàng, các
loại hàng hóa cũng như tư vấn cho doanh nghiệp.
2.3. Triển vọng của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa
rủi ro tỷ giá ở các doanh nghiệp cà phê Việt Nam
Trong năm 2011, thị trường cà phê tương lai Liffe ở London đã chính thức cho
phép doanh nghiệp và cá nhân tại Việt Nam được mở kho và gửi mẫu sang Trung tâm
Kiểm tra chất lượng tại London, giúp rút ngắn thời gian giao hàng, nhận tiền khi các
doanh nghiệp Việt Nam muốn bán sản phẩm cà phê ra thị trường thế giới.
Việt Nam là nước sản xuất đầu tiên được Liffe đưa ra quyết định này. Không chỉ
riêng Liffe, Sở Giao dịch hàng hóa Singapore (SICOM), sàn Tocom (Nhật) cũng đã có
những hoạt động tiếp thị nhằm thu hút doanh nghiệp và nhà đầu tư (NĐT) tham gia.
Tiểu luận Tài chính quốc tế 13

Lớp cao học TCNH 19A

Điều này cho thấy thị trường hàng hóa của Việt Nam, nhất là những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực được các sở giao dịch hàng hóa lớn trên thế giới chú ý. Đối tượng tham gia tiềm
năng không chỉ là các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mà còn có những người nông dân,
giúp họ tránh khỏi tình trạng "đơợc mùa mất giá, được giá mất mùa". Đây có thể là một
bước đi tiến bộ trong hoạt động sản xuất nông sản của người nông dân tại Việt Nam,
giúp họ giảm được nỗi lo về biến động về giá trong nền kinh tế hiện nay.

Được đánh giá là tiềm năng nhưng số lượng tham gia của nhà đầu tư tổ chức và
cá nhân còn khá hiếm. Một số nhà đầu tư tại TP.HCM cho biết do phương thức giao
dịch là hợp đồng tương lai nên cần phải nghiên cứu kỹ để tránh bị “hớ” khi mua bán.
Nhất là việc dự báo giá cả hàng hóa phải cần có thêm nhiều thông tin như được mùa,
mất mùa, nước nào gia tăng dự trữ. Vì vậy cũng giống như thị trường chứng khoán, các
cá nhân, doanh nghiệp trong nước đều có tâm lý “thực tập” ở sàn trong nước trước khi
ra sàn ngoại.
Xét về vĩ mô, sàn giao dịch sẽ quy định mức giá chung làm phong vũ biểu cho cả
thị trường, tạo sự cân bằng, công khai, minh bạch cho người nông dân cũng như nhà đầu
tư, họ đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận và khai thác thông tin trên thị trường.
Sàn giao dịch cà phê hình thành mở ra môi trường đầu tư mới theo tiêu chuẩn quốc tế,
tạo điều kiện hội nhập thị trường cà phê phái sinh thế giới. Việt Nam dẫn đầu thế giới về
xuất khẩu cà phê robusta. Sàn giao dịch sẽ là nơi quảng bá thương hiệu cà phê Việt Nam
với thế giới, giúp xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng cho mặt hàng xuất khẩu cà
phê tại Việt Nam.
Còn xét về tầm vi mô, sàn giao dịch ra đời do nhu cầu nội tại và thiết thực của
các thành phần trong chuỗi cung ứng hàng hóa nguyên liệu thô trong việc tìm kiếm giá
tối ưu, vì các doanh nghiệp kinh doanh nguyên liệu thô như cà phê luôn tìm kiếm cơ hội
mua bán trên những sàn giao dịch quốc tế lớn khác.
Cơ chế của sàn giao dịch giúp giảm thiểu biến động giá thông qua bàn tay vô
hình, mọi cá nhân đều hành động vì lợi ích riêng của mình vô tình điều chỉnh thị trường
một cách liên tục đến khi cân bằng. Khi lượng cà phê trên thị trường dư thừa, nhà sản
xuất sẽ giảm giá và sản xuất ít đi do nhu cầu suy giảm, ngược lại, khi cà phê trên thị
trường thâm hụt thì nhà sản xuất sẽ tăng giá và sản xuất thêm để đáp ứng lượng cầu
đang tăng. Sự tái cân bằng liên tục này sẽ giúp thị trường thoát khỏi chu kỳ tăng trưởng
quá mức dẫn đến sụp đổ.
Từ thông tin mà thị trường cà phê phái sinh cung cấp, cùng với quan hệ cung cầu
tương tác của hàng ngàn nhà đầu tư tham gia thị trường sẽ giúp xác định giá một cách
công bằng, công khai mà sàn giao dịch cà phê sẽ là nơi giúp thực hiện điều đó. Dựa trên
mức giá được xác định đó, người sản xuất và người tiêu dùng sẽ xác định được mức

hàng hóa cần phải sản xuất hoặc tiêu thụ. Việc điều hành tốt hoạt động của sàn giao dịch
cà phê sẽ góp phần nâng cao vai trò, cũng như chức năng của sàn, nhằm phát triển hệ
thống sở giao dịch nội địa.

Tiểu luận Tài chính quốc tế 14

Lớp cao học TCNH 19A

Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI
CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ
1. Quy định về giới hạn và giá mua
Nhà nước đứng ra đảm bảo mức giá sàn mà vẫn tạo cơ hội tìm kiếm lợi nhuận khi
giá tăng, vẫn đúng “luật chơi” thị trường chứ không dùng cách can thiệp thị trường theo
kiểu bình ổn giá hay tạm trữ - đó là mua quyền chọn bán.
Mua quyền chọn bán (put option) nghĩa là người mua có quyền bán hoặc không
bán một hợp đồng kỳ hạn vào một ngày trong tương lai với giá cố định vào hôm nay. Cụ
thể: giả sử 1.600 USD/tấn cà phê là mức giá sàn mà Nhà nước đảm bảo.
Vào ngày 24-6-2013, quyền chọn trên hợp đồng kỳ hạn tháng 9 đang giao dịch tại
NYSE Liffe với giá thực hiện 1.600 USD/tấn, có phí quyền chọn là 26 USD/tấn (tương
đương 546.936 đồng/tấn). Nếu Nhà nước đồng ý mua quyền chọn bán cho tất cả sản
lượng cà phê sản xuất tại Việt Nam, khoảng 1,5 triệu tấn, thì chỉ cần chi ra 39 triệu USD
là nông dân có thể an tâm rằng cà phê sẽ được bán không dưới mức 33.658 đồng/kg mà
không cần thực hiện tạm trữ gì cả.
Một lựa chọn khác, tùy theo khả năng và sở thích của mỗi người mà họ mong
muốn mức giá đảm bảo khác nhau. Khi đó, nông dân sẽ thanh toán thêm một khoản
chênh lệch để đạt được mức giá đảm bảo mong muốn.
Ví dụ, một người mong muốn được đảm bảo với mức giá 36.813 đồng/kg (tương
đương 1.750 USD/tấn), với mức giá này thì phí quyền chọn là 79 USD/tấn, do Nhà nước
hỗ trợ 26 USD/tấn theo mặt bằng chung nên chỉ cần thanh toán thêm 53 USD/tấn, hoặc

nếu muốn được đảm bảo với mức giá 37.865 đồng/kg (tương đương 1.800 USD/tấn) thì
chỉ cần thanh toán thêm 81 USD/tấn.
Theo Nhóm quốc tế quản trị rủi ro hàng hóa tại các nước đang phát triển ITF-
CRM, giải pháp thích hợp nhất cho nông dân là mua quyền chọn bán. Bởi đối với các tổ
chức cung cấp công cụ phái sinh, hạn chế lớn nhất khi kinh doanh với nông dân tại các
nước đang phát triển là rủi ro tín dụng khi không đáp ứng được các yêu cầu ký quỹ
nghiêm ngặt nếu giao dịch hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, quyền chọn bán với khoản thanh
toán phí quyền chọn trước đã loại bỏ rủi ro tín dụng này.
Với quyền chọn bán trong một thị trường đang giảm giá, nông dân có thể vẫn đảm bảo
được mức giá sàn bù đắp được chi phí sản xuất và có lãi. Nếu sau khi mua quyền chọn
bán mà giá tăng, đơn giản là để quyền chọn ấy hết hạn mà không thực hiện, và cà phê có
thể đem bán với mức giá cao hơn theo thị trường lúc đó. Nghĩa là mua quyền chọn bán có
thể giới hạn thua lỗ mà vẫn có cơ hội khi giá tăng trở lại.
Vấn đề là những hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ sẽ khó tham gia trực tiếp thị
trường kỳ hạn - ít nhất là không tham gia đến khi họ tích lũy được kiến thức, nguồn lực và
năng lực cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, Brazil đã sử dụng quyền chọn bán nhưng là
do Chính phủ Brazil đứng ra bán giúp nông dân và đây là một mô hình để Việt Nam học
Tiểu luận Tài chính quốc tế 15

Lớp cao học TCNH 19A

hỏi sau này. Trong thời điểm “dầu sôi lửa bỏng” hiện nay, cách tốt nhất là Nhà nước đứng
ra thay mặt nông dân tổng hợp nhu cầu phòng ngừa rủi ro, thực hiện các giao dịch trên sở
giao dịch sau đó thanh lý hợp đồng tại thời điểm thích hợp.
Cần lưu ý đôi khi phí quyền chọn sẽ trở nên đắt, bởi phí bảo hiểm thường cao nhất
khi chúng cần thiết nhất. Nhưng một mặt khi phát đi thông tin Việt Nam mua quyền chọn
bán cho toàn bộ sản lượng cà phê của mình, phí quyền chọn sẽ tăng cao, nhưng mặt khác
phát đi tín hiệu Việt Nam đang học hỏi và bắt đầu biết chơi luật chơi chung của thế giới.
Khi nông dân Việt Nam đã tự mua hoặc Chính phủ hỗ trợ mua quyền chọn bán cho sản
lượng cà phê thì điều này mang lại sự đảm bảo hơn cho cà phê lưu kho. Và có thể ngân

hàng sẽ cân nhắc lại quyết định cho vay dựa trên cà phê lưu kho đã được “bảo vệ” này so
với việc cho vay dựa trên cà phê không có sự phòng ngừa rủi ro nào trước đây. Có thể mở
rộng cách thức này một cách bài bản hơn như Guatemala đã thực hiện.
Năm 1994, Liên hiệp Nông dân trồng cà phê quốc gia (National Coffee Growers’
Federation - Anacafé) đã giới thiệu hệ thống nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng
ngân hàng thương mại và những hộ nông dân thường dựa vào chương trình này để vay
ngân hàng.
Theo đó, sử dụng các công cụ quản trị rủi ro là điều kiện tiên quyết để tham gia
chương trình tín dụng. Vì vậy rủi ro cho ngân hàng giảm đáng kể, cho phép họ cung cấp
tín dụng cho nông dân trồng cà phê với lãi suất thấp hơn (theo ước tính của Anacafé, tiết
kiệm được tiền lãi cho nông dân hơn 10% giá trị khoản vay - khoảng 2 triệu USD mỗi
năm) (Rutten và Youssef, 2007).
Như vậy, hai mặt của một vấn đề: quản trị rủi ro giá và cung cấp tín dụng có mối
quan hệ khắng khít.
2. Về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh
Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để
đặt ra những quy định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công
ty có những khó khăn về mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động rất tốt vẫn
phải đưa ra những khoản thế chấp hay các mức duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công
công ty sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có những biến động cao trong giá. Mức duy trì
có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký quỹ giảm xuống một mức nào đó,
thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào.
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất
cao, có thể lên tới 30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối
với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn,
mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các
giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các
ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro
để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới.
3. Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên thị trường quốc tế

Tiểu luận Tài chính quốc tế 16

Lớp cao học TCNH 19A

Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại
trong nước không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền
chọn hoặc kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua
trong nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp
dụng trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt
buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến
những yếu kém về vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận
giao dịch hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký
các hợp đồng tái bảo hiểm từ các giao dịch phái sinh trong nước.
4. Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các
hợp đồng phái sinh
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến
hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí
điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong
những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc
quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả
những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh
chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng
ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các
nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả
rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những thị trường bất
đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để
tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung
cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với đó là thiết lập khung quản lý
chung cho các định chế này.

5. Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả
thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh
phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau Chẳng hạn như một
ngân hàng Việt nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với
người mua tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những
thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một
ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho ngươi từ trong nước. Nói
cách khác, trong cuộc chơi này trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn
nhau, để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.
6. Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính
thanh khoản của sản phẩm phái sinh
Tiểu luận Tài chính quốc tế 17

Lớp cao học TCNH 19A

Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp
đồng kỳ hạn và tương lai phải giao dịch trên có sàn nước ngoài như London hay
NewYork. Còn lại là giao dịch qua quầy, nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng
như các loại rủi ro tín dụng. Các hợp đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch
trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ. Nói chung, hiện tại chúng vẫn còn
thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt động được trôi chảy. Tuy
nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng hoá cho
thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các công cụ tài chính phái sinh, từ các công cụ
thuần nhất tới các công cụ lai tạp. Và vấn đề không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hoá các
sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Cần chú ý tới chất lượng hàng hoá. Ở
đây, chính là tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro
của các công cụ tài chính phái sinh. Do vậy cần hoàn thiện các đặc trưng kỹ thuật
của các công cụ tài chính phái sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ phát triển của thị
trường.

Đối với quyền chọn, các ngân hàng thương mại nên xác lập trong nội dung
hợp đồng quyền chọn quyền được mua ngoại tệ khi DN không thực hiện quyền lựa
chọn, do đối với các DN nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền
chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo
có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu đến hạn.
Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên
có những tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất,
tỷ giá, giá cả và cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời gian
tới sẽ vẫn tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ cở . Từ đó,
sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm phái sinh hiệu quả nhất.
Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô,. Đó là những công việc mà nhà
nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để
thị tr ư ờng ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực
của tất cả các chủ thể kinh tế, các DN, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ
thể cung cấp và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức
của chính các chủ thể tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể quản lý.









Tiểu luận Tài chính quốc tế 18

Lớp cao học TCNH 19A

KẾT LUẬN


Các doanh nghiệp cà phê ngày càng khẳng định vị thế và tiềm năng to lớn, đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế. Chính nhờ mặt hàng nông sản đầy
tiềm năng này mà Việt Nam đang ngày càng khẳng định thương hiệu và vị trí trên
thương trường quốc tế. Để tham gia vào được môi trường cạnh tranh toàn cầu vốn khốc
liệt và luôn kèm với rất nhiều rủi ro, mỗi DN cần tự trang bị cho mình những kiến thức
tài chính và những kĩ năng quản trị tốt nhất thông qua học hỏi kinh nghiệm từ các DN
nước ngoài.
Bên cạnh những nỗ lực từ bản thân DN, nhà nước đã cùng tham gia để đảm bảo
quyền lợi bằng các biện pháp vĩ mô như hình thành chợ đầu mối và sàn giao dịch mặt
hàng cà phê.
Mặc dù chúng ta đã có một định hướng cụ thể để thiết lập một chương trình phòng
ngừa và quản trị rủi ro giá cả cụ thể nhưng vẫn còn nhiều yếu tố cần xem xét để từng
bước hoàn thiện hơn nữa thị trường các sản phẩm phái sinh với mục đích phòng ngừa
rủi ro biến động hàng hóa cà phê. Đây là một thách thức rất lớn khi các DN Việt Nam
phải đối mặt với cạnh tranh từ các quốc gia đã có bề dày kinh nghiệm về quản trị rủi ro
bằng các công cụ phái sinh.
Tiều luận đã đưa ra được các ưu thế khi sử dụng các công cụ tài chính phaí sinh
đặc biệt trong việc sử dụng sàn giao dịch cà phê. Tuy nhiên để giữ vững vì trí xuất khẩu
đứng nhất nhì như hiện nay thì chúng ta cần phát triển và mở rộng hơn nữa sản phẩm
này để bảo vệ các DN cà phê Việt Nam và thiết lập được một chương trình phòng ngừa
rủi ro hiệu quả.


















Tiểu luận Tài chính quốc tế 19

Lớp cao học TCNH 19A





DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Phòng phân tích và dự báo thị trường, Trung tâm Nghiên cứu khoa học và Đào
tạo chứng khoán, UBCKNN, Báo cáo khảo sát nhanh các loại hình chứng khoán phái
sinh và sản phẩm giao dịch mới TTCK Việt Nam;
- Kỷ yếu hội thảo khoa học tháng 10/2011: Thị trường phái sinh hàng hóa: Thực
trạng và định hướng, Trường đào tạo phát triển nguồn nhân lực, Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam;
- TS. Đào Lê Minh (2009), Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và
TTCK, Nxb Văn hóa - Thông tin.



























Tiểu luận Tài chính quốc tế 20

Lớp cao học TCNH 19A

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1


Chương I
.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA RỦI RO TỶ GIÁ BẰNG CÔNG
CỤ PHÁI SINH 2

1.Rủi ro tỷ giá …. …………………………………………………………… 2

1.1. Tỷ giá hối đoái 2

1.2. Rủi ro tỷ giá 2

2.Công cụ tài chính phái sinh 3

2.1. Khái niệm và sự hình thành 3

2.2. Các công cụ tài chính phái sinh 3

2.3.

Vai trò của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh 4

3. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá 6

3.1. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn 6

3.2. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng tương lai 6

3.3. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng quyền chọn 6

3.4. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn 7


Chương 2. SỬ DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH ĐỀ PHÒN G NGỪA
RỦI RO TỶ GIÁ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ VIỆT NAM 7

1. Thực trạng sử dụng công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam 7

2. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại doanh nghiệp cà phê
Việt Nam 9

2.1. Quá trình hình thành và hoạt động của thị trường cà phê phái sinh 9

2.2. Đánh giá 10

2.3. Triển vọng của việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi
ro tỷ giá ở các doanh nghiệp cà phê Việt Nam 11

Chương 3. GIẢI PHÁP NÂ NG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI
SINH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ VIỆT NAM 13

1.

Quy định về giới hạn và giá mua 13

2.

Về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh 14

3.

Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên thị trường quốc tế 14


4.

Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng
phái sinh 15

5.

Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính 15

6.

Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh
khoản của sản phẩm phái sinh 15

KẾT LU ẬN 17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18



×