Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

nghiên cứu hiện trạng và định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
  





NGUYỄN THỊ THANH DUNG








NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH
HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG
NGHIỆP TỈNH ĐỒNG NAI





LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH ĐỊA LÝ HỌC
MÃ SỐ : 60 31 95







NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ












THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2008

LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến giảng
viên hướng dẫn khoa học TS. Phạm Thò Xuân Thọ – Trưởng khoa Đòa lý trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt
quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, Phòng Khoa học Công
nghệ sau đại học, Khoa Đòa lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã
giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong việc học tập và nghiên cứu để hoàn
thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Cục Thống kê
Đồng Nai đã cung cấp cho tác giả nhiều nguồn tư liệu, tài liệu q giá và hữu ích để

nghiên cứu phục vụ cho luận văn.
Chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tác giả có thể hoàn thành tốt khoá học và luận văn tốt
nghiệp.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 5 năm 2008
Người thực hiện đề tài





NGUYỄN THỊ THANH DUNG




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CBNS Chế biến nông sản
CCKT Cơ cấu kinh tế
CDCC Chuyển dòch cơ cấu
CDCCKT Chuyển dòch cơ cấu kinh tế
CDCCNN Chuyển dòch cơ cấu nông nghiệp
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DN Doanh nghiệp
DTTN Diện tích tự nhiên
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTSX Giá trò sản xuất

HTX Hợp tác xã
KHCN Khoa học công nghệ
KHKT Khoa học kỹ thuật
KTTĐ Kinh tế trọng điểm
NLS Nông lâm sản
NN Nông nghiệp
SX Sản xuất
TPKT Thành ph
ần kinh tế
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh





PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp
sản xuất ra lương thực thực phẩm duy trì sự sống của toàn xã hội, cung cấp sản phẩm xuất khẩu,
thu ngoại tệ tạo điều kiện phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực. Đối với một nước nông
nghiệp như Việt Nam thì vai trò của ngành này càng có ý nghĩa to lớn. Những năm gần đây Đảng
và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp để phát huy tối đa thế mạnh
của mỗi vùng, mỗi địa phương nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế
chung của cả nước.
Đồng Nai là một tỉnh có tỉ trọng công nghiệp – dịch vụ cao trong cơ cấu kinh tế (năm 2002 –
công nghiệp chiếm 55,3%, dịch vụ chiếm 23,1%, nông nghiệp chiếm 21,6% ) nhưng Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân trong tỉnh luôn chú trọng phát triển nông nghiệp. Chính vì vậy, giá trị sản
xuất của ngành nông nghiệp luôn tăng, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp, đồng thời tăng giá trị xuất khẩu. Từ sau khi Trung Ương ban hành

nghị quyết 09/2000 về vấn đề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và giải quyết đầu ra cho sản phẩm,
Đồng Nai đã cùng với cả nước thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp… Mức tăng
trưởng bình quân giá trị sản xuất nông nghiệp ở Đồng Nai giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 5,3%
(so với mục tiêu nghị quyết đề ra 3,5- 4%), trong đó trồng trọt tăng 3,43% và chăn nuôi tăng
7,96%. Tỉ trọng của ngành chăn nuôi trong cơ cấu nông nghiệp từ 23,29% (năm 2001) đã tăng lên
26,62% vào năm 2005.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở Đồng Nai đã và đang diễn ra mạnh mẽ, đạt hiệu
quả cao. Đây cũng là nhiệm vụ lâu dài có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Tuy nhiên trong công cuộc đổi mới, quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp hiện vẫn
còn nhiều vấn đề cần đặt ra, đòi hỏi phải nghiên cứu, xem xét, đánh giá cụ thể để đưa ra những
biện pháp và định hướng ngày càng phù hợp và hiệu quả hơn trong tình hình hiện nay cũng như
sắp tới.
Do đó, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu hiện trạng và định hướng chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Nai” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu, nghiên cứu hiện trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của
tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn 1995 – 2005 và đánh giá kết quả quá trình chuyển dịch. Từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế một cách hợp lí, vừa
đạt hiệu quả cao về kinh tế vừa phát huy được các thế mạnh về tự nhiên và kinh tế - xã hội của
tỉnh, đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái.

3. Phạm vi nghiên cứu
- Tổng quan những cơ sở lí luận và thực tiễn về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
- Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh,
đánh giá vai trò của chúng.
- Nghiên cứu sự phát triển kinh tế, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn từ 1995 - 2005.
- Nhận xét, đánh giá kết quả của sự chuyển dịch, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh trong giai đoạn trên.

- Đưa ra những định hướng và giải pháp để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
của tỉnh trong thời gian tới sao cho hợp lí và hiệu quả.

4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là xu thế tất yếu của đất nước trong quá trình phát triển và hội
nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp nói riêng giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời gian qua, vấn đề này đã được rất nhiều cơ quan ban ngành quan tâm nghiên cứu như
Viện khoa học xã hội TP. HCM, Viện kinh tế thế giới, Học viện chính trị quốc gia …
Ngoài ra còn có rất nhiều các nhà khoa học cũng nghiên cứu ở nhiều góc độ các vấn đề của
quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam và các vùng lãnh thổ trong cả nước như PGS-
TS. Lê Đình Thắng, PGS-TS. Lâm Quang Huyên, TS. Ngô Đình Giàu, TS. Vũ Đại Lược… Đồng
thời còn có những bài báo, công trình khoa học của các nghiên cứu sinh, học viên, sinh viên…
nghiên cứu về vấn đề này.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ 21 - TS. Nguyễn Trần Quế
(chủ biên) ( 2004 )
- Định hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
– TS. Trần Du Lịch, PGS. TS. Đặng Văn Phan (chủ nhiệm đề tài), Viện Kinh Tế TP.HCM
(2004)

- Định hướng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội vùng Nam bộ thời kỳ 1991 – 2000 - Viện
kinh tế TP.HCM (1992)
Ở Đồng Nai cũng đã có một số nghiên cứu về ngành nông nghiệp, tuy nhiên các đề tài
chưa đi sâu tìm hiểu, phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành, chỉ dừng ở mức nghiên cứu
chung về nông nghiệp như một số bài viết trên báo Đồng Nai, tham luận của Sở Nông nghiệp và
phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai…
Trên đây là những tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả khi nghiên cứu sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Đồng Nai giai đoạn 1995 - 2005.

5. Giới hạn của đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Nai. Thời
gian nghiên cứu là giai đoạn 10 năm, từ năm 1995 đến năm 2005. Không gian nghiên cứu trên
phạm vi toàn tỉnh với 11 đơn vị hành chính (thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh, các huyện
Tân Phú, Định Quán, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ,
Trảng Bom) được nghiên cứu như là những bộ phận cấu thành của tổng thể về phương diện lãnh
thổ.

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
6.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Các lãnh thổ kinh tế - xã hội không tồn tại một cách cô lập mà luôn có mối liên hệ chặt chẽ
với những yếu tố bên trong và bên ngoài. Trong luận văn, việc nghiên cứu quá trình chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai đã được đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội của cả tỉnh và cả
nước.
Đồng Nai được coi là một thể tổng hợp tương đối hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tự nhiên,
kinh tế - xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động, chi phối lẫn nhau, ảnh hưởng đến sự phát triển
và chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Khi nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp cần phải xem xét các mối quan hệ nội bộ bên trong của ngành (giữa trồng trọt và chăn nuôi,
lao động và sản phẩm…), cũng như những mối quan hệ bên ngoài (giữa ngành nông nghiệp của
tỉnh với những địa phương khác, giữa ngành nông nghiệp với những ngành kinh tế khác) để phát
hiện ra nét riêng biệt, từ đó rút ra những định hướng phát triển có tính tổng hợp nhằm khai thác tốt
nhất tiềm năng của tỉnh.

6.1.2. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu nông nghiệp nói riêng không cố định, bất biến mà có sự
vận động, liên tục phát triển, thay đổi theo từng thời kì nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh
tế - xã hội. Việc nhìn nhận chiều hướng phát triển, sự thay đổi của cơ cấu nông nghiệp qua từng
giai đoạn - từ quá khứ đến hiện tại - cho phép vạch ra những viễn cảnh, dự báo cho sự phát triển
trong tương lai. Khi nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Nai phải dựa
vào hiện trạng cơ cấu nông nghiệp của tỉnh, xu thế chuyển dịch của cả nước và thế giới để đưa ra

dự báo và định hướng chuyển dịch cơ cấu hợp lí, chính xác, phù hợp với yêu cầu và tiềm năng của
tỉnh.

6.1.3. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Môi trường tự nhiên ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nông nghiệp, sinh thái cảnh quan
ảnh hưởng đến khả năng phát triển sản xuất và cơ cấu cây trồng vật nuôi. Ngược lại, kinh tế nông
nghiệp cũng tác động sâu sắc đến môi trường tự nhiên. Do vậy khi nghiên cứu quá trình chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp cần chú ý đến sự ổn định của môi trường sinh thái, không gây ảnh hưởng
tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo cho môi trường phát triển bền vững.


6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp thống kê
Để nghiên cứu, đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp cần thiết phải thu thập số liệu
thống kê phù hợp với yêu cầu của đề tài nhằm lựa chọn những số liệu cụ thể, thể hiện rõ sự chuyển
dịch và thay đổi trong cơ cấu nông nghiệp của địa phương.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu nông nghiệp nói riêng của tỉnh Đồng Nai có liên quan đến
nhiều chỉ số thống kê. Số liệu được thu thập từ nhiều Nguồn : báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, quy hoạch của Sở Tài nguyên môi trường, Niên giám thống kê… Từ đó, tác giả có
cơ sở để đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp, quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và
mối quan hệ đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

6.2.2. Phương pháp phân tích hệ thống
Trên cơ sở các số liệu thu thập được, người viết tiến hành sắp xếp, phân loại, so sánh, hệ
thống các thông tin về quá trình chuyển dịch. Từ đó phân tích nguyên nhân sự chuyển dịch, mối
quan hệ giữa sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với các nguồn lực tự nhiên và kinh tế xã hội, rút
ra kết luận, đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong các giai đoạn khác nhau.

6.2.3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Trong quá trình nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Nai, phương pháp

bản đồ - biểu đồ đã được sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa các nguồn lực, ảnh hưởng của các
nguồn lực đến sự chuyển dịch cơ cấu, tìm hiểu hiện trạng sự chuyển dịch và định hướng chuyển
dịch. Tác giả đã thành lập hệ thống các bản đồ như bản đồ hành chính, bản đồ hiện trạng sản xuất
nông nghiệp, bản đồ cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp tỉnh Đồng Nai …
Các bản đổ được thành lập trên cơ sở thu thập dữ liệu và chồng xếp các bản đồ chuyên đề.
Ngoài ra, các số liệu thống kê về hiện trạng sản xuất và sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
được thể hiện bằng các biểu đồ.
Trong việc nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phương pháp bản đồ - biểu đồ được
dùng để so sánh, đối chiếu các đối tượng. Việc so sánh, đối chiếu cơ cấu về diện tích các loại cây
trồng, vật nuôi theo địa phương và qua các năm sẽ giúp làm sáng tỏ sự chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp của tỉnh.

6.2.4. Phương pháp thực địa
Phương pháp thực địa được sử dụng trong việc quan sát, tìm hiểu thực tế đối tượng kinh tế xã
hội của địa phương. Điều này đòi hỏi người viết không chỉ nghiên cứu tài liệu, số liệu mà còn phải
thực hiện quá trình thực địa để có thể xác định được mức độ tin cậy và chính xác của tài liệu.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương là quá trình lâu dài và có nhiều vấn đề phức tạp. Tác giả đã
trực tiếp đến các huyện tìm hiểu, quay phim, chụp ảnh hiện trạng sản xuất nông nghiệp và sự
chuyển dịch cơ cấu tại địa phương.

6.2.5. Phương pháp dự báo
Phương pháp dự báo thường dựa trên việc nghiên cứu sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng trong quá khứ, hiện tại, phân tích các yếu tố, các thành phần, các nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển để đưa ra những dự báo chính xác, đúng đắn cho tương lai.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là quá trình vận động và phát triển lâu dài, muốn thành công
thì phải dự báo trước sự phát triển để có hướng điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp phù hợp, đúng đắn.
Trên cơ sở vận động, biến đổi của quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong giai đoạn 1995
– 2005, tác giả đã đưa ra dự báo tình hình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong tương lai và
những ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Đồng Nai.








PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. 1. Một số khái niệm

1. 1. 1. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của quốc gia là tổng thể những mối liên hệ giữa các bộ phận hợp thành nền
kinh tế : các ngành sản xuất, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế. Ở mỗi vùng, mỗi ngành lại
có cơ cấu kinh tế riêng tùy theo điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Cơ cấu kinh tế là vấn đề có nội dung rộng, biểu hiện mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất của nền kinh tế. Mối quan hệ đó không chỉ là những quan hệ riêng lẻ của từng
bộ phận cấu thành nền kinh tế (bao gồm các yếu tố kinh tế, các lĩnh vực tổ chức sản xuất phân phối
trao đổi tiêu dùng), các khu vực kinh tế (nông thôn, thành thị), thành phần kinh tế (nhà nước, cá
thể, tư nhân, vốn đầu tư nước ngoài…)
Hiểu một cách đầy đủ, cơ cấu kinh tế là tổng thể một hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau trong không gian và thời gian nhất định, phù hợp với
mục tiêu đã xác định của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế có các đặc trưng chủ yếu là mang tính khách quan, là một hệ thống ràng buộc,
và mang tính lịch sử. Đồng thời, cơ cấu kinh tế là một hệ thống động, gắn với sự biến đổi và phát
triển không ngừng của các yếu tố, các bộ phận cấu thành.
Muốn phát huy tác dụng, cơ cấu kinh tế phải trải qua một quá trình, một thời gian nhất định.
Thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào đặc điểm của từng loại cơ cấu kinh tế. Vì thế, các loại cơ cấu
thường không tồn tại một cách cố định bất biến mà có sự thay đổi, chuyển dịch cần thiết, phù hợp

với biến động và thay đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử.
Cơ cấu kinh tế có ảnh hưởng quyết định đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ
cấu kinh tế hợp lí sẽ tạo sức phát triển mạnh mẽ do phát huy tốt các thế mạnh về tài nguyên thiên
nhiên, nguồn lao động, cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng, thị trường

Các loại cơ cấu kinh tế gồm có :
- Xét theo phân công lao động trong quá trình sản xuất xã hội, cơ cấu các ngành kinh tế bao
gồm : nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ .
- Xét theo quan điểm sinh thái tự nhiên, phân bố cơ cấu theo vùng lãnh thổ, bao gồm : kinh tế
đồng bằng, kinh tế trung du miền núi …
- Xét về mặt quan hệ sở hữu có cơ cấu thành phần kinh tế, bao gồm : thành phần kinh tế nhà
nước và ngoài quốc doanh, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
- Xét theo cấp quản lý, có cơ cấu trung ương, địa phương …

Cơ cấu kinh tế theo ngành : là mối liên hệ giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc
dân, là bộ phận quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế. Để thống nhất tiêu chuẩn phân loại ngành
giữa các nước, Liên Hiệp Quốc đã ban hành tài liệu “Hướng dẫn phân loại ngành theo tiêu chuẩn
quốc tế đối với toàn bộ hoạt động kinh tế”. Trong đó phân loại ngành thành ba bộ phận :
- Nhóm ngành I : nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp)
- Nhóm ngành II : công nghiệp và xây dựng
- Nhóm ngành III : thương mại và dịch vụ
Cơ cấu ngành kinh tế biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành, hình thành và biến đổi trong quá
trình phân công lao động của xã hội, phản ánh trình độ phân công lao động và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.

Cơ cấu kinh tế theo vùng : phản ánh sự phân công lao động xã hội về mặt không gian địa lí.
Phân công lao động theo vùng là bố trí các ngành sản xuất trên những lãnh thổ thích hợp nhằm khai
thác tối đa mọi ưu thế của từng vùng. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng cần chú ý theo
hướng vừa phát triển toàn diện, vừa tập trung có trọng điểm, phát triển tổng hợp đi đôi với chuyên
môn hóa.

Cơ cấu thành phần kinh tế: gắn với các quan hệ sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Tùy theo
phương thức sản xuất mà có thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, còn lại là những thành phần
kinh tế hỗn hợp. Nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, lấy kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể làm nền tảng, trong đó kinh tế quốc doanh làm chủ đạo. Hiện nước ta
có ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đó đã hình
thành nên nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, thành
phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, có chức năng điều tiết vĩ mô. Giữa các thành phần kinh
tế có sự hợp tác để phát huy tốt nhất lợi thế của mình, tạo ra sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế.
Ba nội dung cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế có quan hệ và tác động qua lại với nhau. Trong
đó cơ cấu ngành có vai trò quyết định, khi sự phân công lao động theo ngành càng sâu sắc, chặt chẽ
sẽ dẫn đến sự phân công lao động theo lãnh thổ. Còn cơ cấu thành phần kinh tế là những lực lượng
kinh tế quan trọng để thực hiện cơ cấu ngành.
Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế cần được chuyển dịch đúng đắn trên từng lãnh thổ phù
hợp. Do đó việc phân bố không gian lãnh thổ hợp lí để phát triển ngành và thành phần kinh tế có ý
nghĩa rất quan trọng. Kết hợp cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ nhằm phát huy lợi thế so sánh
của vùng trong việc phát triển ngành. Đồng thời kết hợp cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế
nhằm huy động tối đa các nguồn lực để phát triển vùng lãnh thổ. Tóm lại, cơ cấu ngành, thành phần
kinh tế và cơ cấu vùng lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ, quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
sẽ đồng thời diễn ra ở cả ba nội dung trên.

1. 1. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thuật ngữ trong lĩnh vực kinh tế học dùng để chỉ sự thay đổi
dần dần, thay đổi từng bước cấu trúc của nền kinh tế trong phạm vi các ngành và các vùng lãnh thổ
để thích nghi với hoàn cảnh phát triển của đất nước. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện sự thay
đổi tỉ trọng giữa các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và cả giữa các phân ngành trong nội
bộ các ngành kinh tế như giữa trồng trọt và chăn nuôi trong nông nghiệp, giữa khai thác và chế
biến trong công nghiệp.
Sự chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ biểu hiện ở sự thay đổi các địa bàn tương ứng với sự
chuyển dịch cơ cấu ngành.


1. 1. 3. Nông nghiệp và cơ cấu nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất lâu đời nhất của nhân loại, có vai trò quan trọng đối
với sự phát triển xã hội loài người. Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông – lâm – ngư
nghiệp.
Cơ cấu nông nghiệp là tỉ lệ tương đối giữa các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, giữa sản xuất
nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp, giữa trồng trọt và chăn nuôi… Việc xác định và hình thành
cơ cấu nông nghiệp hợp lí là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng xét trên cả hai phương diện kinh
tế - xã hội và môi trường.
Cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Mặc
dù hai ngành này có sự liên quan với nhau rất chặt chẽ nhưng trên thực tế ít có nước nào có sự cân
đối đồng đều giữa trồng trọt và chăn nuôi. Ở các nước phát triển, tỉ trọng của ngành trồng trọt luôn
thấp hơn tỉ trọng ngành chăn nuôi rất nhiều. Ở các nước đang phát triển thì tình hình ngược lại. Sự
hình thành các thành phần trong cơ cấu cũng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
của từng vùng. Phát triển nền nông nghiệp sinh thái cũng là nhằm tạo ra cơ cấu cây trồng vật nuôi
hợp lí cho từng vùng.

1. 1. 4. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị đã triển khai chủ trương “chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa”. Nội dung chủ yếu của Nghị quyết này đã nhấn mạnh “việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải
tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hóa với cơ cấu đa dạng vừa để xuất
khẩu với mức cạnh tranh cao, vừa khai thác lợi thế tiềm tàng của từng vùng sinh thái, tăng nhanh
năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp”.
Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là sự tác động vào sản xuất nông nghiệp theo
hướng gia tăng giá trị sản xuất trên cùng một diện tích, đảm bảo ổn định sản xuất lương thực, tăng
tỉ trọng các loại cây thực phẩm, cây công nghiệp, phát triển mạnh chăn nuôi, thủy sản thành ngành
sản xuất chính, phát triển ngành nghề dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Điều này thấy rõ ở sự
thay đổi tỉ trọng giữa hai ngành trồng trọt và chăn nuôi, thay đổi tỉ trọng trong nội bộ từng ngành

và các vùng lãnh thổ. Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là thuật ngữ dùng để chỉ sự thay đổi dần
dần từng bước cấu trúc nền kinh tế nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp có hiệu quả cao “phải giải quyết các mối quan hệ cơ bản
như quan hệ giữa trồng trọt với chăn nuôi, giữa nông nghiệp theo nghĩa hẹp với lâm nghiệp và ngư
nghiệp, giữa nông lâm ngư nghiệp với công nghiệp dịch vụ, giữa đẩy mạnh sản xuất hàng hóa với
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo ra thế chủ động và hành lang an toàn lương thực,
nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, xây dựng xã hội nông thôn nước ta văn minh và hiện đại”
(Nghị quyết 10 Bộ Chính trị).
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp của nước ta trong những năm gần đây đang diễn ra
mạnh mẽ và theo chiều hướng giảm tỉ trọng ngành trồng trọt, tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi trong
cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Sự chuyển dịch trong nội bộ từng ngành trồng trọt, chăn nuôi có thể
thấy được ở sự thay đổi cơ cấu các loại cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của
từng vùng, từng địa phương. Từ đó cũng làm cho cơ cấu vùng lãnh thổ có sự thay đổi, hình thành
nên các vùng chuyên canh, chuyên môn hóa, phù hợp với nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa.

1. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
1. 2. 1. Nhân tố tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên như đất đai, nguồn nước, diện tích mặt nước, khí hậu, thời tiết, cây con
đặc trưng của vùng … là những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu nền
nông nghiệp.
Đất đai là nguồn tư liệu sản xuất chủ yếu, quan trọng và không thể thiếu của ngành nông
nghiệp. Đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và phân bố các loại cây trồng. Mỗi địa
phương có cơ cấu các loại đất khác nhau, thích hợp với những cây trồng, vật nuôi khác nhau. Dựa
vào các điều kiện tự nhiên có thể chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi hợp lí, đạt hiệu quả cao.
Khí hậu, thời tiết ảnh hưởng đến thời vụ sản xuất và phân bố các loại cây trồng, vật nuôi. Mỗi
kiểu khí hậu thích hợp với đặc điểm của từng loại cây con khác nhau. Ở nước ta đa phần là các
nông phẩm nhiệt đới. Khí hậu là nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu nông nghiệp, nếu tác động lên các
cây trồng, vật nuôi một cách phù hợp sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Điều kiện tự nhiên còn là nhân tố quan trọng hình thành nên các vùng chuyên canh cây công
nghiệp, cây lương thực, cây ăn quả hay vùng chuyên môn hóa chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản…

Như vậy, nhân tố tự nhiên có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp nói
chung và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nói riêng. Ngược lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp góp phần phát huy hết tiềm năng tự nhiên của địa phương và đảm bảo sự phát triển bền
vững cho môi trường sinh thái.

1. 2. 2. Nhân tố kinh tế - xã hội
 Dân cư và lao động
Ở nước ta, dân số hoạt động trong nông nghiệp chiếm đến 53% (năm 2005). Dân cư và lao
động là nhân tố rất quan trọng trong quá trình chuyển dịch nền nông nghiệp. Lực lượng lao động
nếu được bồi dưỡng, đào tạo và phát triển kịp thời thì quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.

Nhân tố này ảnh hưởng đến sự chuyển dịch ở hai khía cạnh : sức sản xuất và nguồn tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp. Các cây trồng vật nuôi vốn có nguồn gốc từ tự nhiên, phụ thuộc nhiều vào
điều kiện tự nhiên, đòi hỏi nhiều công chăm sóc. Do đó cần nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ
khoa học kĩ thuật cao để phát triển nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm. Đồng thời sản phẩm nông nghiệp làm ra cũng đòi hỏi nguồn tiêu thụ
nhanh chóng, rộng rãi. Nhu cầu của thị trường quyết định đến cơ cấu các loại cây trồng vật nuôi.
Do đó dân cư và lao động là yếu tố rất quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp.

 Đường lối chính sách phát triển nông nghiệp
Kể từ sau nghị quyết 09/2000 của Trung Ương về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và vấn đề đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, nước ta đã và đang hướng đến một cơ cấu
nông nghiệp hợp lí, ngày càng hoàn thiện hơn, trong đó ưu tiên đầu tư vào ba chương trình kinh tế
lớn : lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Điều đó được thể hiện bằng những
chính sách cụ thể nhằm tăng diện tích cây công nghiệp lâu năm, cây công nghiệp ngắn ngày, tăng
dần tỉ trọng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi trong cơ cấu chung, giao quyền tự chủ cho người
dân như chính sách giao đất, giao rừng cho nhân dân. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tất cả các địa phương, trong đó có tỉnh Đồng Nai.


 Tiến bộ khoa học kĩ thuật
Việc cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa và áp dụng các giống mới có năng suất cao trong
nông nghiệp được tiến hành rộng rãi. Nghiên cứu về sản phẩm nông nghiệp theo không gian và
thời gian sẽ tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Tiến bộ khoa học kĩ thuật còn có
tác dụng hạn chế ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên, nâng cao tính chủ động của sản xuất nông
nghiệp, làm tăng năng suất, chất lượng và sản lượng nông sản, giúp nền nông nghiệp được đầu tư
phát triển theo chiều sâu. Tiến bộ khoa học kĩ thuật trong chế biến sản phẩm nông nghiệp làm tăng
giá trị sản xuất nông nghiệp, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, hình thành các
vùng chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, tiến bộ khoa học kĩ thuật sẽ giúp cho quá trình chuyển đổi
cơ cấu nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

 Thị trường tiêu thụ
Thị trường trong nước và quốc tế đang ngày càng mở rộng, nhu cầu về những sản phẩm nông
nghiệp chất lượng cao ngày càng lớn, tạo điều kiện phát triển, mở rộng và chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp.
Đời sống ngày càng được nâng cao cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vì thế nhu cầu của
con người cũng có nhiều thay đổi theo hướng giảm về số lượng nhưng phải tăng về chất lượng,
đồng thời phải chú trọng đến tính an toàn, thẩm mỹ của các sản phẩm. Ngày nay, hầu như nhu cầu
về lương thực không còn là vấn đề bức bách mà nhu cầu về các loại thực phẩm mới thật sự cần
thiết. Chính nhu cầu của thị trường đã điều tiết và có tác dụng thúc đẩy rất mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp ở nước ta nói chung và Đồng Nai nói riêng.

1. 3. Ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Trong cả nước, cơ cấu ngành nông nghiệp đang có sự chuyển dịch đúng hướng mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
Năm 1995, trong cơ cấu nông nghiệp của nước ta trồng trọt chiếm tỉ lệ 73%, chăn nuôi 18%,
dịch vụ nông nghiệp 9%. Đến năm 2005, các giá trị tương ứng là 69%; 25% và 5%.
Những năm gần đây, ngành nông nghiệp nước ta phát triển mạnh, cơ cấu cây trồng vật nuôi
đã có sự chuyển dịch nhanh chóng. Các loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả đã được đầu tư nhiều

hơn. Chúng ta đã tiến hành đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, xóa thế độc canh, nhất là độc canh cây
lúa. Điều này mang đến hiệu quả cao đồng thời thúc đẩy quá trình hình thành vùng chuyên môn
hóa sản xuất tập trung, tạo điều kiện thuận lợi để đưa nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất
nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp được coi là một mục tiêu quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Quá trình công nghiệp hóa nước ta xuất phát từ
một đất nước còn khoảng 73 % dân số sống ở nông thôn và 53 % lao động xã hội (năm 2005) tham
gia vào hoạt động nông nghiệp. Phần lớn lao động trình độ thấp, sản xuất nông nghiệp thô sơ, lạc
hậu. Để đẩy nhanh tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi
bộ phận dân cư và lao động này phải đổi mới mạnh mẽ. Để làm được điều đó, bắt buộc chúng ta
phải đổi mới, phải chuyển dịch nền nông nghiệp - nông thôn theo hướng hiện đại, tiên tiến hơn.
Thêm vào đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn còn có ý nghĩa quan trọng
trong việc thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Nếu tiến hành thành công, hợp lí, chúng ta sẽ
giảm được những cách biệt về đời sống kinh tế văn hóa - dân trí giữa thành thị và nông thôn, đồng
bằng và miền núi, từ đó tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp còn nhằm phát huy và khai thác
tốt nhất mọi nguồn lực tự nhiên và xã hội, giúp khai thác tối đa các nguồn lực để đạt hiệu quả cao
nhất, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu của nhân dân và làm nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp cũng như xuất khẩu.
Ngoài ra, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sẽ đảm bảo cho nền nông nghiệp phát triển cân đối
hài hòa, phù hợp với các điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng nói riêng,
cả nước nói chung.

1. 4. Vài nét về quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở Việt Nam thời gian qua
Công cuộc đổi mới kinh tế trong 20 năm qua (1986-2006) đã mang lại cho đất nước những
biến đổi sâu sắc, trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, đổi mới trong nông nghiệp được xem là khởi đầu
của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta.
Từ một nền nông nghiệp quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, qua
quá trình đổi mới, hiện nay nền nông nghiệp đang phát triển theo cơ chế thị trường tương đối toàn

diện. Chính sách giao đất giao rừng giúp nông dân tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị
trường.
Trong quá trình đổi mới, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
diễn ra rõ rệt nhưng không đều.
Sản xuất lúa phát triển là nền tảng đảm bảo an ninh lương thực và thu nhập cho đông đảo
nông dân. Từ một đất nước không đủ lương thực nay Việt Nam đã đảm bảo lương thực cho hơn 80
triệu dân và xếp thứ hai thế giới về xuất khẩu lúa gạo. Đổi mới cơ chế quản lý trong ngành trồng
lúa đã khởi động quá trình đổi mới kinh tế cả nước.
Trong nông nghiệp, sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng thể hiện rất rõ ở sự thay đổi về tỉ lệ diện
tích cây lương thực, hoa màu và cây công nghiệp hàng năm, cây ăn quả và cây công nghiệp lâu
năm, cơ cấu trong chăn nuôi, cơ cấu trong ngành lâm nghiệp, cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu thành
phần kinh tế và sự đổi mới của nông thôn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có nhiều tiến bộ nhưng diễn ra khá chậm và
khác biệt giữa các vùng. Về cơ bản nông thôn Việt Nam vẫn mang tính thuần nông. Nông nghiệp
vẫn là nguồn việc làm và thu nhập chính của cư dân nông thôn.
Qua 20 mươi năm đổi mới, thắng lợi rõ rệt nhất của nông nghiệp Việt Nam là tạo ra và duy trì
được một quá trình tăng trưởng sản xuất với tốc độ nhanh, trong thời gian dài, góp phần quan trọng
bảo đảm ổn định xã hội và chính trị của đất nước.
Sản xuất nông nghiệp đã đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng
của dân cư, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, tăng nhanh xuất khẩu. Tuy vậy, quá
trình đổi mới nông nghiệp, nông thôn vẫn còn một số yếu kém, tồn tại như chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp còn chậm, sản xuất phân tán, tăng trưởng theo chiều rộng, chất lượng hiệu quả chưa
cao, khả năng cạnh tranh của nhiều loại nông sản còn thấp, tăng trưởng chưa bền vững, thu nhập
thấp, khả năng tích luỹ chưa cao, lao động nông thôn dư thừa.
Tóm lại, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong thời gian qua đã chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố tác động :
1. Quy luật cung cầu của thị trường tác động đến sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Nhu cầu
của thị trường đã quyết định sự phát triển và sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
2. Đường lối chính sách phát triển kinh tế, đặc biệt là chính sách khoán sản phẩm, giao đất,
giao rừng, giúp nông dân tự chủ trong sản xuất, tạo động lực cho nông nghiệp phát triển.

3. Xu hướng hội nhập, hợp tác quốc tế tạo ra cơ hội cho nông nghiệp Việt Nam tiếp cận với
nền nông nghiệp thế giới.
4. Tiến bộ khoa học kĩ thuật mở ra khả năng áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản
xuất nông nghiệp, tạo ra giống mới có năng suất, chất lượng cao, nâng cao khả năng chế biến, bảo
quản các loại nông sản.
5. Cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện hỗ trợ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp.
6. Sự lớn mạnh và phát triển vững chắc của các thành phần kinh tế giúp tận dụng tối đa mọi
ưu thế để khai thác và phát triển nền nông nghiệp toàn diện,
Để tiếp tục chuyến dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam, đưa công cuộc đổi mới nông nghiệp,
nông thôn tiến những bước vững chắc, cần quan tâm giải quyết một số vấn đề đặt ra.

Qua 20 năm đổi mới, từ một nền nông nghiệp sản xuất lạc hậu, trì trệ, năng suất thấp, hàng
năm phải nhập khoảng một triệu tấn lương thực, đã phát triển mạnh không chỉ đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước mà còn trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về lương
thực, tôm cá, các sản phẩm cây công nghiệp

Cụ thể chúng ta đã đạt được những thành tựu sau :
 Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy
mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường lớn, giá trị kinh tế cao. Tiếp tục
bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, tăng sản lượng lương thực. Tuy diện tích trồng lúa giảm
(khoảng hơn 300 nghìn ha) để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao
hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm
2005), trong đó, sản lượng lúa tăng từ 32,5 lên 35,8 triệu tấn, bình quân mỗi năm lương thực tăng
hơn một triệu tấn. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5 - 4 triệu tấn gạo.
 Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh theo nhu cầu thị trường để xuất
khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công
nghiệp chế biến, bảo quản. Năm 2005, diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm
2000, diện tích cao su tăng 9,5%, sản lượng tăng 37,6%; diện tích hồ tiêu tăng 83,2%, sản lượng
tăng 87,8%; diện tích hạt điều tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; diện tích chè tăng 35,3%, sản
lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng 1,4 lần; diện tích bông vải tăng 42,5%, sản lượng tăng

57,4%; diện tích đậu tương tăng 47,1%, sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế
xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.

 Chăn nuôi tăng bình quân 10%/năm; tỉ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ
19,3% lên 21,6%. Ðàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng gấp
3 lần. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 2,0 lần, sản lượng khai thác tăng 1,2 lần so với năm 2000.
 GTSX công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản
xuất tiểu, thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Hiện cả nước có
2.971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ gia đình,
thu hút hơn 10 triệu lao động.
 Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng liên tục và đạt mức cao. Tổng kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2005 đạt khoảng 7 tỉ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000,
trong đó nông, lâm sản tăng gần 1,5 lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
đạt sản lượng và giá trị lớn như: gạo, cà phê, cao su, hạt điều. Ðặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và
lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỉ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2000.
 CCKT nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ
trọng nông nghiệp. Năm 2005 trong tổng GDP của cả nước, tỉ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản so
với năm 2000 đã giảm từ 24,53% xuống 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống
53%, lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%. Năm
2005, hộ thuần nông đã giảm còn 68,8%, hộ kiêm nghề tăng lên, chiếm 12,7% và phi nông nghiệp
18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng
và dịch vụ nông thôn đã dần tăng lên, chiếm 22,5% tổng thu.

 Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng
cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao
năng suất chất lượng nông sản, thủy sản. Ðến nay, có hơn 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô,
60% diện tích mía, 100% diện tích điều được sử dụng giống mới. Công nghệ sử dụng mô được
đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng, nên năng suất chất lượng rừng được cải thiện. Ngành thủy
sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhiều khâu trong
sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển

làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, các cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị các máy
móc, thiết bị bảo đảm cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
 Quan hệ sản xuất được xây dựng ngày càng phù hợp. Cả nước hiện có hơn 72.000 trang trại,
số lượng tăng bình quân 10%/năm, kinh tế trang trại đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn. 524 hợp tác xã nông nghiệp mới được thành lập, chủ yếu hoạt động theo hướng
dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10.000 hợp tác xã ở nông thôn (9.255 HTX nông nghiệp,
hơn 500 HTX thủy sản, 800 quỹ tín dụng nhân dân ) và hàng trăm nghìn tổ kinh tế hợp tác, so với
năm 2000, số hợp tác xã hoạt động có lãi tăng từ 32% lên 35%, số HTX yếu kém giảm từ 22%
xuống còn khoảng 10%.
 Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2005 có 15.600 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt
động trên địa bàn nông thôn, bình quân một doanh nghiệp thu hút khoảng 20 lao động. Đây là nhân
tố quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn hiện nay.
 Cơ sở hạ tầng ở nông thôn có bước phát triển khá nhanh. Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn
thành và đưa vào sử dụng, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh, tăng năng suất cây
trồng, bảo đảm tưới cho 90% diện tích lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả;
hệ thống đê điều được củng cố. Cuối năm 2005 đã có 98% số xã có đường ô tô tới khu trung tâm,
hơn 90% số xã có điện, gần 88% số hộ dân nông thôn được sử dụng điện. Số thuê bao điện thoại ở
khu vực nông thôn tăng nhanh, đạt 4 máy/100 người dân (cả nước là 12,56 máy/100 người dân);
58% số dân nông thôn được sử dụng nước sạch; xây mới 501 chợ, góp phần giảm bớt khó khăn về
tiêu thụ nông sản cho nông dân.
 Công tác xóa đói, giảm nghèo cũng được đẩy mạn, bình quân mỗi năm giảm 3% tỉ lệ hộ đói
nghèo. Tỉ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn giảm từ 19% năm 2000 xuống còn 10% năm 2005. Ðiều
kiện về nhà ở, đi lại, học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã đã trở thành làng văn
hóa, có kinh tế phát triển, bảo đảm môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang đậm đà bản
sắc dân tộc được phục hồi và phát triển, trình độ dân trí được nâng lên.

1.5. Kinh nghiệm chuyển đổi cơ cấu và đa dạng hóa cây trồng ở một số nước châu Á
Việc canh tác lúa nước là nền tảng của việc canh tác ở các nước châu Á. Trong quá trình công
nghiệp hoá, hầu hết giá của các nhân tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (đất, lao động, vốn…)
đều tăng, khiến lợi thế so sánh của ngành bị sút giảm.

Mặc dù lúa vẫn là cây lương thực chính ở các nước châu Á nhưng sản xuất lúa gạo thường
đem lại lợi nhuận thấp. Do đó, nhiều nước đã chuyển sang nuôi, trồng các cây con khác có lợi nhuận
cao hơn. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, đa dạng hoá cây trồng, chuyển sang các cây trồng, vật
nuôi giá trị cao như cây ăn quả, rau, hoa, thủy hải sản đã và đang trở thành một xu hướng phổ
biến. Việc xem xét quá trình chuyển đổi cơ cấu và đa dạng hoá nông nghiệp ở các nước châu Á sẽ
rút ra được những kinh nghiệm quý giá cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở Việt Nam
nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng.

1.5.1. Đa dạng hoá cây trồng ở Malayxia
 Xu hướng đa dạng hóa cây trồng
Trước đây phần lớn đất nông nghiệp ở Malayxia được dành để trồng cao su, cọ dầu, lúa.
Nhưng diện tích cao su, ca cao, dừa, hạt tiêu, thuốc lá đã giảm từ đầu những năm 1980. Thay vào
đó, diện tích cọ dầu, rau, các loại cây ăn quả như sầu riêng, dứa, chuối, đu đủ tăng nhanh. Trong
hơn ba thập kỷ qua, Malayxia đã đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá trong nông nghiệp theo hướng
trồng các cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Đến giữa thập kỷ 90 cây công nghiệp chiếm tới 71%
GDP nông nghiệp.

 Chính sách đa dạng hoá cây trồng
 Đẩy mạnh đa dạng hoá cây trồng, tiếp tục mở rộng sản xuất lúa gạo
 Đầu tư phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu các cây trồng có thế mạnh như cao su, cọ dầu
và ca cao, rau, cây ăn quả.
 Đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đổi mới thể chế, mở rộng vùng đất mới để phát triển cây thương phẩm
nhằm mục tiêu xuất khẩu thu ngoại tệ.
 Củng cố các đồn điền hoạt động không có lãi, chú trọng nâng cao năng suất, tăng khả năng cạnh
tranh, hướng tới tăng trưởng nông nghiệp bền vững.
 Đưa ra các chiến lược trung và dài hạn về sản xuất lương thực, khuyến khích khu vực kinh tế tư
nhân, cải cách phương thức tiếp thị, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông sản.

1.5.2. Đa dạng hoá cây trồng ở Philipin
Nền kinh tế Philipin phụ thuộc vào rất lớn vào nông nghiệp. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu

của Philipin là dừa, đường, dứa, chuối, cà phê và xoài. Mặc dù lúa, ngô chiếm tỉ trọng lớn trong
tổng diện tích đất nông nghiệp nhưng Philipin vẫn phải nhập khẩu nông sản.
Những năm qua chính phủ Philippin đã triển khai hàng loạt chính sách nhằm phát triển sản
xuất nông nghiệp, trong đó đa dạng hoá cây trồng chiếm một vị trí quan trọng. Tại Philipin, quá
trình đa dạng hoá diễn ra chủ yếu trên đất trồng lúa và trồng dừa.

 Các mô hình đa dạng hoá cây trồng
* Đa dạng hoá trên đất trồng lúa
Đối với Philippin, ngô, thuốc lá, các loại cây họ đậu là những cây trồng chính luân canh với
lúa. Trong giai đoạn 1991-1995, ở các vùng đất thấp áp dụng các hệ thống canh tác chính là: lúa-
ngô, lúa-tỏi, lúa-ớt ngọt, lúa-rau đậu.
Trong những năm gần đây hệ thống đa dạng hoá trên đất trồng lúa của Philipin lại thay đổi.
Theo điều tra của Viện Nghiên cứu Lúa gạo Philipin, trong 2 năm gần đây, có sáu hệ thống canh tác
chính trên đất trồng lúa là: lúa-lúa, lúa-rau, lúa-cá, lúa-ngô, lúa-cây họ đậu và loại khác.
* Đa dạng hoá trên đất trồng dừa
Dừa có thể trồng xen một hay một số loại cây. Các loại cây trồng lâu năm như cà phê, ca cao,
cây ăn quả, cây hàng năm như ngô, lạc, khoai lang, dứa, chuối, dong, gai và các loại rau… có thể
trồng dưới tán cây dừa để tối đa hoá khả năng tận dụng ánh nắng mặt trời, độ mầu mỡ của đất. Đây
chính là hệ thống canh tác đa tầng rất phổ biến trong chiến lược đa dạng hoá của Philipin. Hệ thống
canh tác này gồm ba cấp: trên cùng là dừa, ở tầng giữa là các cây lâu năm và tầng cuối là các cây
hàng năm có tốc độ phát triển chậm. Bên cạnh hệ thống canh tác đa tầng này, một số tỉnh của
Philipin còn phát triển chăn nuôi gà, lợn dưới tán cây dừa. Ngoài ra, Philipin còn thực hiện một số
chương trình đa dạng hoá trên đất trồng ca cao, cà phê và cao su.

 Chính sách và chiến lược chuyển đổi cơ cấu, đa dạng hoá cây trồng
* Chính sách giá:
Chính phủ giảm trợ giá lúa. Do đó, một bộ phận hộ dân trồng lúa chuyển
sang sản xuất các cây thương phẩm khác, đẩy nhanh quá trình đa dạng hoá.
* Chính sách thuế: loại bỏ hạn ngạch nhập khẩu, giảm tối đa các loại giấy phép đối với việc
nhập khẩu, giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ tất cả các thuế xuất khẩu. Đồng thời loại bỏ dần dần các

trợ cấp, bắt đầu bằng việc loại bỏ quy định các giá đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp.
* Tăng chi tiêu công cộng: tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển các cây trồng
thương phẩm, tăng đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn.

1.5.3. Đa dạng hoá cây trồng ở Thái Lan
Trong sản xuất nông nghiệp ở Thái Lan, lúa là cây quan trọng, được trồng rộng khắp các
vùng và chiếm một nửa diện tích trồng trọt của cả nước. Ngoài ra còn trồng nhiều các loại cây hàng
năm như sắn, ngô, mía đường, các cây lấy dầu và các cây lâu năm như cao su, cây ăn quả
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng và giá trị cây trồng niên vụ 1997 -1998

Cây trồng
Diện tích
(ngàn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(ngàn tấn)
Giá trị sản lượng
(triệu USD)
Lúa vụ chính 9.113,28 1,14 18.789 3.275,39
Lúa vụ phụ 1.156,96 4,23 4.791 825,37
Ngô 1.396,64 3,20 3.832 421,52
Sắn 1.071,04 14,93 15.591 491,12
Mía đường 943,52 49,68 46.873 594,12
Cao su 1.831,04 1,42 2.169 1.262,90
Nguồn : www.agro.gov.vn


 Chính sách và chiến lược chuyển đổi cơ cấu, đa dạng hoá cây trồng
 Hỗ trợ những nông dân sản xuất nhỏ và những người sống trên đất do nhà nước giao sản xuất

lương thực cho tiêu dùng thông qua áp dụng tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp phối hợp với chăn nuôi,
ngư nghiệp.
 Hỗ trợ các tổ chức nông dân và các tổ chức địa phương cung cấp dịch vụ cung ứng vật tư
canh tác, chăn nuôi có chất lượng tốt và giá cả vừa phải cho nông dân.
 Tăng cường chế biến nông sản tại hộ gia đình nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và tạo nhiều
loại sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu thị trường.
 Xúc tiến lập các kho dự trữ nông sản ở địa phương và thúc đẩy sử dụng những kho sẵn có để
từng bước cung ứng sản phẩm cho thị trường theo yêu cầu thời vụ.

Phát triển vườn rau gia đình, trồng rau đủ cho tiêu dùng hộ gia đình và địa phương.

 Thay thế lúa bằng những nông sản có giá trị cao hơn ở những vùng trồng lúa không thích
hợp.
 Thành lập những quỹ tín dụng dài hạn lãi suất thấp giúp nông dân chuyển đổi cơ cấu, đẩy
mạnh các hệ thống đa dạng hoá cây trồng.
 Hạn chế phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài, tăng cường phát triển quỹ tiết kiệm nông
thôn nhằm tăng hiệu quả sản xuất, hỗ trợ các ngành công nghiệp chế biến nông sản. Ngoài ra, nhà
nước xây dựng một số quỹ khác để trợ giúp các nông dân và tổ chức nông dân về các vấn đề tiếp
thị.
 Chính quyền địa phương xã và các nông hội được hỗ trợ về kỹ thuật sản xuất, quản lý, mua
bán vật tư nông nghiệp, phát triển các hợp đồng sản xuất. Trên cơ sở đó những tổ chức này có thể
hoạt động như các trung tâm sản xuất và dịch vụ tiếp thị.
 Tăng cường quản lý chương trình cải cách ruộng đất và phát triển cơ sở hạ tầng; phổ biến
công nghệ và cung cấp thông tin cho người nông dân.
Nhờ có các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và đa dạng hoá cây trồng, cơ cấu
sản xuất trong ngành nông nghiệp cũng như của từng hộ nông dân đã thay đổi theo chiều hướng tích
cực.

1.5. 4. Đa dạng hoá cây trồng ở Ấn Độ
Dân số Ấn Độ hơn một tỉ người, trong đó hơn 70% sống ở nông thôn. Sau độc lập, ngành nông

nghiệp Ấn Độ đã phát triển vượt bậc, Ấn Độ tự túc lương thực và có dư để xuất khẩu. Bên cạnh đó,
Ấn Độ đã đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá cây trồng, phát triển các loại cây trồng ngoài lúa. Hiện
nay, Ấn Độ đã đứng ở những vị trí hàng đầu về xuất khẩu các loại gia vị, hạt điều, lạc, chè, lúa mì,
sữa, rau quả…
 Xu hướng đa dạng hoá cây trồng
Từ thập kỷ 80, khi sản xuất lương thực đã đủ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia thì các
chính sách phát triển nông nghiệp của chính phủ chuyển sang đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, đa dạng hoá sản xuất, phát triển nhiều cây trồng ngoài lương thực, đặc biệt là các cây hạt
dầu. Trước thập kỷ 80, diện tích các loại cây lương thực chiếm 63% tổng diện tích đất nông nghiệp,
đến thập kỷ 90 giảm xuống còn 59%. Giai đoạn 1966-1997, diện tích các loại cây có dầu tăng lên
mạnh nhất, từ 11% lên 15%.
Ở Ấn Độ, đa dạng hoá cây trồng không chỉ là quá trình chuyển dịch cây trồng từ lương thực
sang các loại cây công nghiệp, cây thương phẩm mà còn là quá trình chuyển dịch trong bản thân nội
bộ từng nhóm cây trồng. Đối với cây lương thực, Ấn Độ chuyển từ các loại cây trồng giá trị kinh tế
thấp như kê, ngô sang các loại cây trồng cho giá trị kinh tế cao hơn như lúa gạo, lúa mì. Đối với các
loại cây có dầu, mặc dù lạc vẫn là cây trồng chính nhưng các loại cây khác có giá trị cao hơn đã
phát triển mạnh như hạt cải dầu, đậu tương, mù tạt.

 Chính sách đẩy mạnh đa dạng hoá cây trồng
Trong những năm qua để thúc đẩy quá trình đa dạng hoá cây trồng Chính phủ Ấn Độ đã áp
dụng một số chính sách như sau:

Thiết lập liên kết hiệu quả giữa nghiên cứu, khuyến nông, sản xuất, quản lý sau thu hoạch,
chế biến, tiếp thị và xuất khẩu.
 Lập quỹ quốc gia bảo hiểm nông nghiệp hỗ trợ các cây lương thực và hạt có dầu, các cây
nông nghiệp và cây thương phẩm. Trợ cấp hộ nông dân nhỏ chiếm khoảng 50% ngân sách của quỹ.

Phát triển công nghệ cây bông, tập trung vào các khâu như công nghệ trồng trọt mới, khuyến
nông, hỗ trợ sản phẩm, phát triển cơ sở hạ tầng và hiện đại hoá việc tỉa hột bông và ép bông.


Đầu tư xây dựng, hiện đại hoá, và mở rộng hệ thống kho tàng bến bãi, xây dựng mạng lưới
kho lạnh cho các sản phẩm nông nghiệp.

Triển khai chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng tập trung vào công nghệ sau thu
hoạch.

Tập trung phát triển mạng lưới tiếp thị trong nước cũng như quốc tế.

Triển khai kế hoạch thí điểm về bảo hiểm giống cây trồng, hỗ trợ các rủi ro liên quan đến sản
xuất giống.

Thành lập ngân hàng giống, giữ trong kho đệm để đáp ứng nhu cầu trong trường hợp hạn
hán, lũ lụt hoặc thiên tai khác.

1.5.5. Đa dạng hoá cây trồng ở Trung Quốc
Những năm gần đây, cơ cấu sản xuất và tiêu thụ nông sản của Trung Quốc tồn tại những
bất hợp lý. Nông sản không đáp ứng nhu cầu về chất lượng, tỉ lệ chế biến chưa cao, khó tiêu thụ,
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá và thu nhập của nông dân.
Để giải quyết những tồn tại trên và gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới, chính phủ Trung
Quốc đã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trên phạm vi toàn quốc, trong đó đa
dạng hoá cây trồng chiếm vị trí quan trọng. So với lần chuyển đổi cơ cấu trước thập kỷ 80, chuyển
đổi cơ cấu lần này được coi là "lần chuyển đổi sâu rộng và có tính chiến lược quan trọng".

Bảng 1.2: So sánh sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp thập kỷ 80-90 và hiện nay


Chuyển dịch cơ cấu những năm 80-90 Chuyển dịch cơ cấu hiện nay
Mục
tiêu
Nâng cao sản lượng nông sản, đáp ứng

đủ nhu cầu lương thực trong nước.
Nâng cao sức cạnh tranh của
nông sản trên thị trường, nâng cao
hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Chủ thể
Chính phủ Nông dân
Nội
dung
Điều chỉnh tỉ trọng các cây trồng chính Điều chỉnh tổng thể nền nông
nghiệp, bao gồm nâng cao chất
lượng giống, chuyển dịch cơ cấu
ngành nông nghiệp và chuyển
dịch cơ cấu ngành nghề nông
thôn.
Biện
pháp
Tăng, giảm diện tích đối với các loại
cây trồng.
- Quy hoạch vùng cây chuyên
canh, phát huy ưu thế vùng nông
nghiệp.
- Tăng cường khoa học kỹ thuật
- Tăng cường công tác thị
trường và thông tin thị trường.
 Xu hướng đa dạng hoá
Năm 2000, diện tích gieo trồng của Trung Quốc là 157 triệu ha. Trong đó, diện tích trồng cây
lương thực là 113 triệu ha, cây thương phẩm 37 triệu ha và các cây trồng khác là 7 triệu ha. Để nâng
cao hiệu quả ngành trồng trọt, Trung Quốc tập trung chuyển từ cơ cấu hai loại cây trồng chính là
cây lương thực và cây thương phẩm sang cơ cấu ba loại cây trồng : cây lương thực, thương phẩm và
nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi. Mục tiêu chuyển đổi cơ cấu trong ngành trồng trọt Trung

Quốc là giảm dần tỉ trọng cây lương thực, mở rộng diện tích trồng cây thương phẩm, cây ăn quả
làm nguyên liệu cho ngành chế biến thực phẩm và chế biến thức ăn gia súc, chuyển dần ưu thế
ngành trồng trọt sang cung cấp nguyên liệu cho chế biến và chăn nuôi.

Bảng 1.3: Cơ cấu diện tích một số cây trồng chủ yếu của Trung Quốc
Đơn vị : %
Năm 1990 1995 1998 2000
Lương thực 76,5 73,4 73,1 72,4
Bông 3,8 3,6 2,9 2,4
Cây lấy dầu 7,3 8,7 8,3 8,9
Đường 1,1 1,2 1,3 1,1
Rau 4,3 7,1 7,9 8,5

Nguồn : www.agro.gov.vn

1.5.6. Đa dạng hoá cây trồng ở Nhật Bản
Ở Nhật Bản, lúa là cây lương thực chủ đạo được trồng khắp cả nước. Diện tích đất đồng
bằng ở Nhật Bản rất hạn hẹp. Tỉ lệ đất nông nghiệp chiếm khoảng 14% tổng diện tích đất cả nước,
diện tích đất canh tác trung bình của mỗi hộ gia đình chỉ khoảng 1,6 ha.
 Quá trình đa dạng hoá cây trồng
Gạo là lương thực cơ bản của người dân Nhật Bản, có đủ gạo ăn là mục tiêu chính trong những
năm đầu sau thế chiến II. Từ giữa thập kỷ 60, tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ dẫn đến thay đổi trong
lối sống và làm nhu cầu tiêu thụ gạo giảm xuống. Năm 1960 mức tiêu thụ gạo trung bình từ 115
kg/người giảm xuống còn 66,7 kg/người vào năm 1997. Sản xuất lúa gạo, lúa mì, các loại đậu, tằm
giảm, trong khi sản xuất các loại rau, quả, hoa và chăn nuôi tăng đáng kể.
Bảng 1.4: Tỉ trọng một số ngành trong tổng giá trị nông nghiệp, 1960-1997
Đơn vị : %
Năm Gạo
Lúa
mì Đậu

Cây lấy
rễ thân, củ Rau Quả

Hoa

Nuôi
tằm
Chăn
nuôi
1960 47,4 5,5 2,5 3,0 9,1 6,0 0,5 3,0 15,2
1980 38,3 0,6 0,8 1,4 16,2 7,1 0,9 1,6 25,9
1990 30,1 1,1 0,8 2,3 21,9 8,5 3,8 0,2 25,2
1997 28,1 1,1 0,8 2,1 22,9 8,6 4,5 0,0 26,2

Nguồn : www.agro.gov.vn


Thu nhập hàng năm tăng nhanh nên nhu cầu tiêu dùng của người dân Nhật Bản ngày càng trở
nên đa dạng, tiêu thụ nhiều các loại rau quả và nhiều hàng hoá chất lượng cao hơn so với mặt hàng

×