Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Sk Dạy Toán 4 Theo Hướng Tích Cực Hóa Hoạt Động Học Tập Của HS.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 19 trang )

1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO PHẠM VI ẢNH HƯỞNG, HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG CỦA
SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Dạy học Tốn lớp 4 theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh
2. Tác giả/ đồng tác giả sáng kiến:
T

Họ và

Nơi

Chức

Trình

Tỷ lệ (%)

Điện thoại,

T

tên

cơng

vụ


độ

đóng góp

Email

tác

chun

vào việc

(hoặc

mơn

tạo ra

thường

sáng kiến

trú)
1

Ngơ Thị

Trường Phó chủ Cử nhân

Mỹ Ngọc tiểu học


tịch

Giáo dục

Phù

Cơng

Tiểu học

Đổng

đồn

100%

Ngomyngoc23
@gmail.com

3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không
4. Giấy chứng nhận/Quyết định công nhận sáng kiến số: 84/QĐ-PĐ
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
6. Thời điểm sáng kiến được áp dụng lần đầu: 5/9/2022
7. Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến
7.1. Khó khăn, vướng mắc trong thực tế
a. Về phía học sinh:
Thế hệ học sinh ngày nay đang sống trong thời đại mà công nghệ số dần trở
thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Đồng thời, mặt
trái của nó chính là bọn trẻ đã và đang lệ thuộc quá nhiều vào Internet, các nền



2
tảng mạng xã hội... để rồi "chết dần, chết mòn" đi sự tị mị, ham thích tìm hiểu
những kiến thức mới và quan trọng hơn cả là tư duy độc lập trong cuộc sống.
Từ đó dẫn đến những “căn bệnh” như lười suy nghĩ, lười phản biện và
nguy hiểm hơn cả đó chính là khơng cịn chút gì của thức gọi là động lực phấn
đấu trong học tập.
Dần dà, các em thích cái có sẵn, khơng cần phải làm việc, suy nghĩ, chỉ cần
ngồi nghe thầy cô giáo hướng dẫn và thực hiện theo những chỉ dẫn ấy. Hậu quả
sẽ ra sao? Học sinh sẽ rất thụ động trong học tập. Có thầy thì làm được, khơng
có thầy thì chịu.
Nhiều học sinh chưa nhận thức đúng vai trị của mơn Tốn. Học sinh chưa
ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tịi
cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của
mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm được lượng kiến thức
thầy giảng, rất nhanh qn và kỹ năng tính tốn chưa nhanh.
Ví dụ: Khi học xong các cách giải tốn về phân số các em làm rất lộn xộn:
cộng hai phân số cùng mẫu số cũng quy đồng rồi cộng tử số, có khi nhân phân
số các em cũng quy đồng…mặc dù khi học xong bài mới, ở lớp các em vận
dụng làm bài rất tốt, nhưng khi làm luyện tập chung lại lộn xộn. Tinh thần hợp
tác học tập chưa cao nhiều em còn chưa tự tin, học thụ động.
b. Về phía giáo viên:
Vẫn cịn tồn tại nhiều giáo viên chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Tổ chức các hình thức
dạy và học chưa phong phú và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Do vậy,
chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Từ đó dẫn đến
tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải.
Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc giới thiệu
bài cũng hết sức quan trọng vì nó là một sự chuyển tiếp giữa mảng kiến thức cũ

và mảng kiến thức mới. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên chưa đầu tư, các
kiến thức liên quan đến bài giảng chưa biết sử dụng bài trước để giới thiệu dẫn
dắt lôi cuốn học sinh một cách hấp dẫn vào bài mới.


3
Ví dụ: Bài nào giáo viên cũng chỉ giới thiệu một cách khô khan (Hôm nay
chúng ta học bài: Phép cộng phân số (tiếp theo)).
Khai thác nội dung kiến thức giáo viên cũng chưa làm nổi bật được khi nào
bắt đầu, khi nào cao trào đỉnh điểm, khi nào kết thúc,…Cách đặt ra tình huống
có vấn đề, tự nhớ lại kiến thức cũ và vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong
giờ học.
Ví dụ: Bài: “ So sánh hai phân số khác mẫu số ”. Giáo viên không cho học
sinh tự tìm cách làm để cho hai phân số có mẫu số bằng nhau mà u cầu ln
học sinh quy đồng rồi so sánh tử số của 2 phân số mới. Hoặc bài: “ Diện tích
hình thoi ”, giáo viên chỉ u cầu tính diện tích dựa vào hình chữ nhật, chứ
khơng u cầu các em ghép hình rồi tự tìm cách tính dựa vào cách tính diện tích
hình chữ nhật.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học không kém phần quan trọng. Đồ dùng dạy
học phong phú, lạ lẫm cũng thu hút học sinh chú ý vào bài giảng rất là nhiều,
đặc biệt những đồ dùng dạy học càng thu hút và huy động được nhiều các giác
quan của học sinh thì càng có hiệu quả. Một số giáo viên chỉ vẽ hình và cho học
sinh quan sát, tìm kiến thức mới trên hình: Khơng cho các em thao tác và như
thế các em chỉ huy động được giác quan thị giác (nhìn lên bảng) và thính giác
(nghe cơ giảng bài). Ví dụ bài: “ So sánh hai phân số khác mẫu số ”. Học sinh so
sánh trên hai băng giấy sẽ dễ tiếp thu kiến thức hơn vì trực quan tác động được
nhiều đến các giác quan của các em (có thêm xúc giác – tiếp xúc với băng giấy).
Một số giáo viên ít dành thời gian nghiên cứu, chuẩn bị hay chuẩn bị đồ dùng
dạy học phục vụ cho tiết dạy thêm phong phú (Sợ tốn thời gian) dẫn tới việc tiếp
thu bài mơn Tốn chưa cao.

c. Về phía phụ huynh:
Khi trao đổi với phụ huynh, tơi thường nghe phụ huynh than phiền rằng:
“Anh/chị không thể giúp con học ở nhà vì kiến thức và cách học bây giờ thay
đổi, nhiều khi con hỏi bài mình khơng trả lời nổi.” hoặc “Anh/chị cũng bày con
học, mà sao mỗi lần bày, con cứ nói rằng, ba/mẹ bày khơng giống cơ, ba mẹ bày
sai rồi!”. Chỉ có một số ít phụ huynh là có thể đồng hành cùng con học ngoài giờ


4
lên lớp. Cịn lại đa phần chỉ có thể nhắc nhở con học bài chứ chẳng thể hướng
dẫn con những kiến thức con cịn chưa ổn.
Một khó khăn khác mà các phụ huynh gặp phải là thiếu thời gian dành cho
việc giáo dục con. Loại hình nghề nghiệp quyết định số lượng thời gian mà cha
mẹ dành để giáo dục con. Đa phần, phụ huynh đều làm nghề tự do, thời gian
hoạt động tầm từ chiều đến tối mịt, đến khi về nhà con đã ngủ rồi . Vì thế, họ
khơng có nhiều thời gian quan tâm đến việc học của con em mình.
7.2. Vấn đề cần giải quyết
Dựa vào thực trạng trên, tơi đặt ra cho mình những vấn đề cần giải quyết
sau:
+ Làm cách nào để khắc phục bệnh lười suy nghĩ ở học sinh?
+ Làm cách nào để khơi dậy niềm ham thích học Tốn ở học sinh?
+ Làm thế nào học sinh có thể tư duy khi gặp các bài tốn ở mơn Tốn 4?
+ Đổi mới phương pháp giáo dục như thế nào để thực sự mang lại hiệu quả
cho học sinh?
+ Bằng cách nào có thể giúp cho phụ huynh có thể cùng học sinh ơn luyện
kiến thức ngồi giờ lên lớp?
Hình thành được những vấn đề cần tìm ra câu trả lời, tơi đã tìm hiểu và xây
dựng được một vài biện pháp giúp khắc phục những vướng mắc trên.
8.


Nội dung sáng kiến

8.1. Nội dung của sáng kiến hoặc nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc
phục những nhược điểm hiện tại
Trong cơng tác giảng dạy, vai trị của người thầy rất quan trọng, đặc biệt là
mơn Tốn. Người giáo viên chủ yếu cung cấp cho học sinh một cách đầy đủ,
chính xác, có hệ thống kiến thức. Ngồi ra, cịn thường xuyên rèn luyện cho các
em những kĩ năng cần thiết giúp các em có phương pháp, vận dụng kiến thức đã
học vào việc làm các bài tập liên hệ với thực tiễn. Vì vậy, mơn học này có vai
trị vơ cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Cho nên tôi đã đề


5
xuất và vận dụng những phương pháp sau nhằm phát huy tính tích cực trong học
tập của học sinh như sau:
1. Phương pháp khắc phục chứng lười suy nghĩ ở học sinh


Tập cho học sinh thói quen kiên nhẫn



Giúp học sinh hệ thống lại lập luận của bản thân rõ ràng hơn



Khuyến khích học sinh tư duy nhiều hơn kể cả sai




Tìm hiểu vấn đề khó khăn mà học sinh đang gặp phải



Lấy các ví dụ về tấm gương vượt khó



Rèn luyện tư duy logic qua nhiều hình thức

2. Các phương pháp dạy học theo hướng tích cực


Phương pháp dạy học vấn đáp kết hợp với một số phương pháp dạy học

khác trong hình thành tri thức mới


Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với phương pháp

dạy học khác để tổ chức hoạt động dạy học


Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với phương pháp

dạy học khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng
tạo, hợp tác của học sinh


Giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học




Giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh



Mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả

năng của mình
3. Phương pháp giúp phụ huynh học sinh hỗ trợ con em học tốt mơn Tốn


Thành lập nhóm trao đổi giữa phụ huynh và giáo viên



Trao đổi trực tiếp với phụ huynh hằng ngày qua giờ đón học sinh
8.2. Các giải pháp thực hiện nội dung của sáng kiến và cách thức thực

hiện giải pháp của sáng kiến
8.2.1. Các phương pháp khắc phục chứng lười suy nghĩ ở học sinh
8.2.1.1. Tập cho học sinh thói quen kiên nhẫn


6
Để bản thân học tập tốt hơn, trước hết người giáo viên cần phải rèn luyện
cho học sinh sự kiên nhẫn và nỗ lực vì mục tiêu cuối cùng. Một số trẻ thường có
suy nghĩ bản thân mình là một người học kém mơn tốn. Điều này ảnh hưởng
tiêu cực đến việc tiếp thu kiến thức. Bởi lẽ học sinh cho rằng những người học

kém tốn thì sẽ khơng thể nào tư duy được bài khó. Học sinh sẽ khơng bao giờ
phá vỡ được giới hạn của bản thân và thử suy nghĩ một lần để tìm ra câu trả lời
cho mơn Tốn.
Việc rèn luyện tính kiên nhẫn là một quá trình dài bao gồm sự tìm hiểu
những tác nhân khiến cho bản thân trở nên thiếu kiên nhẫn và tìm cách vượt qua
nó.
8.2.1.2. Giúp học sinh hệ thống lại lập luận của bản thân rõ ràng hơn
Nhiều trẻ có suy nghĩ và tư duy khá tốt. Thế nhưng lại không biết làm thế
nào để hệ thống lại suy nghĩ theo trình tự rõ ràng. Việc có được những ý tưởng
tốt khơng phải là q khó. Nhưng làm thế nào để được mọi người đón nhận thì
khơng phải dễ dàng.
Những suy nghĩ đôi khi chỉ là lập luận rời rạc. Nếu học sinh cảm thấy việc
suy nghĩ của bản thân không đem lại hiệu quả và không thuyết phục được người
khác thì sẽ cảm thấy chán nản và khơng muốn suy luận tiếp nữa.
Chính vì thế, giáo viên có thể dạy học sinh cách làm thế nào để hệ thống lại
lập luận theo trình tự nhất định. Trước khi đưa ra quan điểm của bản thân học
sinh cần phải quan tâm nhiều hơn đến việc mình đang cố gắng để chứng minh
điều gì. Chỉ khi nào học sinh hiểu được đề bài và lập luận dựa trên đề bài đó thì
khi ấy mới là lúc học sinh đang suy nghĩ một cách logic.
8.2.1.3. Khuyến khích học sinh tư duy nhiều hơn kể cả sai
Nhiều trẻ khi nhận được đề bài đều dành rất nhiều thời gian để suy nghĩ và
tư duy vấn đề. Thế nhưng, đến cuối cùng thì việc suy nghĩ đó khơng đem lại
hiệu quả sẽ dẫn đến việc học sinh cảm thấy chán nản.
Thầy cô, bố mẹ là những người thường xuyên dành thời gian để ở cạnh học
sinh, hỗ trợ việc học tập thế nên ngay lúc này nhận được sự khen ngợi, động


7
viên từ gia đình là một trong những việc làm hiệu quả nhất để giúp học sinh cố
gắng nhiều hơn.

Việc học sinh lập luận sai khơng có gì đáng trách, chỉ khi nào vì sai mà học
sinh khơng chịu tư duy thì mới về vấn đề khơng đơn giản. Chính vì vậy, giáo
viên cần phải thật khéo léo trong khi giúp đỡ học sinh học tập để làm tăng sự
hứng thú đối với mơn học.
8.2.1.4. Tìm hiểu vấn đề khó khăn mà học sinh đang gặp phải
Học sinh không tư duy những bài khó đơi khi khơng phải vì học sinh lười
biếng mà thật sự là trẻ đang gặp phải khó khăn nhất định. Trong trường hợp nếu
học sinh cố gắng hết sức mà khơng có hiệu quả thì tức là thầy cô giáo cần hướng
dẫn và giúp đỡ học sinh nhiều hơn.
Cịn nếu việc khơng tư duy đến từ chính sự lười biếng thì giáo viên cần
phải có biện pháp để thúc đẩy được suy nghĩ của học sinh. Thầy cô giáo nên
tránh trường hợp suy nghĩ hộ để học sinh ỷ lại, lười suy nghĩ.
Lúc này, giáo viên có thể là người bắt đầu dẫn dắt vấn đề. Dựa trên những
dữ kiện mà đề bài đã cho, thầy cô hãy đặt ra câu hỏi nhỏ để học sinh có thể suy
nghĩ và trả lời từng ý.
8.2.1.5. Lấy các ví dụ về tấm gương vượt khó
Khi học sinh chán nản hoặc bỏ cuộc, thầy cơ có thể kể những câu chuyện
về tấm gương trong cuộc sống đã từng rơi vào khó khăn và cách thức để họ vượt
qua. Tuy nhiên, giáo viên cần phải lưu ý một điều rằng đây là cách làm để thúc
đẩy niềm tin ở trẻ chứ khơng phải việc so sánh, chì chiết học sinh.
Câu chuyện được thầy cô kể sẽ giúp học sinh hiểu được trong cuộc sống ai
cũng từng gặp phải những khó khăn lớn, nhỏ khác nhau. Nếu chỉ nghĩ mình
khơng làm được thì cả đời mình cũng khơng làm được. Tuy nhiên, nếu cố gắng
suy nghĩ để tìm hướng giải quyết và tự động viên bản thân thì chắc chắn sẽ tìm
ra hướng đi tốt nhất khi gặp những tình huống khó.
8.2.1.6. Rèn luyện tư duy logic qua nhiều hình thức
Có nhiều cách để giúp học sinh rèn luyện được mạch suy nghĩ của bản thân
như: đọc sách, chơi trò chơi, nghe nhạc, tranh luận, viết tay những lập luận của



8
bản thân… Tức là thầy cơ giáo có thể hiểu được việc tư duy của học sinh không
phải chỉ được sử dụng khi suy nghĩ những bài tốn khó. Ngay cả trong cuộc
sống thường ngày học sinh cũng cần phải tư duy khá nhiều.
Điều này giúp học sinh rèn luyện được khả năng suy luận của bản thân.
Thực tế cho thấy những đứa trẻ đã hình thành được khả năng tư duy từ trước khi
áp dụng vào việc học sẽ rất nhanh chóng.
Chính vì thế bất kỳ khi nào có cơ hội, thầy cô hãy tạo điều kiện để học sinh
suy nghĩ và bày tỏ quan điểm của bản thân. Điều này vơ cùng hữu ích cho các
học sinh trong việc học tập. Tư duy tốt còn giúp học sinh làm mọi việc có kế
hoạch và hiệu quả hơn rất nhiều.
8.2.2. Các phương pháp dạy học theo hướng tích cực
8.2.2.1. Phương pháp dạy học vấn đáp kết hợp với một số phương
pháp dạy học khác trong hình thành tri thức mới
Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên
bằng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học
nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trị.
Ví dụ: Trong bài “Phép nhân phân số”: Hình thành phép tính nhân của 2
3
phân số 4

2
và 5 .

Hình thành phép tính nhân của 2 phân số

3
4

2

và 5

cho học sinh là một

vấn đề mới. Nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyện
tập thì khơng phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó,
giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học
sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo.
Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống
câu hỏi sau:
3
- Hãy tính 4

2
của 5 .


9
Đây là một tình huống mà học sinh chưa thể thực hiện được ngay. Nhưng
nếu học sinh chịu khó suy nghĩ, vận dụng kiến thức đã học (Cách cấu tạo phân
số) hoặc giáo viên hướng dẫn thì học sinh có thể thực hiện được. Ở đây, giáo
3
viên muốn học sinh thực hiện câu hỏi trên để dẫn đến cách tính 4
2
- Hãy phân tích 5
2
Ta có: 5

thành tổng của 4 phân số bằng nhau?


2×4
= 5×4

8
2
2
2
2
= 20 = 20 + 20 + 20 + 20 .

3
- Từ kết quả trên, hãy cho biết, 4
3
Ta có: 4

2
của 5

3
với kết quả 4

3
Kết luận: Ta nói tích của 4
¿

2
5

2
của 5


2
2
2
là 20 + 20 + 20

2×3
- Hãy so sánh 4×5

3
Viết 4

2
x 5 .

3×2
= 4×5

là bao nhiêu?
6
= 20 .

2
2×3
của 5 ? ( 4×5

2
với 5

6

= 20 ).

6
= 20 .

6
= 20 .

Giáo viên nêu cơng thức tổng qt:

a
b

¿

c
d

=

c
b×d

và yêu cầu học

sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.
8.2.2.2. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với
phương pháp dạy học khác để tổ chức hoạt động dạy học
Ví dụ: Trong bài “ Phép cộng phân số ” (tiếp theo).
1

Bài tốn: “ Có một băng giấy màu, bạn Hà lấy 2
1
3

băng giấy, Bạn An lấy

băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ” (Toán 4 trang

127).
Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn
luyện kỹ năng tính tốn cho học sinh.


10
Hướng dẫn giải như sau:
+ Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện
1
phép tính gì? (phép cộng: 2

1
+ 3 ).

Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một
tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết
được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết
tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn
tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số
(Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với phương
pháp dạy học vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2

phân số khác mẫu số.
8.2.2.3. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với
phương pháp dạy học khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy
tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh.
Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau,
cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập
các số liệu điều tra thống kê.
Ví dụ: Bài “Diện tích hình thoi”
u cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m, BD
= n (hình a)
- Để tìm cơng thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học
sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
* Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình
tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b).


11
Ta có: Diện tích (hình thoi ABCD) = diện tích (hình chữ nhật AMNC) =

m

n
2

¿

=

m×n

2 .

* Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình
tam giác ABD để được hình chữ nhật MNBD (hình c).
Ta có: Diện tích (hình thoi ABCD) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) =
m
2

¿

n=

A

m×n
2 .
B

O

M

B

N

N

C


A

B

O

C
A quả, phát huy tính chủ
Do đó để Dkiểm nghiệm kết
động
M sáng tạo và tinhD
(Hình
b)
c)
a) sinh, giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo (Hình
thần hợp tác(Hình
của học
nhóm nhỏ để
tổ chức hoạt động dạy học.
8.2.2.4. Giải các bài toán là cơ sở giải loại tốn sắp học
Giải các bài tốn có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết
quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan
hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài tốn.
Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học dạng tốn: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số
của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài tốn sau: “ Cơ có 30 bút chì, chia
thành 3 phần bằng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn
nam được mấy bút chì?”.
Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học dạng tốn: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu
của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có
tất cả 15.000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao

nhiêu tiền?”.
- Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập:
+ Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng). Chia bảng
con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng.


12
+ Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước
rồi chia đơi phần cịn lại: Học sinh lấy 5.000 đồng cho Nam trước (đặt 5 que tính
vào phần lớn).
- Cịn mấy nghìn đồng? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng).
- Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn? (10.000 : 2 = 5.000
đồng).
- Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng (5 que tính)
- Vậy Hùng được mấy nghìn? (5.000 đồng).
- Cịn Nam được mấy nghìn? (5.000 +5.000 = 10.000 đồng).
- Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải.
8.2.2.5. Giải các bài tốn phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy
của học sinh
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang
tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó
các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học.
Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”.
Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và
học sinh cùng thực hành trên băng giấy.
– Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo
chiều ngang:
3
+ Tô màu vào 8 băng giấy
2

+ Tơ màu vào 8

băng giấy

5
Nhìn vào băng giấy học sinh dễ nêu được hai lần đã tô màu được 8

giấy.
3
2
Học sinh nêu: 8 + 8

3+2
= 8

5
= 8 .

băng


13
Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với
nhau và giữ nguyên mẫu số.

Hướng dẫn học sinh thực hành trên băng giấy.

3
2
Học sinh thực hành trên băng giấy để tìm ra kết quả của phép tính 8 + 8


8.2.2.6. Mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập
theo khả năng của mình, bằng cách:
– Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài
nào, kể cả bài dễ, bài khó.
Khơng bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang
bài tiếp theo.
Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác:
Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ”


14
3
5

6
+ 10

8
+ 10

3
= 5

6
+ ( 10

8
3
+ 10 ) = 5


14
+ 10

20
= 10

Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu
thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng
dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện.
Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh
nhớ lại kiến thức đã học đó là:
- Tính chất giao hốn của phép nhân.
- Tính chất kết hợp của phép nhân.
- Tính chất nhân một số với một tổng (Hoặc một tổng nhân với một số).
- Tính chất nhân một hiệu với một số (Hoặc một số nhân với một hiệu).
Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải tốn: Khi nào vận
dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia:
Ví dụ: 2

¿

10 + 10

¿

5 = 10

¿


(2 + 5) = 10

¿

10 = 20 (Áp dụng

tính chất nhân một số với một tổng)
8.2.3. Phương pháp giúp phụ huynh học sinh hỗ trợ con em học tốt
mơn Tốn
8.2.3.1. Thành lập nhóm trao đổi giữa phụ huynh và giáo viên
Hiện nay, mạng internet bao phủ rộng khắp, người dân sử dụng máy tính,
nhất là điện thoại thông minh tăng cao nên việc trải nghiệm các ứng dụng tiện
ích phục vụ cơng việc, cuộc sống trên các nền tảng công nghệ ngày càng tăng
theo tỷ lệ thuận. Trong đó, ứng dụng zalo (nhắn tin, gọi điện miễn phí trên nền
tảng máy tính, di động) đang được sử dụng phổ biến và mang lại nhiều tiện ích.
Thực tế cho thấy, việc sử dụng nhóm zalo trong trao đổi thông tin giữa giáo viên
và phụ huynh thời gian qua rất phổ biến ở mọi cấp học, lớp học trên địa bàn.
Thường xuyên cập nhật nội dung bài học để phụ huynh nắm rõ chương
trình học của con đã đến đâu, con đã học được những gì. Từ đó, cha mẹ học sinh
có thể học cùng con ngay từ đầu năm học.


15
Trong quá trình kèm con học, khi gặp vấn đề khơng nắm chắc, phụ huynh
có thể trao đổi với giáo viên và các phụ huynh khác thơng qua nhóm lớp. Nhờ
đó, nhiều phụ huynh khác cũng có thể hiểu đúng và hướng dẫn lại con mình.

Sử dụng Zalo tạo thành nhóm lớp, thường xuyên cập nhật bài học cho phụ
huynh kịp thời nắm bắt, theo dõi và hướng dẫn được con học.
8.2.2.2. Trao đổi trực tiếp với phụ huynh hằng ngày qua giờ đón học

sinh


16
Xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp, bền vững cần thời gian và sự thống
nhất. Hai buổi họp phụ huynh một năm là không đủ để phụ huynh và giáo viên
xây dựng được sự tin cậy lẫn nhau. Các bậc cha mẹ sẽ đánh giá cao những nỗ
lực, công sức của giáo viên khi họ hiểu rõ kết quả phát triển của trẻ, giúp phụ
huynh và nhà trường cùng tìm ra những khả năng tiềm ẩn hoặc các vấn đề quan
trọng của con. Lứa tuổi tiểu học khác với lứa tuổi mầm non, phụ huynh khơng
cịn thường xun trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của con em mình
mỗi ngày. Vì vậy, họ khơng thể nắm bắt kịp thời những lổ hỗng trong kiến thức
của các em. Đồng thời, không chỉ là thông tin từ cô giáo mà đơi khi, việc trao
đổi cịn là thơng tin phản hồi từ các bậc phụ huynh đến với nhà trường.
Ví dụ: Qua trao đổi với phụ huynh, phụ huynh nắm được rằng học sinh còn
chậm khi thực hiện cộng, trừ phân số. Sau khi về nhà, phụ huynh tiến hành kèm
cặp, giúp đỡ học sinh. Tuy nhiên, họ không nắm chắc rằng trong các giờ học
trên trường, học sinh đã khắc phục những mảng kiến thức đó chưa. Vì vậy, việc
trao đổi trực tiếp hằng ngày qua giờ đón học sinh là rất cần thiết và hiệu quả.
8.

Khả năng áp dụng sáng kiến

Xuất phát từ thực tiễn mà tôi mới viết được sáng kiến “Dạy học Toán lớp 4
theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh”. Chính vì thế, việc áp
dụng sáng kiến là hồn tồn khả thi, bởi các lí do sau:
 Cơ sở vật chất hoàn toàn đảm bảo phục vụ cho việc dạy và học phân mơn
Tốn.
 Mỗi giáo viên đều có kiến thức chuyên môn vững vàng đảm bảo điều kiện
cho việc giảng dạy, đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu sâu sắc các kiến thức

dạy cho học sinh.
 Các phương pháp tôi đưa ra không chỉ áp dụng cho việc dạy học Tốn lớp
4 theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh mà hoàn toàn có thể
tích hợp vào các nội dung khác trong mơn Tốn hoặc các mơn học khác.
 Đối với học sinh lớp Bốn, theo phân phối chương trình, tiết Tốn đều
được học 5 tiết/ tuần, số lượng các bài tốn có lời văn vừa phải (mỗi tiết lí


17
thuyết khơng q 3 bài tập, trong đó thường có khơng q một bài tốn có lời
văn; trong mỗi tiết thực hành có khơng q 4 đến 5 bài tập, trong đó thường
khơng q 2 bài tốn có lời văn, trừ một số tiết giải tốn có lời văn). Các bài
tốn khó có cách giải phức tạp (mang tính chất đánh đố) hầu như khơng có.
Thay vào đó, có một số bài mang tính chất phát triển địi hỏi học sinh phải suy
nghĩ độc lập để giải. Nội dung các bài tốn có tính cập nhật, gần với đời sống
xung quanh của học sinh, gắn liền với các tình huống cần giải quyết trong thực
tế.
 Học sinh hồn tồn có đủ điều kiện để tham gia vào tiết học.
 Phụ huynh học sinh đều hết mực quan tâm đến việc học của con em mình.
 Bản thân tơi trong năm học 2022 - 2023 đã áp dụng vào giảng dạy mơn
Tốn tại trường Tiểu học Phù Đổng. Tơi thấy rằng, việc thực hiện các yêu cầu,
phương pháp trong đây là khả thi, thực sự đem lại hiệu quả cho các em học sinh.

9.

Đánh giá lợi ích thu được

Với sự chỉ đạo của nhà trường, sự cố gắng của bản thân, sau khi thực hiện
các giải pháp như trên, học kì I năm học 2022 - 2023 lớp của tơi có được kết
quả đáng khích lệ. Tơi thấy áp dụng phương pháp này phù hợp với mục tiêu của

giáo dục tiểu học là phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh và chất lượng
học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong q trình học tốn, học sinh đã
chiếm lĩnh được kiến thức rất tốt, các em yêu thích và tích cực học tốn hơn. Sự
tiến bộ của học sinh được thể hiện qua điểm, số bài được đánh giá hồn thành và
điểm số cuối kì. Cha mẹ học sinh yên tâm hơn, tin tưởng vào chương trình, kiến
thức khơng q khó với học sinh. Phần đơng phụ huynh tích cực ủng hộ việc
dạy học của nhà trường, của giáo viên. Tôi đã tiếp tục áp dụng cho tới thời điểm
hiện tại.
Sau đây là kết quả khảo sát về mơn Tốn giữa kì I và cuối kì I lớp 4/1
trường tiểu học Phù Đổng:


18
Điểm
TSHS
35/18

Điểm
TSHS
35/18

KẾT QUẢ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ GIỮA HỌC KÌ I - LỚP 4/1
10
9
8
7
6
5
SL
TL

SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
3/0 9.1% 6/5 18.2% 13/6 39.4% 6/2 18.2% 0/0 0.0% 7/5 21.2%
KẾT QUẢ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ I - LỚP 4/1
9
8
7
6
5
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
17.1% 14/6 40.0% 4/2 11.4% 6/3 17.1% 3/3 8.6% 2/1 5.7%


10
SL
6/3

DƯỚI 5
SL
TL
0/0 0.0%

DƯỚI 5
SL
TL
0/0
0.0%

Kết quả kiểm tra định kì giữa và cuối học kì I – Lớp 4/1

Bài kiểm tra định kì giữa và cuối học kì I của em Lâm Gia Hồng – Học sinh
khuyết tật của lớp.

Bài kiểm tra định kì giữa và cuối học kì I của em Nguyễn Lê Na
Trên đây mới chỉ là kết quả khiêm tốn nhưng cũng đủ để chứng minh được
rằng: khi học sinh nắm vững kiến thức, hiểu rõ bản chất của vấn đề, được tự xây
dựng và hình thành kiến thức mới, nắm được phương pháp giải tốn có lời văn,
kết quả học tập của các em sẽ được nâng lên.


19
11. Những thông tin cần được bảo mật: không
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật

và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật./.
Xác nhận của cơ quan, đơn vị

Hội An, ngày 17 tháng 3 năm 2023
Người nộp đơn

Ngô Thị Mỹ Ngọc
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ỨNG DỤNG/ CÁ NHÂN CÓ LIÊN QUAN



×