Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu Luận Cao Học- Con Đường Quá Độ Đi Lên Chủ Nghĩa Xã Hội Bỏ Qua Chế Độ Tư Bản Chủ Nghĩa Ở Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài :

THỰC CHẤT CỦA BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XĂ HỘI Ở VIỆT NAM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI........................................................................................4
1.1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội.........................4
1.2. Tính tất yếu và các loại hình q độ lên CNXH............................4
1.3. Thực chất của bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa
xã hội.....................................................................................................7
Chương 2 . THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN Ở
VIỆT NAM.................................................................................................10
2.1. Thực trạng trong quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay..................................................................................10
2.2. Những giải pháp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay..................................................................................24
KẾT LUẬN................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................29


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ diễn ra khi mục đích của


nó là tiêu diệt chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời và xây dựng một xã hội tiên
tiến hơn. Nếu như giai cấp lãnh đạo của chủ nghĩa tư bản là giai cấp tư sản
thì cơng nhân là những người bắt đầu cho quá trình chuẩn bị lực lượng, vật
chất, tinh thần cho cách mạng xã hội. Giai cấp cơng nhân sẽ thơng qua
chính đảng của mình là Đảng cộng sản lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao
động và các lực lượng tiến bộ dùng sức mạnh để lật đổ ách thống trị của
giai cấp tư sản. Trên cơ sở lật đổ xã hội tư bản cũ sẽ xây dựng một xã hội
mới tiến bộ hơn, tiêu diệt toàn bộ yếu điểm, hạn chế mà chế độ xã hội cũ để
lại. Chủ nghĩa xã hội sẽ xây dựng thành công khi đạt được mục tiêu đề ra
ban đầu.
Khi các nước chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ các thế
lực chống phá cộng sản đã hí hửng tuyên bố chủ nghĩa xã hội là sản phẩm
sai lầm của lịch sử, Chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội vĩnh hằng.

Ở nước ta hồi đó đã khơng ít người có phù họa với những luận
điểm trên đây của các thế lực thù địch, họ kêu gọi Đảng ta từ bỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường này là ảo tưởng trái với quy luật, họ cho
rằng chủ nghĩa tư bản là khuôn mẩu, chủ nghĩa xã hội đã chết và bị phủ
định.“Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay đổi chế
độ tư bản lỗi thời, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa khi những điều kiện vật
chất và tinh thần cho sự thay thế đó đã ở mức nhất định, và khi hình thành
tình thế cách mạng.”
Như vậy, muốn cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra phải
có những điều kiện tiên quyết cơ bản đó là điều kiện về vật chất, điều kiện
về tinh thần, và tình thế cách mạng. Có thể nói đây là một quá trình lâu dài
và phức tạp. Trong lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều sự thay đổi của

1



các hình thái kinh tế xã hội. Các hình thái xã hội ra đời sau đều tiến bộ hơn
hình thái xã hội trước nó và đưa lịch sử nhân loại phát triển lên một tầm
cao hơn. Xã hội muốn phát triển phải có sự đấu tranh và loại bỏ những mâu
thuẫn trong xã hội. Và những cuộc đấu tranh loại bỏ những mâu thuẫn đối
kháng chính là cuộc cách mạng xã hội. “Cách mạng xã hội là sự cải biến
căn bản chế độ xã hội, là sự thay thế chế độ xã hội này bằng chế độ xã hội
khác tiến bộ hơn, phù hợp hơn với trình độ và nhu cầu phát triển của lịch
sử” Các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là công việc quan
trọng của nhiều thế hệ, với vốn kiến thức của bản thân cịn nhiều thiếu sót,
xong em cũng xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thực chất của bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xă hội ở Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là để khẳng định
tính đúng đắn khoa học của con đường định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
của đảng và nhân dân ta là hoàn toàn chính xác.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống các khái niệm, quan điểm cơ bản của đề tài: về con
đường đi lên XHCN bỏ qua chế độ TBCN.
+ Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng CNXH
ở Việt Nam.
+ Nêu ra những giải pháp cơ bản để xây dựng thời kỳ quá độ lên
CNXH bỏ qua TBCN ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những quy luật và tính quy luật chính trị – xã hội của q trình phát
sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa;



những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và
phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện sự
chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Những văn kiện của Đảng, pháp luật của nhà nước điều chỉnh hình
những hình thái kinh tế - xã hội cho phù hợp với những nguyên tắc, yêu
cầu cơ bản của một nhà nước xã hội chủ nghĩa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài Đề tài sử dung phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về Quan niệm của chủ nghĩa xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích và chứng minh; Phương pháp
lôgic-lịch sử, Phương pháp tổng hợp; Phương pháp lịch sử cụ thể v.v..
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài
nghiên cứu có bố cục là ba chương và 6 tiết


NỘI DUNG
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
1.1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
triệt để và toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nó diễn ra trong tồn bộ các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra các tiền đề
vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những

nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa từng bước được thực hiện.
Để hiểu được rõ thế nào là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)
trước hết ta phải hiểu được thế nào là là thời kỳ quá độ. Theo lý luận MacLenin đã khẳng định muốn tiến từ phương thức sản xuất thấp leenmootj
phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải trải qua thời kỳ quá độ.
Mác đã khái quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải
biến Cách mạng không ngừng, triệt để và toàn diện từ phương thức sản
xuất này sang phương thức sản xuất khác. Trong thời kỳ quá độ xét cả về
mặt kinh tế, chính trị, xã hội đó là một thời kỳ có nhiều mâu thuẫn đặt ra
địi hỏi lý luận phải giải quyết triệt để”
1.2. Tính tất yếu và các loại hình quá độ lên CNXH.
1.2.1. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH.
C.Mác cho rằng thời kì này bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có
nghĩa là tiến trình q độ khơng dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải
qua nhiều khúc quanh; những quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng.
Điều đó cũng được Lênin khẳng định rằng: Trong thời kì quá độ, sự nghiệp
xây dựng CNXH có khi phải “ làm lại nhiều lần” mới xong và trong thực tế
diễn biến của tiến trình quá độ trong gần 90 năm qua với những thất bại
thăng trầm cũng đã chứng minh điều đó.


Theo V.I. Lênin tất yếu xảy ra quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra
đời phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy
định, sự hình thành chế độ mới có thể ví như một cơn đau đẻ kéo dài do đó
nó cần phải có thời gian, có những sự chuẩn bị và những tích luỹ vật chất
cần thiết đủ cho nó lọt lịng và phát triển.
Thứ nhất: Cách mạng vơ sản có điểm khác biệt căn bản so với Cách
mạng tư sản. Đối với Cách mạng tư sản quan hệ sản xuất phong kiến và
quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất nên quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng
xã hội phong kiến; nhiệm vụ của nó chỉ là giải quyết về mặt chính quyền

Nhà nước làm kinh tế thị trường thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Thứ hai: Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
là một thời kì lâu dài, khơng thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để
phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới,
cần phải có thời gian, hay tất yếu phải có thời kì q độ lên CNXH.
1.2.2. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên
CNXH cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế
phát triển. Con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở
Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường
phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường
phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử
tự nhiên của Cách mạng Việt Nam vì:
Thứ nhất: là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời
kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội
đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội
xã hội chủ nghĩa. CNTB không phải là tương lai của lồi người, nó khơng


vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng ngày càng
phát triển gay gắt và sâu sắc hơn; CNXH mà con người đang vươn tới là
hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng
con người, sự phát triển tự do và tồn diện của loài người. Chúng ta quá độ
thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại nghĩa là đi theo
quy luật tự nhiên của lịch sử.
Thứ hai: là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng.
Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là

quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành cơng thì chúng ta đã cởi bỏ
được hai vịng xích, đã thốt khỏi cảnh một cổ hai tròng, Đảng và Nhà
nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi
theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần
được giữ vững, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải
được cải thiện, nâng cao nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Có
hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách
sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ thành cơng. Nhưng điều đó khơng ngăn
cản việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con
đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên CNXH có ý nghĩa rất
lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị
cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở
vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống
nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên
CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân
dân lao động.


Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo tồn thể nhân dân lao động
tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
1.2.2. Các hình thức đi lên chủ nghĩa xã hội
a. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội từ nước tư bản chủ nghĩa đi lên
Chủ Nghĩa Xã Hội (theo quy luật tư nhiên của thời đại)
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài
người. Là sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước mà CNTB đã phát
triển đầy đủ, lực lượng sản xuất đã xã hội hoá cao mâu thuẫn gay gắt với
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN; mâu thuẫn

giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đến độ chín muồi. Cách mạng
XHCN nổ ra và thắng lợi, chính quyền nhà nước của giai cấp cơng nhân
được thiết lập, mở đầu thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Cho đến nay
loại hình nay chưa xuất hiện.
b. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội nước có nền kinh tế chưa phát triển:
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của xã hội loài người.
Tư tưởng về loại quá độ thứ hai đã được C.Mác và Ph.Ăngghen dự kiến.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản
Tây Âu giành được thắng lợi, thì các nước lạc hậu có thể đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội.
Tiếp tục tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra bản
chất giai cấp, nội dung và các điều kiện của quá độ tiến thẳng tới chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
1.3. Thực chất của bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ
nghĩa xã hội
Thực chất bỏ qua chế độ tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một hình thức
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải
theo phương thức trực tiếp, mà phải đi qua các bước trung gian, phải bắc
những “chiếc cầu nhỏ” đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Việc bỏ qua


chế độ TBCN, về cơ bản, chính là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”[5].
Bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN trong
nền sản xuất xã hội đang vận động đi lên CNXH, cũng có nghĩa ở đó cịn
tồn tại ở mức độ nhất định các quan hệ sản xuất tư bản và tiền tư bản,
chúng vận động và tác động đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đang

định hướng đi lên CNXH. Chính vì vậy, trong thực tiễn cần có những chính
sách để các quan hệ này vận động, đóng góp vào sự tăng trưởng chung,
đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của chúng.
Quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất. Một khi lực lượng sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn thấp, đa dạng, cần xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp, nghĩa là cần có các quan hệ sản xuất đa
dạng để tạo điều kiện khai thác các nguồn lực và mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển.
Trên phạm vi quốc gia, chúng ta bỏ qua việc xác lập vị trí chi phối
của quan hệ sản xuất TBCN, song trong phạm vi cụ thể như doanh nghiệp,
hay các đặc khu kinh tế, quan hệ kinh tế TBCN, cách thức quản lý theo
kiểu tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại, vận hành theo các quy luật kinh tế của
chủ nghĩa tư bản. Sự vận hành và chi phối của quan hệ sản xuất TBCN vẫn
diễn ra trong quá trình sản xuất, song với không gian và thời gian nhất
định. Phạm vi không gian và thời gian này được quy định bởi các luật và
quy định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH khơng chỉ là bỏ qua xác lập
vị trí chi phối của quan hệ sản xuất TBCN và kiến trúc thượng tầng TBCN,
mà còn là bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, cũng như việc


tước đoạt tư liệu sản xuất của người lao động, đẩy những người lao động
trở thành người làm thuê. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp cơng
nhân và những người lao động trở thành những người chủ của xã hội mới,
thực hiện xã hội hóa tư liệu sản xuất, từng bước xây dựng và đưa quan hệ
sản xuất mới ngày càng chiếm vị trí chi phối trong nền sản xuất xã hội. Do
vậy, bỏ qua chế độ TBCN cũng còn là việc bỏ qua tạo dựng giai cấp thực
hiện sự thống trị, bóc lột giai cấp cơng nhân và những người lao động trong
CNTB. Song, trong thời kỳ quá độ cùng với xây dựng giai cấp công nhân là

việc hình thành tầng lớp doanh nhân, cùng với những người lao động cùng
làm chủ xã hội, cùng xây dựng xã hội mới.
Vậy bỏ qua chế độ TBCN là việc bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, đồng thời bỏ qua
việc tước đoạt ruộng đất và tư liệu sản xuất của người lao động, bỏ qua
việc tạo dựng giai cấp thống trị, bóc lột người lao động, và đương nhiên
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
TBCN.


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng trong quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta hiện nay
2.1.1. Những thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội
Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước
ta phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn,
lạc hậu, nạn đói xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm
1945 có tới hàng vạn người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng
chiến trường kì kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì quá độ thì
dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất nền kinh tế đã thay đổi. Từ nền kinh tế
thuộc địa nửa phong kiến, chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mang
tính độc lập mang tính chất dân chủ nhân dân, thốt khỏi sự phụ thuộc hoàn
toàn vào chủ nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát
triển nhất định nhưng kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay
(thời kì đổi mới). Sau 30 năm đổi mới kinh tế đã có những bước chuyển
biến đáng mừng.
Về kinh tế:

So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi,
kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng
lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời sống nhân dân từng bước được
cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở
thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
- Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã
đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn


đầu đổi mới (1986-1990) với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm
chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng
trưởng rất ấn tượng: giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm
gấp đơi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc
dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999),
GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm.
Giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 20062010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân 6,32%/năm. Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010,
tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011 - 2015 của Việt Nam tuy đã chậm
lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Năm 2003, sau 16 năm đổi mới,
GDP bình quân đầu người ở nước ta mới chỉ đạt 471 USD/năm thì đến năm
2015, quy mô nền kinh tế đã đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân
đầu người đạt gần 2.300 USD. Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số
lượng và chất lượng. Chất lượng tăng trưởng có mặt được cải thiện, trình
độ cơng nghệ sản xuất có bước được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng
suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 chỉ đạt
21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đã

đạt 28,94%. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp cho mơi trường đầu
tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu
tư cho phát triển. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch
theo hướng hiện đại. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm
khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp.
- Về cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát
huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở
hữu. Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình


chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có cải thiện đáng
kể. Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai
đoạn 2011-2015 tăng đến 18%/năm.
Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng sản phẩm công
nghiệp và giảm dần tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm
nguyên liệu thơ. Đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động
lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước. Phát triển các khu kinh tế,
khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời
hình thành các vùng chun mơn hố cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến
công nghiệp.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.
Ngành cơng nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc
độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải
thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và chất lượng,
từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh
tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú
trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.
Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn có sự chuyển biến quan trọng, từ lúc cả

nuớc còn thiếu ăn nay đã trở thành nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn,
đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu
cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ
hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thơng
phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn
pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
- Về cơ chế quản lý kinh tế trong 30 năm đổi mới, đã ba lần sửa đổi
và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, trên


70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 và
hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013 cơ bản đã tạo cơ sở pháp
lý hình thành và thúc đẩy việc hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là khẳng định nguyên tắc nền kinh tế có chế độ đa sở hữu, đa
thành phần, nhiều hình thức phân phối; khẳng định nguyên tắc phát triển
đồng bộ các yếu tố thị trường và vận hành thông suốt các loại thị trường;
khẳng định nguyên tắc Nhà nước quản lý nền kinh tế theo theo các nguyên
tắc của cơ chế thị trường; khẳng định nguyên tắc đảm bảo thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường; khẳng định nguyên tắc mở cửa, hội nhập với
kinh tế khu vực và thế giới.
Ba mươi năm đổi mới kinh tế cũng đã chứng kiến vai trò tích cực của
các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tự do kinh doanh và cạnh
tranh theo quy định của pháp luật: Kinh tế nhà nước dần phát huy tốt hơn vai
trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ
phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số lượng.
Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu
mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân

tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải
quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi được khuyến khích phát triển, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi (FDI) đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và xuất khẩu.
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp không ngừng phát triển và ngày
càng phát huy vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đang tích cực được hồn thiện, bộ máy quản lý nhà nước đã và đang
được điều chỉnh theo hướng tinh giản, chức năng quản lý nhà nước về kinh


tế cũng được nhận thức lại đúng đắn hơn, đổi mới cả trong nhận thức và
thực hiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường.mới đã bước đầu được hình
thành. Nhà nước đã xoá bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành cơ chế thị trường, Nhà nước đã dần
dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu sử dụng phương
pháp hành chính coi kế hoạch hoá với các chỉ tiêu pháp lệnh là công cụ để
quản lý, điều hành nền kinh tế sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật kết hợp
chính sách và các cơng cụ điều tiết vĩ mơ như chính sách tài chính, tiền tệ,
thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.
Về xã hội:
Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã
dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần
kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ khơng chấp
nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm
giàu hợp pháp đi đơi với tích cực xóa đói giảm nghèo.
An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo; hệ thống an sinh xã hội và

phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề giảm nghèo,
giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi
người có cơng với nước, trợ giúp xã hội, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân
tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và
giáo dục.
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn, Việt Nam đã tăng
thêm ngân sách và huy động nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội;
đồng thời hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
của Liên Hợp quốc.
Ba mươi năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc


và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều
quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế.
Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ
thống y tế, giáo dục. Mạng lưới y tế bây giờ đã rộng khắp luôn kịp thời
chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có
các trạm xá với những cán bộ y tế đã được qua đào tạo. Thành công về y tế
lớn nhất trong năm vừa qua là chúng ta đã nhanh chóng kiềm chế, khoanh
vùng được dịch Sar cũng như dịch cúm gia cầm, rồi những ca phẫu thuật
cấy ghép tuỷ, thận…
Về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn
được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước ln có những chính
sách hỗ trợ và đầu tư cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ
thuật, trợ cấp cho học sinh, sinh viên…Kết quả là số người tham gia xóa
mù chữ ở tất cả các cấp tăng lên 12%. Về cơ bản nước ta đã phổ cập được
tiểu học. Đến tháng 6 năm 2004 đã có 19 tỉnh trong cả nước được cơng
nhận phổ cập trung học cơ sở. Tính năng động sáng tạo của người dân được
khơi dậy và phát huy. Người lao động ngày càng chủ động hơn trong tìm

kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải thiện đời sống, tham gia ý
kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội. Khơng cịn
nhiều hiện tượng ỷ lại, thụ động, trông chờ Nhà nước, dựa dẫm tập thể.
Về chính trị:
Thứ nhất, đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Từ khi giành được thắng lợi
trong cuộc cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt Nam về
thực chất đã trở thành một Đảng cầm quyền. Trong suốt mấy chục năm qua
Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và xây dựng một xã hội mới
– xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng ln là lực lượng chính trị duy nhất lãnh


đạo cách mạng và lãnh đạo nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà
nước và mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Đảng không tự biến mình
thành Nhà nước.
Thứ hai, Trong suốt thời kì quá độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp
tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phịng, an ninh, bảo vệ chế độ,
chủ quyền đất nước. Mặc dù những kẻ thù địch không ngừng chống phá
cách mạng trong nước, mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế, xã hội vào thời
kì những năm 1996 – 2000 nhưng chính trị của nước ta vẫn được ổn định.
Thành quả này là kết quả tổng hợp của cơng cuộc đổi mới trong đó quốc
phòng an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các nhu cầu củng cố quốc
phòng, cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang luôn được quan tâm đáp
ứng. Chất lượng và sức mạnh quân đội luôn được nâng lên. Thế trận quốc
phịng tồn dân ln được củng cố vững chắc, chủ quyền đất nước càng
được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã thực hiện tốt chính sách kết
hợp kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ ba, chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ

thống chính trị.
Về củng cố Đảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung,
cụ thể hoá đường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ở nước
ta, củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền dân chủ, do dân và vì dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc
bầu cử Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp theo chế độ phổ thơng đầu
phiếu, chính người dân đã trực tiếp được cầm phiếu đi bầu người đại diện
cho mình – những người sẽ thay mặt họ trình bày lên cơ quan cấp trên có
thẩm quyền những vấn đề bất cập trong cuộc sống hàng ngày, sẽ thay mặt
họ đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp mà họ được hưởng. Bên cạnh đó, đời


sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng được đặc biệt chú ý quan tâm,
Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con
đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Đảng ln ln tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn
hố, tập qn, tín ngưỡng tơn giáo của các dân tộc, ln thực hiện nhất
qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo
nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến lợi
ích quốc gia dân tộc.
Thứ tư, chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá vỡ thế
bao vây, cơ lập, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng
ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
đa phương hoá, đa dạng hoá. Chúng ta đã khắc phục và tăng cường quan hệ
với các nước cơng nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, bình thường hố quan
hệ Việt – Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh,
Trung Đông, với các tổ chức quốc tế, khu vực, đã tham gia vào các tổ chức

ASEAN, AFTA, APEC, WTO..v.v. Tiếp tục duy trì phát triển quan hệ đoàn
kết hữu nghị với các Đảng cộng sản và công nhân các phong trào độc lập,
các tổ chức và phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp
phần giữ vững hồ bình, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi
trường quốc tế, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
2.1.2. Đặc điểm những cơ hội và thách thức trong quá trình vận
động đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Trong quá trình vận động đi lên CNXH trong bối cảnh hiện nay,
cùng với những cơ hội là khơng ít thách thức cần vượt qua, địi hỏi cần có
nhận thức hết sức nhạy bén để nhìn nhận khách quan.
Thứ nhất, cơ hội và thách thức luôn đan xen lẫn nhau trong quá trình
vận động đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta. Bản thân cơ hội
xuất hiện thường gắn liền với thách thức, đan xen nhau cùng tác động. Vấn


đề là chúng ta cần nắm bắt cụ thể tình hình, lường trước những thay đổi để
nhận rõ các cơ hội cũng như thách thức đặt ra để có giải pháp tận dụng cơ
hội, khắc phục các khó khăn, thách thức, không lạc quan thái quá và cũng
như không chủ quan trước những thách thức, khó khăn.
Trong mơi trường ràng buộc các mối quan hệ, các biến động của môi
trường quốc tế luôn đặt ra các cơ hội và thách thức, và tùy thuộc vào lợi ích
của các quốc gia mà họ ứng xử với các biến động. Do vậy, các cơ hội,
thách thức đặt ra cũng rất đa dạng, có khi là cơ hội với quốc gia này, nhưng
lại là thách thức với quốc gia khác.
Sự đan xen cơ hội và thách thức không chỉ trong ứng xử quan hệ với
mỗi quốc gia, mà ngay trong từng vấn đề cũng đều bao gồm cả cơ hội và
thách thức. Trong bối cảnh hiện nay, trong mỗi cặp quan hệ quốc tế vừa là
đối tác, vừa là đối tượng. Trong quan hệ với đối tác cũng có cả cơ hội và
thách thức đối với sự phát triển.

Thứ hai, sự chuyển hóa cơ hội và thách thức trong quá trình tác động
đến sự phát triển đi lên CNXH. Thực tế cho thấy cơ hội và thách thức luôn
đan xen với nhau, trong cơ hội có thách thức và ngược lại. Nếu có cơ hội
đến mà chúng ta khơng nhận biết, khơng có khả năng nắm bắt thì sự tụt hậu
khơng chỉ là nguy cơ, mà là các thách thức, các mối đe dọa hiện hữu.
Ngược lại, nếu có chính sách tốt, chúng ta có thể chuyển hóa thách thức
thành cơ hội cho mình.
Cơ hội khơng thể tự biến thành lực lượng vật chất trên thực tế mà nó
tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của mỗi chủ thể khác nhau. Thách
thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu cịn tuỳ thuộc
vào vị thế và nỗ lực vươn lên của các chủ thể. Cơ hội và thách thức không
phải cố định mà luôn vận động, biến đổi và chuyển hóa. Điều đó cũng có
nghĩa thách thức đối với lĩnh vực này có thể lại là cơ hội cho lĩnh vực khác
phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và
đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới cho phát triển. Ngược lại, nếu không



×