Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.77 MB, 156 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
-------o0o-------

LÊ THỊ HUYỀN NGỌC

NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
---o0o---

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

SINH VIÊN THỰC HIỆN
: LÊ THỊ HUYỀN NGỌC
Khóa : 36
MSSV
: 1155020175
GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN : ThS. ĐINH BÁ TRUNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015




LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong tố tụng dân sự” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Đinh Bá Trung, đảm bảo tính trung thực
và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu
trách nhiệm hồn tồn về lời cam đoan này.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày… tháng… năm…

Ngƣời thực hiện

Lê Thị Huyền Ngọc


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt/ kí hiệu

Viết đầy đủ

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày 15 tháng 06 năm
2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2005, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự số 65/2011/QH12 được Quốc hội nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp
thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 03 năm 2011 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012.

2

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố
XI, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày 26 tháng 11 năm
2003 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2004.

3

BLTTDS Pháp

1

BLTTDS
4
Trung Hoa

5

6

7

Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp.

Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
năm 1991.

Dự thảo

Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (Sửa đổi) lần thứ nhất
của Tòa án nhân dân tối cao dự kiến thảo luận tại kỳ
họp thứ 9, khóa XIII, dự kiến thơng qua tại kỳ họp thứ
10, khóa XIII.

LTTHC

Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XII, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 24 tháng 11 năm
2010 có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2011.

Luật Luật sƣ

Luật Luật sư số 65/2006/QH11 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 06 năm 2006 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư số
20/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 20 tháng 11 năm 2012 có hiệu lực thi hành từ


ngày 01 tháng 07 năm 2013.


Luật Trợ giúp
8
pháp lý

Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 06 năm
2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2007.

9

Nghị quyết số
03/2012/NQ-HĐTP

Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP Nghị quyết Hướng
dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất
“Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự
đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được Hội đồng
Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thơng qua ngày 03
tháng 12 năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 07 năm 2013.

10

NBVQVLIPHCĐS

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.


11

Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án
dân sự

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được
Hội đồng nhà nước (nay là Ủy ban thường vụ Quốc
hội) thông qua ngày 29 tháng 11 năm 1989, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1990.

12

TTDS

Tố tụng dân sự.


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............1
1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự .............................................................................1
1.1.1. Khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
tố tụng dân sự ..................................................................................................... 1
1.1.2. Đặc điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng dân sự ............................................................................................ 2
1.2. Ý nghĩa của quy định về ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đƣơng sự trong tố tụng dân sự .............................................................................5
1.2.1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp đương sự
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng dân sự
............................................................................................................................ 5
1.2.2. Sự tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự sẽ góp phần bảo đảm vụ việc dân sự được giải quyết công bằng,
khách quan, đúng pháp luật ................................................................................ 6
1.2.3. Sự tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng ................. 7
1.3. So sánh ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự với ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong
tố tụng hành chính, ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự ............................... 7
1.3.1. So sánh người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố
tụng dân sự với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố
tụng hành chính .................................................................................................. 7
1.3.2. So sánh người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố
tụng dân sự với người bào chữa trong tố tụng hình sự ..................................... 10
1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay.......................................13
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 ................................................... 13


1.4.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2005 ................................................... 15
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay.............................................................. 16
1.5. Quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới về ngƣời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố tụng dân sự và kinh nghiệm cho
Việt Nam ...............................................................................................................17
1.5.1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo pháp luật
Cộng hòa Pháp .................................................................................................. 17

1.5.2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo pháp luật
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa......................................................................... 20
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .................................................................................24
2.1. Chủ thể là ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự ...........................................................................................................24
2.1.1. Luật sư .................................................................................................... 24
2.1.2. Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý ................. 26
2.1.3. Người khác đáp ứng điều kiện do pháp luật quy định ........................... 28
2.2. Điều kiện để ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự tham
gia tố tụng dân sự .................................................................................................30
2.3. Quyền và nghĩa vụ của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự ...........................................................................32
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .................................................. 32
2.3.1.1. Giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm ........................................ 32
2.3.1.2. Giai đoạn tại phiên tòa sơ thẩm ......................................................... 36
2.3.1.3. Giai đoạn sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm ................................... 42
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong giai đoạn xét xử phúc thẩm .............................................. 43
2.3.2.1. Giai đoạn trước khi mở phiên tòa phúc thẩm.................................... 43
2.3.2.2. Giai đoạn tại phiên tòa phúc thẩm..................................................... 43
2.3.2.3. Giai đoạn sau phiên tòa phúc thẩm ................................................... 48


CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...........................50
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về ngƣời

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự ...............................................50
3.1.1. Tình hình tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự..................................................................................................... 50
3.1.2. Bất cập và vướng mắc về việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự..................................................................... 53
3.1.2.1. Về quy định Tòa án chấp nhận một người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự........................................................ 53
3.1.2.2. Về thành phần tham gia phiên hòa giải ............................................. 54
3.1.2.3. Về thủ tục hỏi tại phiên tòa ............................................................... 55
3.1.2.4. Về thủ tục tranh luận tại phiên tòa .................................................... 57
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về ngƣời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự ......................................................59
3.2.1. Về quy định Tòa án chấp nhận một người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự .......................................................... 60
3.2.2. Về thành phần tham gia phiên hòa giải .................................................. 62
3.2.3. Về thủ tục hỏi tại phiên tòa .................................................................... 64
3.2.4. Về thủ tục tranh luận tại phiên tòa ......................................................... 66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp, khơng ai có thể
đứng trên pháp luật. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 1 ghi nhận quyền công dân,
quyền con người: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để
giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và

góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Điều 9 BLTTDS2 thể chế hóa quy
định của Hiến pháp năm 1992: “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự”. Bảo đảm
quyền bảo vệ của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố
tụng dân sự (sau đây gọi tắt là TTDS) và sự tồn tại của quyền này là khách quan,
phù hợp về mặt lý luận, thực tiễn.
Xuất phát từ nguyên tắc này, quá trình giải quyết vụ án dân sự trong TTDS,
bên cạnh cơ quan, người tiến hành tố tụng thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự (sau đây gọi tắt là NBVQVLIPHCĐS) có vai trò rất quan trọng.
TTDS là một hoạt động phức tạp khơng phải đương sự nào cũng có khả năng tự bảo
vệ quyền lợi cho mình. Để bảo đảm quyền được bảo vệ của đương sự, tại khoản 13
Điều 1 BLTTDS quy định khi tham gia tố tụng, đương sự có thể tự mình hoặc nhờ
người khác bảo vệ. Như vậy, pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự.
NBVQVLIPHCĐS có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự đồng thời góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho việc xét xử
của Tòa án được khách quan và đúng pháp luật. So với những năm trước đây sự
tham gia của NBVQVLIPHCĐS trong các giai đoạn tố tụng ngày càng thực hiện có
hiệu quả, góp phần giúp cơ quan, người tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những
thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, loại dần tình trạng lạm dụng quyền trong việc
áp dụng pháp luật và củng cố niềm tin của nhân dân đối với cơ quan tiến hành tố
tụng.
Trong điều kiện hiện nay, dù pháp luật TTDS đã có những sửa đổi, bổ sung
hồn chỉnh hơn về NBVQVLIPHCĐS nhưng trong quá trình thực hiện các quy định
1

Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 11
thơng qua ngày 15 tháng 04 năm 1992 có hiệu lực thi hành ngày 18 tháng 04 năm 1992.
2
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 số: 24/2004/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày 15 tháng 06 năm 2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2005, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự số: 65/2011/QH12 được Quốc hội

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 3 năm 2011 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012 (Sau đây gọi tắt là BLTTDS).


này vẫn còn nhiều bất cập. Quy định về việc Tòa án chấp nhận một người tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cịn gây hiểu sai là Tịa
án có quyền quyết định sự tham gia tố tụng của NBVQVLIPHCĐS, vấn đề tham gia
hòa giải của NBVQVLIPHCĐS chưa thật sự rõ ràng, thiếu tính thống nhất, việc hỏi
và tranh luận tại phiên tòa chưa phát huy được hết vai trò của NBVQVLIPHCĐS,
gây vướng mắc trong việc áp dụng và thực thi hiệu quả pháp luật trên thực tế.
Do đó, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NBVQVLIPHCĐS trong
TTDS góp phần vào công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
tác giả chọn đề tài: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
tố tụng dân sự” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề NBVQVLIPHCĐS không phải là vấn đề mới mẻ, trong thời gian qua
đã có nhiều tác giả cơng bố cơng trình nghiên cứu, bài viết liên quan tới vấn đề này
với phạm vi và mức độ nghiên cứu khác nhau. Trên tạp chí cũng đã có bài viết
nghiên cứu về vấn đề này như:
 “Một số vấn đề về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005” của tác giả Phan Vũ Linh, đăng trên tạp chí
Tạp chí Tòa án nhân dân số 05 (kỳ I tháng 03/2011).
 “Sự cần thiết của luật sư bảo vệ quyền con người trong pháp luật tố tụng”
của tác giả Hoàng Thu Yến, đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 224 (tháng
9/2014).
 “Vị trí, vai trị của trợ giúp pháp lý trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án
nhân dân” của tác giả Lê Hồng Quang, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 11 (kỳ
I tháng 06/2009) .
 “Những thuận lợi, khó khăn đối với hoạt động hành nghề luật sư trong giai
đoạn xét xử tại Tòa án và một số giải pháp hoàn thiện”, của tác giả Nguyễn Hữu

Chính, đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 18 (kỳ II tháng 09/2012).
Theo pháp luật TTDS hiện hành thì NBVQVLIPHCĐS bao gồm: Luật sư,
trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý và người khác đáp ứng
điều kiện do pháp luật quy định3. Các tạp chí trên đều có những nghiên cứu về
NBVQVLIPHCĐS. Tuy nhiên, các bài viết nhìn chung chỉ nghiên cứu về một chủ
thể của NBVQVLIPHCĐS hoặc chỉ nghiên cứu một số vấn đề nhất định liên quan

3

Khoản 2 Điều 63 BLTTDS.


đến NBVQVLIPHCĐS. Vấn đề về NBVQVLIPHCĐS trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm và xét xử phúc thẩm chưa được đi sâu tìm hiểu.
Tại thư viện trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh có các cơng trình
nghiên cứu bao gồm: Khóa luận tốt nghiệp cử nhân “Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự” (2004) của tác giả Phan Thị Thùy Trang; khóa luận tốt
nghiệp cử nhân “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” (2010) của
tác giả Dương Khánh Lộc. Trong đó, khóa luận cử nhân của tác giả Phan Thị Thùy
Trang được viết năm 2004 tại thời điểm này Bộ luật Tố tụng dân sự năm 20044
chưa có hiệu lực, tác giả nghiên cứu vấn đề NBVQVLIPHCĐS theo quy định của
pháp lệnh cũ5. Đối với: Khóa luận cử nhân của tác giả Dương Khánh Lộc năm
2010, thời điểm này Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2011 6 chưa có hiệu lực. Do đó, những sửa đổi, bổ sung về quy định
NBVQVLIPHCĐS chưa được tác giả phân tích.
Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định về
NBVQVLIHPCĐS. Nên tại khóa luận tốt nghiệp này, trên cơ sở có tham khảo các
cơng trình đã nghiên cứu, tác giả bổ sung thêm các nội dung mới. Tính mới của đề
tài này thể hiện ở điểm đây là cơng trình nghiên cứu về hoạt động của
NBVQVLIPHCĐS tập trung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm,

sử dụng tổng hợp các phương pháp để góp phần đưa ra những giải pháp hoàn thiện
quy định của pháp luật TTDS hiện hành về NBVQVLIPHCĐS. Từ đó, ở mức độ
nhất định, tác giả hi vọng khóa luận tốt nghiệp là cơng trình nghiên cứu đầy đủ về
NBVQVLIHPCĐS.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Tác giả hướng tới việc nghiên cứu những cơ sở lý luận, quy định của pháp
luật TTDS hiện hành và phân tích thực tiễn áp dụng quy định liên quan tới
NBVQVLIPHCĐS; nêu ra một số quy định cịn bất cập, vướng mắc, thiếu tính
thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị
nhằm hồn thiện quy định của pháp luật TTDS về NBVQVLIPHCĐS.
Về nhiệm vụ của đề tài, tác giả nghiên cứu khái quát những vấn đề chung về
NBVQVLIPHCĐS trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, tìm hiểu quy định của
4

Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày 15 tháng 06 năm 2004, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2005.
5
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được Hội đồng Nhà nước (nay là Ủy ban thường vụ Quốc
hội) thơng qua ngày 29 tháng 11 năm 1989, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1990 (sau đây gọi
tắt là Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự).
6
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự số 65/2011/QH12 được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 03 năm 2011, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012.


pháp luật một số nước trên thế giới về NBVQVLIPHCĐS trong TTDS từ đó rút ra
kinh nghiệm cho Việt Nam. Thông qua nghiên cứu các quy định của pháp luật kết
hợp với thực tiễn áp dụng, tác giả nêu ra một số quy định về NBVQVLIHPCĐS còn
bất cập, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Từ đó, tác giả đưa ra

một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Khoá luận nghiên cứu cơ sở lý luận, các
quy định về NBVQVLIPHCĐS trong pháp luật TTDS hiện hành, thực tiễn áp dụng
các quy định này để thấy những ưu điểm, bất cập còn tồn tại. Trên cơ sở đó, tác giả
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về NBVQVLIPHCĐS.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định
của pháp luật TTDS hiện hành về NBVQVLIPHCĐS trong vụ án dân sự qua giai
đoạn xét xử sơ thẩm và giai đoạn xét xử phúc thẩm. Vấn đề về NBVQVLIPHCĐS
trong các giai đoạn khác của vụ án dân sự và việc dân sự không nằm trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài khóa luận. Qua đó, tác giả nêu ra những bất cập còn tồn tại
khi áp dụng các quy định đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục và hồn
thiện pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Với đề tài NBVQVLIPHCĐS trong TTDS trên, tác giả sử dụng kết hợp các
phương pháp sau đây để tiếp cận và làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu:
- Phương pháp lịch sử được tác giả sử dụng để nghiên cứu các quy định của
pháp luật Việt Nam về NBVQVLIPHCĐS trong TTDS từ năm 1945 đến nay.
- Phương pháp so sánh được tác giả dùng để so sánh các quy định của pháp
luật về NBVQVLIPHCĐS trong TTDS với NBVQVLIPHCĐS trong tố tụng hành
chính, người bào chữa trong tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương
pháp để so sánh các quy định của pháp luật nước ngoài về NBVQVLIPHCĐS từ đó
rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. Đồng thời phương pháp này còn được tác giả sử
dụng để so sánh quy định của pháp luật TTDS hiện hành và quy định của pháp luật
cũ về thành phần phiên hịa giải từ đó nêu lên những điểm mới của pháp luật về
NBVQVLIPHCĐS.
- Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng
xuyên suốt trong đề tài nghiên cứu của mình để làm rõ vấn đề mà tác giả muốn đề
cập đến và đưa ra kết luận tổng hợp các ý kiến mà tác giả đã phân tích. Ở Chương 1
tác giả sử dụng kết hợp hai phương pháp này để làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý



nghĩa của NBVQVLIPHCĐS và phân tích quy định của pháp luật một số nước trên
thế giới về NBVQVLIPHCĐS trong TTDS và từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt
Nam. Ở Chương 2, tác giả áp dụng phân tích các quy định của pháp luật TTDS hiện
hành và văn bản pháp luật chuyên ngành về NBVQVLIPHCĐS để thể hiện nội
dung các hoạt động chủ yếu của NBVQVLIPHCĐS. Tại Chương 3, tác giả sử dụng
kết hợp hai phương pháp này để phân tích khi tìm hiểu những vướng mắc, khó khăn
của việc áp dụng quy định hiện hành về NBVQVLIPHCĐS trong TTDS, từ đó đưa
ra kiến nghị nhằm hồn thiện quy định pháp luật.
- Cuối cùng, phương pháp thống kê được tác giả sử dụng tại Chương 3 trong
việc tìm hiểu tình hình tham gia tố tụng của NBVQVLIPHCĐS.
Nội dung của khóa luận được đưa ra và phân tích dựa trên các quy định của
pháp luật TTDS hiện hành và các văn bản pháp luật của cơ quan có thẩm quyền ban
hành. Tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp trên để làm rõ vấn đề đề tài
nghiên cứu.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục khóa luận
được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong tố tụng dân sự;
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự;
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự
Pháp luật TTDS điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tố
tụng. Căn cứ vào chức năng tố tụng thì các chủ thể trong TTDS được chia làm hai
nhóm, trong đó NBVQVLIHPCĐS thuộc nhóm thứ hai, cụ thể như sau:
- Nhóm thứ nhất là những chủ thể tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
- Nhóm thứ hai là chủ thể tham gia tố tụng bao gồm đương sự và người
tham gia tố tụng khác. Người tham gia tố tụng khác “là nhóm chủ thể bổ trợ, giúp
Tòa án và đương sự làm sáng tỏ nội dụng vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp.
Họ tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án, đương sự. Họ khơng có quyền, lợi ích
liên quan đến vụ án”7. NBVQVLIHPCĐS là chủ thể thuộc nhóm này.
Theo từ điển tiếng việt phổ thơng 8 thì: “Bảo vệ là chống lại mọi sự xâm
phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn”, “Bảo vệ là bênh vực bằng lý lẽ để giữ
vững ý kiến quan điểm, bảo vệ chân lý”, “Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội
cơng nhận cho được hưởng, được làm, được địi hỏi”, “Lợi ích là điều có ích, có lợi
cho một đối tượng nào đó trong mối quan hệ với đối tượng ấy” và “Hợp pháp là
đúng pháp luật”. Theo đó, có thể hiểu NBVQVLIHPCĐS là người bằng lý lẽ đưa ra
quan điểm chống lại sự xâm phạm tới những điều pháp luật cho hưởng, được làm,
được đòi hỏi của đương sự. Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ
chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan9.
“Đương sự trong việc dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức khơng có tranh chấp
nhưng có u cầu Tịa án cơng nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý

7

Nguyễn Thị Hồi Phương (chủ biên) (2013), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 99.

8
Chu Bích Thu và các tác giả khác (2002), Từ điển tiếng việt phổ thơng, NXB Nhà xuất bản thành phố Hồ
Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 34, 743, 526, 412.
9
Khoản 1 Điều 56 BLTTDS.

1


hoặc u cầu tịa án cơng nhận cho mình về quyền về dân sự, hơn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động10”.
Khoản 1 Điều 63 của BLTTDS quy định: “Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận để
tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Ngồi ra, giáo
trình Luật TTDS Việt Nam Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra khái niệm:
“Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng
có đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ”11. Theo đó, một chủ thể muốn trở thành
NBVQVLIHPCĐS phải đáp ứng những điều kiện nhất định và phải được đương sự
nhờ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích và Tịa án chấp nhận tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Pháp luật hiện hành quy định NBVQVLIHPCĐS bao gồm: Luật sư, trợ giúp
viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý và những chủ thể khác đáp ứng
điều kiện do pháp luật quy định12. Tác giả tập trung nghiên cứu hoạt động bảo vệ
đương sự của các chủ thể trên trước khi thụ lý, trong quá trình giải quyết vụ án dân
sự và sau khi Tòa án đã giải quyết vụ án dân sự bằng bản án đã có hiệu lực pháp
luật. Chủ thể và hoạt động của chủ thể khi tham gia làm NBVQVLIHPCĐS sẽ được
phân tích và làm rõ tại Chương 2 của đề tài nghiên cứu.
1.1.2. Đặc điểm của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự

 Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là ngƣời tham
gia tố tụng
Hoạt động TTDS được thực hiện bởi người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng, nếu thiếu một trong hai chủ thể trên thì sẽ khơng hình thành quan hệ
pháp luật tố tụng. Pháp luật TTDS chia người tham gia tố tụng thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất là đương sự, là nhóm khơng thể thiếu trong hoạt động tố
tụng, có quyền lợi, nghĩa vụ gắn liền với việc giải quyết vụ việc dân sự. Đương sự
trong TTDS bao gồm đương sự trong vụ dân sự và đương sự trong việc dân sự. Họ
là nhóm chủ thể quan trọng liên quan tới mọi phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
TTDS.
10

Nguyễn Thị Hồi Phương (chủ biên) (2013), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 77.
11
Nguyễn Cơng Bình (chủ biên) (2006), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội, tr.
122.
12
Khoản 2 Điều 63 BLTTDS.

2


Nhóm thứ hai là những người tham gia tố tụng khác bao gồm những người
có liên quan đến hoạt động tố tụng: NBVQVLIHPCĐS, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch, người đại diện của đương sự. Họ không phải là những
người có quyền lợi, nghĩa vụ gắn với việc giải quyết vụ việc dân sự nhưng sự tham
gia tố tụng của họ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; giúp
việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, đúng pháp luật.
NBVQVLIHPCĐS là người tham gia tố tụng thuộc nhóm những người tham

gia tố tụng khác bên cạnh đương sự, sự tham gia tố tụng của họ là không bắt buộc,
thể hiện:
- Họ đồng ý nhận lời tham gia tố tụng khi có yêu cầu của đương sự và được
sự chấp nhận của Tòa án tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
- Họ khơng bắt buộc tham gia trong suốt quá trình tố tụng từ khi thụ lý đến
khi giải quyết xong vụ việc dân sự13. Ví dụ, đương sự nhờ và NBVQVLIHPCĐS
nhận lời tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì trong trường hợp có
giai đoạn phúc thẩm NBVQVLIHPCĐS khơng tiếp tục tham gia tố tụng.
- NBVQVLIHPCĐS trong TTDS không bắt buộc phải tham gia tố tụng như
người bào chữa trong tố tụng hình sự trong trường hợp bị can, bị cáo bị truy tố về
tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình; bị can, bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm tâm thần, thể chất14.
Với tư cách là một chủ thể tham gia tố tụng, NBVQVLIHPCĐS được pháp
luật trao cho quyền lợi và nghĩa vụ nhất định15. Họ giúp chủ thể tiến hành TTDS và
đương sự làm sáng tỏ nội dung vụ án, giúp vụ việc dân sự được giải quyết một cách
khách quan, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
 Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là ngƣời am
hiểu pháp luật, tham gia tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho đƣơng sự
NBVQVLIHPCĐS là người am hiểu các quy định của pháp luật để bảo vệ
cho đương sự và giúp đương sự mình nắm được quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Đây là

13

Khoản 1, Điều 64 BLTTDS.
Khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 có hiệu lực thi hàng ngày 01
tháng 07 năm 2004 (Sau đây gọi tắt là BLTTHS).

15
Điều 64 BLTTDS.
14

3


một đặc điểm hết sức quan trọng, cũng là tiêu chí bắt buộc được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật dưới đây:
- Đối với luật sư, tiêu chí này được quy định cụ thể tại: Điều 10 Luật Luật sư
số 65/2006/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 06 năm 2006 có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 01 năm 2007; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư số
20/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày 20 tháng 11 năm 2012 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 07 năm 2013 (sau đây gọi tắt là Luật Luật sư).
- Đối với trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý, tiêu chí
này được quy định cụ thể tại: Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 24 Luật Trợ giúp
pháp lý được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 06 năm 2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
01 năm 2007 (sau đây gọi tắt là Luật Trợ giúp pháp lý).
Việc pháp luật quy định tiêu chí trên bắt buộc là hồn tồn hợp lý không chỉ
với luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý mà còn với
chủ thể khác để trở thành NBVQVLIHPCĐS, họ phải có kiến thức pháp luật. Điều
này thể hiện ở điều kiện trở thành và tham gia của NBVQVLIHPCĐS. Bởi lẽ, chỉ
khi có sự am hiểu về pháp luật thì NBVQVLIHPCĐS mới bảo vệ đương sự mình
một cách tốt nhất. Họ phải có kiến thức pháp lý để tư vấn cho đương sự những quy
định của pháp luật hiện hành, hậu quả pháp lý, những tác động của pháp luật đến
quyền và lợi ích của đương sự. Bên cạnh đó, thơng qua quá trình họ hướng dẫn
đương sự tuân thủ trình tự, thủ tục TTDS; tư vấn đương sự đưa ra những lập luận, lý

lẽ sẽ góp phần nâng cao việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, cũng như làm
sáng tỏ nội dụng vụ án.
 Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự phải có đủ điều
kiện tham gia tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật
Theo Điều 63 BLTTDS và Điều 18 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP16 thì
NBVQVLIHPCĐS phải có đủ điều kiện tham gia TTDS.
“Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương
sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
16

Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy
định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Tố tụng dân sự được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 03 tháng 12 năm
2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2013 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 03/2012/NQHĐTP).

4


pháp của đương sự”17. Như vậy, một người chỉ trở thành NBVQVLIHPCĐS khi
được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự thơng qua hình thức cấp giấy chứng nhận
NBVQVLIHPCĐS.
Sự tham gia tố tụng của NBVQVLIHPCĐS phụ thuộc vào đương sự. Điều
này thể hiện ở việc NBVQVLIHPCĐS “xuất hiện” từ khi đương sự nhờ. Tùy từng
trường hợp cụ thể, người được đương sự nhờ làm NBVQVLIHPCĐS phải xuất
trình cho Tịa án các giấy tờ, tài liệu nhất định. Sau khi nhận được đầy đủ giấy tờ,
tài liệu; nếu họ có đầy đủ các điều kiện, thì Thẩm phán được phân cơng giải quyết
vụ án phải xem xét cấp giấy chứng nhận NBVQVLIHPCĐS để họ tham gia tố tụng.
Nếu họ khơng có đầy đủ các điều kiện thì khơng chấp nhận và thơng báo bằng văn
bản cho đương sự và người bị từ chối biết trong đó cần nói rõ lý do của việc khơng

chấp nhận18.
Do đó, khi đáp ứng được những điều kiện nhất định theo quy định của pháp
luật thì các chủ thể trên mới trở thành NBVQVLIHPCĐS và được phép tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Ngoài đáp ứng điều kiện
theo pháp luật TTDS, để trở thành NBVQVLIHPCĐS, các chủ thể trên phải đáp
ứng những điều kiện riêng do pháp luật chuyên ngành quy định. Điều kiện để các
chủ thể trở thành NBVQVLIHPCĐS sẽ được phân tích và làm rõ tại Chương 2 của
đề tài.
1.2. Ý nghĩa của quy định về ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.2.1. Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự giúp đƣơng sự bảo
vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng dân sự
Pháp luật TTDS quy định đương sự có quyền tự bảo vệ hay nhờ luật sư,
người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp19. Pháp luật tôn trọng quyền định đoạt
của đương sự, bảo đảm quyền công dân, quyền con người. Khi được đương sự nhờ
tham gia tố tụng, NBVQVLIHPCĐS sẽ đóng vai trị quan trọng giúp cá nhân, cơ
quan, tổ chức bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích chính đáng của họ.
NBVQVLIHPCĐS tham gia TTDS sẽ giúp đương sự bảo vệ, nhận thức đúng
và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của đương sự. Đồng thời, NBVQVLIHPCĐS sẽ hỗ
trợ đương sự thu thập, xuất trình chứng cứ; giúp đương sự đưa ra yêu cầu, vận dụng
17

Khoản 1 Điều 63 BLTTDS.
Điều 18 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP.
19
Điều 9 BLTTDS.
18

5



lí lẽ xác đáng làm sáng tỏ tình tiết trong vụ án. Qua đó, NBVQVLIHPCĐS đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của đương sự được thực hiện một cách đầy đủ.
Xuất phát từ chỗ NBVQVLIHPCĐS là người có kiến thức pháp luật, trình độ
hiểu biết và kinh nghiệm tham gia tố tụng, nên họ có nghĩa vụ giúp đỡ đương sự về
mặt pháp lý. Khi nhận nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho đương sự, NBVQVLIHPCĐS
có trách nhiệm tư vấn pháp lý cho đương sự, hướng dẫn họ các bước thực hiện, giải
thích những điều họ chưa hiểu nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Vì thế,
NBVQVLIHPCĐS có vai trị rất lớn trong hoạt động tố tụng nói chung và trong
TTDS nói riêng, góp phần bảo vệ đầy đủ các quyền và lợi ích của đương sự.
1.2.2. Sự tham gia tố tụng của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự sẽ góp phần bảo đảm vụ việc dân sự đƣợc giải quyết công bằng,
khách quan, đúng pháp luật
NBVQVLIHPCĐS có vai trị quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng việc góp phần bảo vệ cơng lý, cơng bằng xã
hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong một nền tư pháp dân chủ xã hội chủ nghĩa
khi mà giá trị quyền con người được tôn vinh và là đích đến của tồn bộ hoạt động
tư pháp thì hoạt động của NBVQVLIHPCĐS với “sứ mệnh” bảo vệ công lý, công
bằng xã hội được coi là một đại lượng để đánh giá uy tín, chất lượng của hoạt động
tư pháp. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi tham gia vào TTDS
phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 12, Điều 13, Điều 16
BLTTDS, tuy nhiên khơng tránh khỏi có sự vi phạm xuất phát từ phía những chủ
thể này. Do đó, sự tham gia của NBVQVLIHPCĐS sẽ góp phần bảo vệ tốt hơn
quyền và lợi ích của đương sự, giúp vụ việc dân sự được giải quyết công bằng,
khách quan, đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, NBVQVLIHPCĐS cịn góp phần kiểm tra, “giám sát” hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ việc dân sự và việc áp dụng
pháp luật của các cơ quan đó. Với sự tham gia của NBVQVLIHPCĐS, quá trình xét
xử vụ án của Tịa án được cơng minh hơn; làm cho người tiến hành tố tụng phải
khách quan, tôn trọng pháp luật hơn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Như vậy, với kiến thức pháp lý vững vàng, NBVQVLIHPCĐS có vai trị
quan trọng, xun suốt trong tồn bộ q trình tố tụng. Hoạt động của
NBVQVLIHPCĐS tuy không phải là hoạt động tư pháp, nhưng lại có mối liên hệ
gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Sự tham gia tích cực
của NBVQVLIHPCĐS trong các giai đoạn của q trình tố tụng có thể xem như
một công cụ hữu hiệu để giúp các cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ được các quyền
6


và lợi ích chính đáng của mình, đảm bảo cho hoạt động tố tụng được thực hiện theo
đúng các quy định của pháp luật, góp phần khơng nhỏ vào việc bảo vệ công lý.
1.2.3. Sự tham gia tố tụng của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nƣớc nói chung và cơ quan tƣ pháp nói riêng
Pháp luật chỉ có thể phát huy được tác dụng, điều chỉnh hiệu quả các quan hệ
xã hội khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp chế và ngược lại, pháp chế chỉ có
thể củng cố và tăng cường khi có một hệ thống pháp luật hồn chỉnh, đồng bộ. Để
có một hệ thống pháp luật hồn chỉnh địi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải thường
xuyên tiến hành hệ thống hóa pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định
pháp luật trùng lặp, mâu thuẫn, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống pháp luật.
Thơng qua việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bằng việc
nắm bắt được các quy định của pháp luật, vận dụng kiến thức pháp luật để tư vấn
trong q trình tố tụng, NBVQVLIHPCĐS góp phần phát hiện những quy định
pháp luật còn bất cập, mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong quá trình áp dụng, giải
quyết vụ việc dân sự. Song song với hoạt động đó, NBVQVLIHPCĐS cịn có thể
đưa ra những ý kiến, đề xuất nhất định nhằm hồn thiện hệ thống pháp luật.
Ngồi ra, NBVQVLIHPCĐS cịn đóng góp cho hoạt động kiểm tra, giám sát
q trình tố tụng và áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền. Bởi lẽ, sự vô tư,
khách quan của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng rất quan trọng.
Bằng việc am hiểu pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng, NBVQVLIHPCĐS có

thể phát hiện yếu tố tiêu cực từ cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Như vậy, hoạt động của NBVQVLIHPCĐS góp phần đảm bảo sự thật khách
quan của vụ việc dân sự và việc áp dụng pháp luật của các cơ quan chức năng đúng
quy định, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng.
1.3. So sánh ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự với ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng hành chính, ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự
1.3.1. So sánh ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự với ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng hành chính
NBVQVLIHPCĐS trong TTDS với NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành
chính hiện nay được pháp luật quy định tương đối giống nhau:
7


 Một là, về chủ thể và điều kiện là NBVQVLIHPCĐS. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 55 LTTHC20 quy định về NBVQVLIHPCĐS: “Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án
chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
Như vậy, một người chỉ trở thành NBVQVLIHPCĐS khi đáp ứng điều kiện: Được
đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng.
NBVQVLIHPCĐS bao gồm: Luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham
gia trợ giúp pháp lý và những người khác đáp ứng điều kiện pháp luật quy định.
Ngoài ra, NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành chính cịn chịu sự điều chỉnh của
các quy định ở pháp luật khác như: Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý21.
Đối với luật sư, theo Luật Luật sư, để được hành nghề luật sư thì cá nhân đó
phải đáp ứng các tiêu chuẩn như: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã
được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian thực tập hành nghề luật sư, có sức khỏe

bảo đảm hành nghề luật sư, có chứng chỉ hành nghề, gia nhập Đoàn luật sư, và hành
nghề tại một văn phòng luật sư22.
Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp theo quy định của Luật
Trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng với tư cách của NBVQVLIHPCĐS ngoài việc
phải tuân thủ theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính cịn phải tn thủ Luật
Trợ giúp pháp lý23.
Ngoài ra, đối với những người khác để bảo vệ QVLIHP của đương sự phải
đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định như: “Cơng dân Việt Nam có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không
thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa
bệnh, cơ sở giáo dục; không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Tịa án,
Kiểm sát và cơng chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an”24.
Quy định trên tương tự như quy định về NBVQVLIHPCĐS trong TTDS,
khi tham gia vào tố tụng cũng phải đáp ứng điều kiện của pháp luật TTDS và các
quy định của pháp luật chuyên ngành25.

20

Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010 có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2011 (sau
đây gọi tắt là LTTHC).
21
Khoản 1, khoản 2 Điều 55 LTTHC.
22
Điều 10 Luật Luật sư.
23
Điều 21 Luật Trợ giúp pháp lý.
24
Điểm c, khoản 2 Điều 55 LTTHC.
25

Khoản 1, khoản 2 Điều 63 BLTTDS.

8


 Hai là, NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành chính có thể bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích
hợp pháp của những người đó khơng đối lập nhau. Nhiều NBVQVLIHPCĐS có thể
cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một đương sự trong vụ án.
NBVQVLIHPCĐS trong TTDS cũng có quy định tương tự về vấn đề này26.
 Ba là, NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành chính có quyền và nghĩa vụ
tương tự NBVQVLIHPCĐS trong TTDS. Họ tham gia tố tụng một cách độc lập. Họ
có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào
trong quá trình tố tụng; xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà
án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ
vụ án; tham gia phiên tồ hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự; thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng khác theo quy định của Luật này; tranh luận tại phiên tồ; phải có mặt
theo giấy triệu tập của Tồ án; tơn trọng Tồ án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy
phiên toà27.
Như vậy, pháp luật hiện nay quy định về chủ thể, điều kiện trở thành
NBVQVLIHPCĐS, quyền và nghĩa vụ của NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành
chính tương tự như quy định về NBVQVLIHPCĐS trong TTDS.
Ngoài các quy định trong pháp luật TTDS, quyền và nghĩa vụ của hai chủ thể
này còn chịu sự điều chỉnh của Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý và văn bản
hướng dẫn liên quan. Tuy nhiên, hai ngành luật TTDS và tố tụng hành chính điều
chỉnh những quan hệ xã hội khác nhau nên giữa những chủ thể này cũng mang
những điểm khác nhau nhất định:
 Một là, đối tượng tranh chấp của vụ án hành chính là tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, danh

sách cử tri, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
được quy định cụ thể tại Điều 28 LTTHC. Trong đó, người khởi kiện là cá nhân, cơ
quan, tổ chức bị xâm hại bởi các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Người bị
kiện ln là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước28. Do
đó, hoạt động của NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành chính khi tham gia hoạt
động tố tụng chủ yếu bảo vệ cho đương sự của mình theo hướng chứng minh quyết
định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật.

26

Khoản 3 Điều 63 BLTTDS; khoản 3 Điều 55 LTTHC.
Khoản 4 Điều 55 LTTHC, Điều 64 BLTTDS.
28
Khoản 6, khoản 7 Điều 3 LTTHC.
27

9


Xuất phát từ tranh chấp dân sự các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của họ bị chủ thể khác xâm phạm. Do đó, khác với NBVQVLIHPCĐS trong
tố tụng hành chính, hoạt động chủ yếu của NBVQVLIHPCĐS trong TTDS khi
tham gia tố tụng chủ yếu bảo vệ cho đương sự theo hướng làm sáng tỏ sự thật vụ án,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
 Hai là, NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành chính tham gia vào q trình
đối thoại, trong khi đó NBVQVLIHPCĐ trong TTDS khơng tham gia đối thoại mà
tham gia hịa giải.
Xuất phát từ đối tượng trong tranh chấp hành chính, quan hệ trong pháp luật
hành chính một bên ln là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan

nhà nước, đại diện cho nhà nước nắm trong tay quyền lực và một bên là cá nhân, cơ
quan, tổ chức bị xâm hại bởi các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Hai chủ thể
này khơng bình đẳng với nhau. Do đó, giữa hai chủ thể này khơng thể tiến hành hịa
giải được mà chỉ có thể đối thoại, bày tỏ ý kiến về đối tượng khởi kiện. Ngược lại,
trong TTDS xuất phát từ tính chất bình đẳng giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ
TTDS, do đó, pháp luật TTDS khơng quy định vấn đề đối thoại mà quy định về hòa
giải tạo điều kiện cho các bên thương lượng giải quyết vụ án trên cơ sở các quy định
của pháp luật. Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do tòa án tiến hành nhằm
giúp đỡ các đương sự tự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự. Chính vì
vậy, NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng hành chính tham gia vào q trình đối thoại
cịn NBVQVLIHPCĐS trong TTDS tham gia vào q trình hịa giải.
Hai ngành luật TTDS và tố tụng hành chính điều chỉnh những quan hệ xã hội
khác nhau nên giữa những chủ thể này cũng mang những điểm khác nhau nhất định.
Trên đây là hai điểm khác biệt giữa chủ thể là NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng
hành chính và NBVQVLIHPCĐS trong TTDS góp phần phân biệt hai chủ thể này.
1.3.2. So sánh ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự với ngƣời bào chữa trong tố tụng hình sự
BLTTHS khơng nêu khái niệm người bào chữa, giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm
“Người bào chữa là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về pháp lý”29.

29

Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2015), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 179.

10



Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì những người có thể trở thành
người bào chữa là luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên
nhân dân30. Người bào chữa được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện
hợp pháp của họ lựa chọn hoặc được các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn
luật sư hoặc mặt trận Tổ quốc cử31. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể, chi
tiết các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa32. Theo đó, vị trí của người bào chữa
được đề cao và có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong tố tụng hình sự. BLTTHS cịn quy định những người không
được trở thành người bào chữa, bao gồm: Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án
đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó và
người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định
hoặc người phiên dịch thì khơng được trở thành người bào chữa33. Quy định này
nhằm đảm bảo sự vô tư khách quan của hoạt động tố tụng hình sự.
NBVQVLIHPCĐS trong TTDS và người bào chữa trong tố tụng hình sự
chung mục đích tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho những chủ thể
tham gia chính trong các hoạt động tố tụng. Do đó, giữa hai chủ thể này có những
điểm giống nhau như:
Hai chủ thể này đều có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng
nói chung cũng như tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên nghành khác như:
Luật Luật sư. Họ đều là người tham gia tố tụng; tham gia nhằm bảo vệ quyền lợi
cho những chủ thể tham gia tố tụng; tham gia tố tụng khi có sự đồng ý của Tịa án,
và của đương sự hay bị can, bị cáo; phụ thuộc vào ý chí của đương sự hay bị can, bị
cáo; được pháp luật trao cho những quyền để có thể tham gia bảo vệ quyền và lợi
ích cho đương sự hay bị can, bị cáo.
Ngồi những điểm giống nhau thì trong quan hệ pháp luật TTDS và tố tụng
hình sự điều chỉnh những quan hệ xã hội khác nhau nên giữa hai chủ thể này có
những điểm khác biệt nhất định, cụ thể như sau:
 Một là, trong pháp luật tố tụng hình sự, ngồi luật sư thì chủ thể tham gia
là người bào chữa cho bị can, bị cáo còn bao gồm bào chữa viên nhân dân và người
đại diện hợp pháp của chủ thể cần bảo vệ. Trong khi đó, pháp luật TTDS quy định

ngồi luật sư là NBVQVLIHPCĐS thì trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia

30

Khoản 1 Điều 56 BLTTHS.
Khoản 2 Điều 57 BLTTHS.
32
Điều 58 BLTTHS.
33
Khoản 2 Điều 56 BLTTHS.
31

11


trợ giúp pháp lý và chủ thể khác được tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự nếu đáp ứng được đủ các điều kiện theo quy định pháp luật34.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định chủ thể tham gia bào chữa có người đại
hiện hợp pháp của người bị tạm giam, bị can, bị cáo35. Người đại diện hợp pháp có
thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền, bởi vì trong
tố tụng hình sự trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của cá nhân người phạm tội,
người đại diện của họ không thể tham gia tố tụng trong tất cả quá trình tố tụng. Vì
vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định người đại hiện hợp pháp của người bị tạm
giam, bị can, bị cáo có thể trở thành người bào chữa tham gia bào chữa cho bị cáo.
Trong khi đó, người đại diện theo quy định trong TTDS thực hiện quyền và
nghĩa vụ của đương sự, cịn NBVQVLIHPCĐS lại có quyền và nghĩa vụ riêng, chịu
trách nhiệm cho chính mình. Họ gồm ba chủ thể: Luật sư, trợ giúp viên pháp lý
hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý và người khác đáp ứng điều kiện luật định.
 Hai là, tố tụng hình sự có một điểm đáng lưu ý là trường hợp bào chữa chỉ
định hay theo lý luận pháp lý gọi là bào chữa bắt buộc. Theo quy định tại Điều 57

BLTTHS bào chữa bắt buộc áp dụng đối với một số chủ thể đặc biệt là: Bị can, bị
cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ
luật hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất thì cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền cử người bào chữa cho bị can, bị cáo trong trường hợp trên.
Trong một số trường hợp nhất định, cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ
chỉ định người bào chữa cho bị can bị cáo còn trong pháp luật TTDS sự xuất hiện
của NBVQVLIHPCĐS là quyền của đương sự. Sự khác biệt này xuất phát từ mối
quan hệ giữa người phạm tội với Nhà nước trong tố tụng hình sự, người phạm tội sẽ
yếu thế hơn khi nhà nước nắm quyền lực. Hơn nữa, khi người phạm tội là người
chưa thành niên, có nhược điểm thể chất, tinh thần thì khả năng am hiểu pháp luật
của họ bị hạn chế; đối với bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao
nhất là tử hình, liên quan đến mạng sống con người, do vậy tố tụng hình sự có
trường hợp bào chữa chỉ định (hay theo lý luận pháp lý gọi là bào chữa bắt buộc).
 Ba là, trong TTDS còn quy định NBVQVLIHPCĐS có quyền xác minh,
thu thập và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu, ghi chép, sao chụp những
tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Xuất phát từ bản chất của vụ việc dân sự, nghĩa vụ chứng minh
34
35

Khoản 1 Điều 56 BLTTHS, Điều 63 BLTTDS.
Khoản 1 Điều 56 BLTTHS.

12


×